Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ nước của dân tộc VIỆT NAM và vận DỤNG TRONG sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC VIỆT NAM xã hội CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.74 KB, 40 trang )

TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM VÀ VẬN DỤNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
1. Khái quát điều kiện địa lý, lịch sử, con người của dân tộc Việt Nam.
2. Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
2.1. Khái quát về lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
2.2. Truyền thống đánh giặc giữ nước.
3. Vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
2
5
5
17
29
38
39

MỞ ĐẦU


2

Dân tộc Việt Nam có một lịch sử lâu đời với nhiều truyền thống tốt
đẹp, rất đáng tự hào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu


của mình. Đã là người Việt Nam, dù ở Bắc hay ở Nam, dù ở miền núi hay
miền xuôi, đều phải hiểu biết và yêu mến lịch sử dân tộc mình, đúng như lời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Đó là đạo lý làm người Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử dân tộc không
phải chỉ để ghi nhớ một số sự kiện, một vài chiến công, những thành tựu kinh
tế, văn hóa nói lên tiến trình đi lên của dân tộc hoặc một vài nhân vật nổi
tiếng, mà còn phải biết tìm hiểu, tiếp nhận, những truyền thống, những nét
đẹp, những tinh hoa của đạo đức, của đạo lý làm người Việt Nam, vì chính đó
là cái gốc của mọi sự nghiệp lớn hay nhỏ của dân tộc không chỉ ở thời xưa mà
cả ở ngày nay và mai sau.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước gắn
với những chiến công oanh liệt trải dài trong lịch sử dân tộc. Và cũng chính từ
lịch sử ấy, từ những chiến công ấy qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc đã hun đúc và hình thành một cách tự nhiên truyền thống đánh giặc
giữ nước của dân tộc Việt Nam và nó trở thành biểu tượng nét đẹp trong cốt
cách truyền thống văn hóa Việt Nam. Truyền thống đánh giặc giữ nước được
gây dựng, bồi đắp lưu truyền qua nhiều thế hệ, là nét đặc sắc, tiêu biểu, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta
để từ đó vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

NỘI DUNG


3
1. Khái quát điều kiện địa lý, lịch sử, con người của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp Trung Quốc,

phía Tây và Tây Nam giáp các nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và
Vương quốc Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp Biển Đông (Thái Bình
Dương) với 3260 km đường bờ biển và khoảng trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ.
Việt Nam có diện tích khoảng 331.590 km2 đất liền và khoảng 700.000 km2
thềm lục địa, phần biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền. Do có vị thế
tự nhiên đặc biệt như vậy nên Việt Nam sớm trở thành cửa ngõ, yết hầu giao
thông quan trọng, là chiếc cầu nối giữa Châu Á và Thái Bình Dương, giữa
Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của các luồng
đường, luồng hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, nơi tiếp xúc và giao
thoa của nhiều nền văn hóa, văn minh lớn trên thế giới.
Địa hình Việt Nam khá đặc biệt: hai đầu phình ra (Bắc Bộ và Nam Bộ)
ở giữa thu hẹp lại và kéo dài (Trung Bộ). Thiên nhiên Việt Nam đa dạng bao
gồm các vùng đồng bằng, ven biển, trung du, cao nguyên và núi rừng, với
hàng loạt sông ngòi lớn nhỏ, khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hơn nữa Việt Nam lại
nằm ở vị trí có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú “rừng vàng, biển
bạc”, đất đai phì nhiêu, màu mỡ… và cùng với bản tính của người dân Việt
Nam là rất cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, đã tạo ra cho
đất nước Việt Nam có đầy đủ những điều kiện để phát triển một nền kinh tế
toàn diện. Bên cạnh những thuận lợi do thiên nhiên “hào phóng” đem lại, còn
có hàng loạt những khó khăn như bão, lụt, áp thấp nhiệt đới và gió mùa đông
bắc khắc nghiệt. Chính trong cuộc đấu tranh với những thiên tai đó, để không
ngừng tồn tại, sản xuất, phát triển, con người Việt Nam đã gắn bó sâu sắc với
quê hương, đất nước mình, đoàn kết chặt chẽ với nhau, vươn lên không ngừng
về trí tuệ và sự năng động. Đồng thời, qua hàng ngàn năm đấu tranh với thiên
nhiên, lao động sản xuất đã hun đúc nên tâm hồn cốt cách con người Việt Nam.
Đó là những con người chất phác, giản dị, yêu lao động, yêu thiên nhiên, yêu


4
con người, yêu hòa bình, yêu cuộc sống, bền bỉ dẻo dai, chịu đựng gian khổ,

khắc phục khó khăn, đấu tranh anh dũng kiên cường bất khuất…
Từ cổ xưa, miền Đông của Châu Á đã là nơi sinh sống của những con
người đầu tiên trên trái đất (người vượn Giava, người Bắc Kinh). Những di
tích, di vật khảo cổ học phong phú, đa dạng và liên tục đã xác nhận một thực
tế hiển nhiên là cùng với quá trình hình thành đất nước, con người Việt Nam,
tổ tiên ta đã đồng thời khai chiếm cả núi rừng, đồng bằng và biển cả, đã triệt
để khai thác và thích nghi với điều kiện tự nhiên, tạo nên thế mạnh căn bản
của cộng đồng ngay từ thuở khai sinh. Nước Việt Nam nằm ở khu vực nối
liền hai đại dương: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, vùng hải đảo và lục
địa châu Á nên cũng là nơi tụ cư của nhiều tộc người khác nhau. Cho đến nay,
trên lãnh thổ Việt Nam có 54 tộc người sinh sống với 8 nhóm ngôn ngữ khác
nhau như: Việt- Mường, Tày- Thái, H’mông- Dao, Tạng- Miến, Hán, MônKhơme, Mã lai- Đa đảo và hỗn hợp Nam Á. Lãnh thổ và cư dân Việt Nam
được hình thành và định hình trong tiến trình lịch sử đất nước. Lịch sử Việt
Nam là lịch sử của một cộng đồng cư dân nhiều tộc người, có tộc người đa số,
có các tộc người thiểu số, có tộc người đến trước, có tộc người đến sau, nhưng
một khi đã hòa chung vào cộng đồng dân tộc Việt thì chung sức chung lòng
cùng nhau dựng nước và giữ nước. Suốt trong chiều dài lịch sử, nhân dân các
dân tộc cả đa số và thiểu số, cả miền núi và miền xuôi đã cùng nhau xây đắp
nên phẩm chất, cốt cách của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, tạo dựng
nên một nền văn hóa, văn hiến Việt Nam độc đáo, với nhiều giá trị cao đẹp.
Do có những điều kiện tự nhiên- xã hội thuận lợi và nằm ở vị trí địa lý
chiến lược quan trọng nên Việt Nam sớm trở thành mục tiêu xâm lược, nô
dịch, đồng hóa của nhiều nước lớn trong khu vực và trên thế giới từ trước đến
nay. Bởi vậy, ngay từ buổi đầu dựng nước, chống giặc ngoại xâm đã trở thành
một nhiệm vụ cấp thiết, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và
phát triển của dân tộc Việt Nam. Trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của
dân tộc, nhân dân ta đã phải đương đầu với nhiều thế lực xâm lược hung hãn,


5

có lúc phải đối đầu lịch sử với đội quân xâm lược vào loại hùng mạnh nhất
của thế giới đương đại. Song thời nào cũng vậy, nhân dân Việt Nam luôn nêu
cao cảnh giác, chuẩn bị lực lượng đề phòng giặc ngay từ thời bình; trong
chiến tranh, vừa chiến đấu, vừa sản xuất, xây dựng đất nước và sẵn sàng đối
phó với âm mưu của kẻ thù. Vì vậy, đánh giặc, giữ nước là nhiệm vụ thường
xuyên, cấp thiết và luôn luôn gắn liền với nhiệm vụ xây dựng đất nước.
Đặc biệt, Việt Nam ở một vị trí mà biên giới của chúng ta gắn liền với
Trung Quốc- một nước lớn, khổng lồ, luôn luôn có tư tưởng “bành trướng”
xuống phía Nam, nên nước ta thường xuyên bị các thế lực bành trướng ngoại
bang phía Bắc nhòm ngó và tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, thôn
tính. Tất cả các triều đại phong kiến thống trị ở Trung Quốc: Tần, Triệu, Hán,
Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường, Nguyên, Minh, Thanh... đã mở nhiều cuộc
chiến tranh xâm lược, bành trướng, đồng hoá dân tộc Việt Nam, nhưng cuối
cùng chúng đều thất bại trước truyền thống đánh giặc giữ nước độc đáo của
dân tộc Việt Nam. Có thể thấy lịch sử dân tộc Việt Nam không những trong
thời trung cổ bị các đế chế phong kiến phương Bắc xâm lược mà bước sang
thời kỳ cận đại, hiện đại các thế lực đế quốc thực dân phương Tây tiếp tục với
ý đồ xâm lược hoặc trực tiếp xâm lược thống trị nước ta như: Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Hà Lan, Anh và trực tiếp là Pháp, Nhật, Mỹ sang xâm lược nước ta.
Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử, kể cả những lúc phát triển
cao vẫn là một đất nước không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng có hạn. Nhưng thật hiếm có một quốc gia, dân tộc nào trên thế
giới có đặc điểm lịch sử như Việt Nam. Trong mấy nghìn năm lịch sử đã có
hơn một nghìn năm phải trực tiếp cầm vũ khí chống ngoại xâm. Nếu chỉ tính
từ khi có sử liệu ghi chép rõ ràng thì từ cuộc kháng chiến chống Tần xâm
lược đến nay là 22 thế kỷ, dân tộc ta đã phải trực tiếp kháng chiến suốt 13 thế
kỷ. Quá trình chống kẻ thù xâm lược, giữ nước hoặc giải phóng dân tộc hoặc
bảo vệ tổ quốc ở mỗi thời đại lịch sử có khác nhau, song rốt cuộc thì dù dài,
dù ngắn, nhân dân ta đều đánh bại kẻ thù xâm lược, giải phóng được dân tộc.



6
Vận nước có lúc thịnh, lúc suy, song mỗi khi có kẻ thù xâm lược, nhân dân ta
lại cố kết cùng nhau đứng lên chiến đấu chống bọn xâm lăng, bảo tồn giống
nòi, văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính từ lịch sử ấy, truyền thống ấy qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc và hình
thành một cách tự nhiên truyền thống đánh giặc giữ nước và nó trở thành
truyền thống quý báu và độc nhất vô nhị của dân tộc Việt Nam mà trên thế
giới không một dân tộc, quốc gia nào có được.
2. Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
2.1. Khái quát về lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
- Buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Cách đây mấy nghìn năm lịch sử, từ thuở các vua Hùng dựng nước
Văn Lang, dân tộc ta đã bước vào thời đại dựng nước và giữ nước. Nhà nước
Văn Lang là nhà nước đầu tiên của dân tộc ta. Từ buổi đầu, ông cha ta đã xây
dựng nên nền văn minh sông Hồng- còn gọi là văn minh Văn Lang, mà đỉnh
cao là văn hóa Đông Sơn rực rỡ, là thành quả tự hào của người Việt thời đại
Hùng Vương. Tuy nhiên, cùng với quá trình dựng nước thì dân tộc ta đã phải
liên tiếp đương đầu với nhiều mối đe dọa dồn dập từ bên ngoài. Để bảo vệ
non sông, gấm vóc của mình, dân tộc ta phải bao lần đứng lên chống ngoại
xâm. Truyền thuyết dân gian còn lưu lại nhiều sự tích chống xâm lăng của
dân tộc như chống giặc Man, giặc Ân, giặc Hồ Tôn, giặc Mũi Đỏ…
Vào cuối đời Hùng Vương, nạn ngoại xâm càng trở thành mối đe dọa
nghiêm trọng. Lúc này ở Trung Quốc, “chủ nghĩa bành trướng Đại Hán” đã ra
đời và bắt đầu nhòm ngó, mở rộng xâm lược xuống phương Nam. Cuộc chiến
tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến chống quân
Tần. Năm 214 trước Công nguyên, nhà Tần mang quân xâm lược nước ta.
Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Hùng và sau đó là Thục Phán (An
Dương Vương) đã đứng lên kháng chiến chống xâm lược. Cuộc chiến đấu
kiên cường, dũng cảm của nhân dân ta đã làm cho chủ tướng của giặc là Đồ



7
Thư bỏ mạng, “quân Tần thây phơi, máu chảy, hàng mấy chục vạn” 1. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta chống quân xâm lược Tần thắng lợi, An Dương
Vương thành lập nhà nước Âu Lạc, dựng kinh đô ở Cổ Loa và tiếp tục xây
dựng đất nước. Có thể nói, thời kỳ Văn Lang- Âu Lạc là thời kỳ bắt đầu dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta, là một thời kỳ phát triển rực rỡ của lịch sử
dân tộc, thời kỳ xây dựng nên nền tảng dân tộc Việt Nam, nền văn hóa, lối
sống, tính cách và truyền thống Việt Nam.
- Cuộc đấu tranh giành độc lập (từ thế kỷ I đến thế kỷ X).
Sau cuộc kháng chiến chống quân Tần, cuộc kháng chiến của nhân dân
Âu Lạc do An Dương Vương lãnh đạo chống quân xâm lược của Triệu Đà từ
năm 184 đến 179 trước Công nguyên bị thất bại. Từ đây, đất nước ta rơi vào
thảm họa hơn một nghìn năm phong kiến Trung Hoa đô hộ, lịch sử gọi là thời
kỳ Bắc thuộc. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã có biết bao đau thương, tủi
nhục mà nhân dân ta phải chịu đựng. Kẻ đô hộ đâu chỉ dừng lại ở vơ vét của
cải, áp bức bóc lột mà còn rắp tâm xóa bỏ độc lập, chủ quyền của nhân dân ta,
ráo riết thực hiện chính sách đồng hóa dân ta, biến nước ta thành quận huyện
của chúng. Những gì là cơ sở tồn tại, là sức mạnh tinh thần để phục hồi quốc
gia, quốc thể từ lãnh thổ, tiếng nói, phong tục tập quán, lối sống, ý thức tư
tưởng của dân tộc ta đều bị chúng dùng trăm phương nghìn kế để hủy diệt.
Song, đâu chỉ có Bắc thuộc, nhân dân ta quyết không chịu khuất phục,
đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường và bền bỉ chống áp bức, bóc lột, giữ
gìn bản sắc dân tộc và liên tiếp đứng lên đấu tranh giành lại độc lập tự chủ.
Mở đầu phong trào giải phóng dân tộc là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị là con của lạc tướng huyện Mê Linh, thuộc
dòng dõi “họ Hùng”). Vào mùa xuân năm 40, dưới sự lãnh đạo của hai vị nữ
tướng, nhân dân ba quận đã nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm, nhanh
chóng lật đổ nền thống trị của nhà Đông Hán, thiết lập chính quyền độc lập,

đóng đô ở Mê Linh. Nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững trong ba
1

Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010, tr.48.


8
năm thì quân Hán do Mã Viện chỉ huy tràn sang xâm lược. Cuộc kháng chiến
giữ nước của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị thất bại, nước ta lại rơi
vào ách đô hộ của nhà Hán. Tiếp tục sự nghiệp của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi
nghĩa chống lại nền đô hộ của phong kiến phương Bắc liên tiếp nổ ra, nhiều cuộc
khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng có quy mô rộng lớn.
Năm 248 cuộc khởi nghĩa của nhân dân Cửu Chân dưới sự lãnh đạo của
Bà Triệu (tức Triệu Thị Trinh quê ở Nông Cống- Thanh Hóa) đã bùng nổ.
Nghĩa quân đã đánh thắng quân Ngô nhiều trận, triệt hạ nhiều thành ấp. Quan
lại của nhà Ngô từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng kẻ bị giết, kẻ phải
chạy trốn. Từ Cửu Chân cuộc khởi nghĩa lan ra Giao Chỉ ở ngoài Bắc, giết
chết thứ sử Giao Châu, thế lực nghĩa quân ngày càng mạnh, quân số có tới
hàng vạn người. Nhà Ngô lo sợ phải điều động hơn 8000 quân do An Nam
hiệu úy Lục Giận chỉ huy sang đàn áp. Bà Triệu đã lãnh đạo nghĩa quân chiến
đấu đến cùng và hy sinh anh dũng trên núi Tùng (Hậu Lộc- Thanh Hóa).
Năm 468 nhân cơ hội thứ sử Giao Châu là Trương Mục bị chết, Lý
Thường Nhân đã lãnh đạo nhân dân giết chết bọn quan lại đô hộ và tự xưng là
thứ sử. Nhà Tống ba lần cử thứ sử sang thay thế Trương Mục đều bị Lý
Thường Nhân đánh lui. Được vài năm, Lý Thường Nhân chết, người em họ là
Lý Thúc Hiến lên thay. Lý Thúc Hiến không nhận thứ sử từ phương Bắc
sang. Năm 479 nhà Tề buộc phải công nhận Lý Thúc Hiến làm thứ sử Giao
Châu. Năm 485 sau khi củng cố được chính quyền, nhà Tề điều động một lực
lượng mạnh sang Giao Châu, Lý Thúc Hiến buộc phải đầu hàng.
Năm 542 cuộc khởi nghĩa toàn dân do Lý Bí- một hào trưởng huyện

Thái Bình quận Giao Chỉ lãnh đạo đã bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa được các
tầng lớp nhân dân ủng hộ nên đã nhanh chóng lật đổ chính quyền đô hộ của
nhà Lương. Năm 544 Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt
niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, tiến hành xây dựng nhà
nước theo chế độ tập quyền trung ương. Mùa hè năm 545 nhà Lương đem
quân sang xâm lược nước ta. Trước sức mạnh của quân địch, Lý Bí phải chạy


9
về động Khuất Lão và giao lại quyền bính cho Triệu Quang Phục, sau đó lui
quân về đóng ở đầm Dạ Trạch. Trong những năm 545- 557 cuộc kháng chiến
của nhân dân ta chống lại quân xâm lược nhà Lương do Triệu Quang Phục
lãnh đạo giành thắng lợi. Đến năm 571 Lý Phật Tử đánh úp Triệu Quang
Phục, chiếm đoạt toàn bộ quyền hành, đất đai và tự xưng là Lý Nam Đế (hậu
Lý Nam Đế). Năm 602- 603 cuộc kháng chiến chống nhà Tùy xâm lược của
Lý Phật Tử bị thất bại, nước ta lại bị rơi vào ách thống trị của nhà Tùy.
Năm 678 Đinh Kiến, Lý Tự Tiên lãnh đạo nhân dân chống nhà Tùy đô
hộ, đánh chiếm phủ thành Tống Bình (Hà Nội), giết chết viên quan đô hộ phủ
Lưu Diên Hựu.
Năm 722 Mai Thúc Loan đã hiệu triệu những người dân phu đi gánh vải
nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt, nhiều
nghĩa sĩ nhân tài khắp vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh đã kéo về tụ nghĩa dưới cờ của
Mai Thúc Loan. Ông còn liên kết với các nước Chămpa, Chân Lạp để cùng
nhau chống nhà Đường. Mai Thúc Loan tự xưng là Hoàng đế, xây thành trên
núi và lấy vùng Sa Nam hiểm yếu làm căn cứ chống giặc. Ít lâu sau, nhà
Đường cử Dương Tư Húc cùng Quang Sở Khanh đem 10 vạn quân tiến sang
đàn áp cuộc khởi nghĩa. Mai Hắc Đế thất trận, nghĩa quân tan vỡ.
Năm 766 Phùng Hưng- một hào trưởng đất Đường Lâm đã phát động
một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chính quyền đô hộ nhà Đường. Ban đầu
nghĩa quân đánh chiếm các vùng xung quanh Đường Lâm, rồi đánh chiếm

được cả một vùng rộng lớn quanh Phong Châu và xây dựng thành căn cứ
chống giặc. Trên cơ sở lực lượng phát triển mạnh, Phùng Hưng tiến đánh và
chiếm được phủ thành Tống Bình, tổ chức việc cai trị. Sau 7 năm, Phùng
Hưng mất, con là Phùng An lên thay. Năm 791 nhà Đường cử Triệu Xương
làm đô hộ An Nam đem quân sang đàn áp. Cuối năm 791 Phùng An đầu hàng
nhà Đường, cuộc khởi nghĩa chấm dứt.
Năm 819 nhân việc viên quan đô hộ nhà Đường là Lý Tượng Cổ điều
Dương Thanh đem 3000 quân đàn áp vùng Hoàng Động, Dương Thanh đã


10
cùng con và những người thân tín kêu gọi binh lính chống lại Lý Tượng Cổ,
chiếm thành Tống Bình. Nhưng chỉ ít lâu sau, cuộc khởi nghĩa bị quân Đường
tấn công tiêu diệt.
Năm 905 nhân cơ hội chính quyền trung ương nhà Đường đang đứng
trước nguy cơ sụp đổ, Khúc Thừa Dụ- một hào trưởng, người đứng đầu một
dòng họ lớn, lâu đời ở Hồng Châu- được sự ủng hộ của dân chúng đã nổi dậy lật
đổ chính quyền đô hộ của nhà Đường, tiến quân ra phủ thành Tống Bình. Năm
906 nhà Đường buộc phải công nhận chính quyền của Khúc Thừa Dụ và phong
ông làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ rồi tiếp đó ban thêm chức Đồng bình chương sự.
Tuy vẫn nhận danh hiệu một chức quan của nhà Đường nhưng trong thực tế và về
thực chất Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, đặt cơ sở cho nền
độc lập bền lâu của dân tộc. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta liên tục
trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã giành được thắng lợi căn bản. Năm 907
Khúc Thừa Dụ mất, con ông là Khúc Hạo lên kế vị, tiếp tục sự nghiệp và tinh thần
tự chủ của cha mình. Dựa vào sự ủng hộ của nhân dân, Khúc Hạo đã thực hiện
một số cuộc cải cách về nhiều mặt nhằm xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ,
thoát dần ảnh hưởng và sự khống chế của các thế lực thống trị phương Bắc.
Năm 930 nhà Nam Hán nhân cớ họ Khúc thần phục nhà Hậu Lương và có
ý chống lại Nam Hán, đã sai Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh đem quân xâm

lược nước ta. Vì thiếu chuẩn bị, Khúc Thừa Mỹ không chống nổi giặc và bị bắt
đưa về Trung Quốc, nước ta lại bị rơi vào tay nhà Nam Hán. Năm 931 được sự
ủng hộ của nhân dân và hào kiệt khắp nơi, Dương Đình Nghệ (vị tướng cũ của
họ Khúc) tổ chức lực lượng tiến quân ra Giao Châu. Thứ sử Lý Tiến chống cự
không nổi phải bỏ chạy về nước. Dương Đình Nghệ nhanh chóng củng cố thành
Đại La, huy động lực lượng và nhanh chóng đánh tan cuộc hành quân tiếp viện
của Nam Hán do Thừa chỉ Trần Bảo chỉ huy. Dẹp xong quân giặc, Dương Đình
Nghệ tự xưng Tiết độ xứ, tiếp tục công cuộc tự chủ của họ Khúc.
Năm 937 Dương Đình Nghệ bị viên thuộc tướng phản bội là Kiều Công
Tiễn ám hại để đoạt chức tiết độ sứ. Được tin Ngô Quyền (người làng Đường


11
Lâm con của thứ sử Ngô Mân và là con rể Dương Đình Nghệ) từ vùng châu
Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn hoảng sợ cho người
chạy sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nền độc lập của dân tộc mới được khôi
phục lại bị đe dọa nghiêm trọng cả bên ngoài lẫn bên trong. Trước yêu cầu
của lịch sử, Ngô Quyền được sự ủng hộ của nhân dân đã giết chết Kiều Công
Tiễn, cùng quân sĩ và nhân dân chuẩn bị cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo
của Ngô Quyền, nhân dân ta đã lập nên chiến công oanh liệt trên sông Bạch
Đằng, chỉ trong một ngày nhân dân ta đã quét sạch quân địch ra khỏi bờ cõi,
Vạn vương Hoằng Tháo phải bỏ mạng.
Chiến thắng Bạch Đằng Năm 938 được ghi vào lịch sử dân tộc như một
chiến công hiển hách “một vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu há phải chỉ
lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu! (Ngô Thời Sĩ)” 1. Chiến thắng Bạch
Đằng là cái mốc bản lề của lịch sử Việt Nam, nó chấm dứt vĩnh viễn nền
thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc
lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta.
- Các cuộc chiến tranh giữ nước (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX).
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi vua, bắt tay vào xây

dựng nhà nước độc lập. Từ đó, trải qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần
Hồ và Lê sơ (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV) quốc gia thống nhất ngày càng được
củng cố. Nước Đại Việt thời Lý, Trần và Lê sơ với kinh đô Thăng Long là
một quốc gia cường thịnh ở châu Á, là một trong những thời kỳ phát triển rực
rỡ nhất, thời kỳ văn minh Đại Việt. Tuy nhiên, trong giai đoạn này dân tộc ta
vẫn phải đứng lên đấu tranh chống xâm lược. Biểu hiện:
Hai lần kháng chiến chống Tống xâm lược: Năm 981 quân và dân Đại
Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đã đánh tan cả hai đạo quân thủy, bộ
của giặc ở Bạch Đằng và Chi Lăng ngay khi chúng mới xâm nhập vào cửa ngõ
đất nước ta. Năm 1075 quân Tống lăm le xâm lược nước ta một lần nữa. Với tư
tưởng tiến công để tự vệ “ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để
1

Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010, tr.108.


12
chặn mũi nhọn của giặc”, Lý Thường Kiệt đã tổ chức cuộc tập kích táo bạo, bất
ngờ vào đất Tống, tiêu diệt căn cứ xuất phát xâm lược của chúng. Và đến năm
1077 với chiến thắng sông Như Nguyệt (sông Cầu) quân dân Đại Việt đã đánh
tan trên 30 vạn quân địch, làm thất bại hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Tống.
Ba lần kháng chiến chống Mông- Nguyên (1258 - 1288): Dưới sự lãnh
đạo của nhà Trần, với nhà quân sự thiên tài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn, với tinh thần “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”,
nhân dân cả nước đứng lên trên dưới một lòng, sẵn sàng chịu đựng hy sinh,
gian khổ, quyết đánh, quyết thắng. Trong cả ba lần xâm lược, với tổng số quân
trên một triệu tên, đế quốc Mông- Nguyên một tên đế quốc lớn và hung hãn
nhất thế giới lúc bấy giờ đã bị thất bại nhục nhã. Những chiến thắng lẫy lừng
của nhân dân ta ở Đông Bộ Đầu trong kháng chiến lần thứ nhất (1258); Hàm
Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và

đặc biệt là đại thắng Bạch Đằng trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288) còn
mãi mãi lưu truyền trong sử sách, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.
Khởi nghĩa Lam Sơn và cuộc kháng chiến chống quân Minh (1418-1427):
Đầu thế kỷ XV, nước ta bị quân Minh xâm lược, nhà Hồ lãnh đạo kháng
chiến không thành công. Tuy vậy, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc ta vẫn được phát huy mạnh mẽ. Mùa xuân năm 1418 Lê Lợi dựng cờ khởi
nghĩa, cuộc khởi nghĩa đã phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc trên
quy mô cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, sau mười năm
hi sinh, gian khổ, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhân dân ta đã
giành thắng lợi oanh liệt, với chiến thắng Tốt Động- Chúc Động (1426) diệt 6
vạn quân địch, trận vây hãm Đông Quan và chiến thắng Chi Lăng- Xương
Giang (1427) nổi tiếng diệt gọn 10 vạn tên địch. Cuối cùng tướng giặc Vương
Thông cùng 10 vạn quân Minh phải xin đầu hàng. Cuộc chiến tranh kết thúc,
chủ quyền dân tộc Việt Nam được khẳng định.
Khởi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến diệt quân Xiêm, đại phá
quân Thanh: Vào mùa xuân năm 1771, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn


13
Huệ đã lần lượt vùng lên khởi nghĩa đập tan chính quyền phong kiến phản động
của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Tên bán nước Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm
rước 2 vạn thủy quân, 300 chiếc thuyền và 3 vạn bộ binh sang xâm lược nước ta.
Nhưng đội quân “áo vải cờ đào” dưới sự chỉ huy tài tình của Nguyễn Huệ đã lập
nên chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút (19/5/1785) đánh tan 5 vạn quân Xiêm.
Lịch sử còn ghi lại: “Người Xiêm sau trận thua năm Giáp Thìn (1785) ngoài
miệng tuy nói khoác nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn như sợ cọp” 1. Năm
1788 Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”, rước 29 vạn quân Thanh vào dày
xéo đất nước ở phía Bắc. Với tinh thần: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen
răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hòa, đánh cho
sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”, bằng một chiến dịch tấn công thần tốc,

với những đòn quyết định ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa, chỉ
sau 5 ngày đêm chiến đấu (đầu xuân Kỷ Dậu 1789) quân ta đã đập tan 29 vạn
quân Thanh, khôi phục quốc gia thống nhất, bảo vệ độc lập dân tộc.
- Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân nửa phong
kiến (thế kỷ XIX đến 1945).
Ngày 1/9/1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng
giặc và đến năm 1884 thì dâng toàn bộ đất nước ta cho giặc. Với ý chí quật
cường, bất khuất của dân tộc, phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của
ông cha, nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã đứng lên chống Pháp. Giặc đi đến
đâu cũng vấp phải phong trào kháng chiến sôi nổi và bền bỉ của nhân dân ta,
chúng phải mất 30 năm mới thôn tính được toàn bộ nước ta. Tiếp theo đó, dưới
ách đô hộ tàn bạo của thực dân Pháp, ở khắp nơi vẫn không ngớt bùng nên
những cuộc khởi nghĩa, những phong trào yêu nước rộng lớn. Tiêu biểu cho
các phong trào kháng chiến và các cuộc khởi nghĩa đó là phong trào kháng
chiến của Trương Định (1861- 1864); Nguyễn Trung Trực (1861- 1868);
Phong trào Cần Vương (1885- 1896); Khởi nghĩa Ba Đình của Phạm Bành và
1

Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010, tr.419.


14
Đinh Công Tráng (1886- 1887); Khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật
(1885- 1889); Khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885- 1896); Khởi
nghĩa của Tống Duy Tân (1886- 1892); Khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám (1885- 1913). Sang thế kỷ XX, phong trào yêu nước của nhân dân ta phát
triển lên một bước mới với những hoạt động sôi nổi của Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh và những cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Thái Nguyên. Tuy quần chúng
tham gia với lòng yêu nước và dũng khí rất cao, nhưng tất cả những phong trào

yêu nước trên đều bị thất bại. Nguyên nhân cơ bản do thiếu sự lãnh đạo của một
giai cấp tiên tiến, có đường lối đúng, phù hợp với điều kiện mới của thời đại.
Dưới ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc: “Muốn cứu nước,
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1.
Người đã đưa nhân dân ta đến với Chủ nghĩa Mác- Lênin và thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam (3/2/1930). Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam “là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”2. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam ở trong tình
trạng “đen tối không có đường ra”, thời kỳ bế tắc khủng hoảng về đường lối.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta trải qua các cao trào Xô
Viết- Nghệ Tĩnh 1930- 1931; Phong trào Dân chủ đòi tự do, cơm áo và hòa bình
1936- 1939; Phong trào Phản đế và phát động toàn dân tổng khởi nghĩa 19391945, đỉnh cao là thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Tám năm 1945 lập ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công- nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945- 1954).
Không chịu từ bỏ dã tâm cai trị nước ta, ngày 23/9/1945 được quân
Anh giúp sức, thực dân Pháp lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta
lần thứ hai. Trong điều kiện nước ta còn nhiều khó khăn, phải đương đầu với
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2009, tr.314.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2009, tr.8.


15
nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
sách lược tài tình, khéo lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của địch, tranh thủ hòa hoãn
với Pháp, đẩy nhanh 20 vạn quân Tưởng về nước để chuẩn bị kháng chiến lâu

dài với thực dân Pháp. Nhưng “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa” 1. Ngày 19/12/1946 trong lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta thà hi
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”2.
Cả dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhất tề đứng lên,
đoàn kết chặt chẽ, quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do và thống nhất.
Từ năm 1947- 1954 quân dân ta đã lập được nhiều chiến công, làm thất
bại nhiều cuộc hành binh lớn của Pháp trên khắp các mặt trận. Tiêu biểu là
chiến thắng Việt Bắc- Thu Đông (1947); Chiến thắng Biên Giới (1950);
Chiến thắng Tây Bắc (1952); Chiến thắng Đông Xuân (1953- 1954) mà đỉnh
cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Sau chín năm chiến đấu cực
kỳ gian khổ và anh dũng, với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ quân và dân
ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dan Pháp và can thiệp của
Mĩ, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954, miền Bắc nước ta hoàn
toàn giải phóng. Thắng lợi của nhân dân ta trong kháng chiến chống Pháp đã
một lần nữa khẳng định truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954- 1975).
Đế quốc Mĩ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp để nhảy vào
miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự của Mĩ, nhằm chia cắt lâu dài
nước ta. Chúng đã huy động vào cuộc chiến tranh trên 6 triệu lượt lính Mĩ,
đưa vào miền Nam nước ta khoảng 60 vạn quân (kể cả Mĩ và chư hầu) lúc cao
nhất lên tới 70 vạn tên. Chúng đã sử dụng mọi thứ vũ khí, phương tiện hiện
đại, nhưng chúng không thể khuất phục được nhân dân Việt Nam.
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2009, tr.480.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2009, tr.314.



16
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với truyền thống đánh
giặc giữ nước anh dũng, quật cường của dân tộc và được giúp đỡ to lớn của
bè bạn khắp năm châu, nhân dân Việt Nam đã vượt mọi khó khăn gian khổ
cùng nhau chống Mĩ cứu nước. Từ năm 1959- 1960 phong trào Đồng khởi ở
miền Nam bùng nổ và lan rộng; Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được
thành lập. Từ năm 1961- 1965 quân và dân ta đã đánh bại chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của Mĩ. Từ năm 1965- 1968 Mĩ tiến hành chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn chinh Mĩ vào miền Nam, đồng thời tiến hành
chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân cả nước đánh
thắng Mĩ ngay từ trận đầu ở cả hai miền Nam, Bắc. Cuộc tổng tiến công tết
Mậu Thân 1986 trên toàn lãnh thổ miền Nam làm phá sản chiến lược “Chiến
tranh cục bộ ”, buộc Mĩ phải “xuống thang” đàm phán với ta. Để cứu vãn thất
bại, Mĩ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và mở rộng chiến
tranh sang Lào và Campuchia. Quân và dân ba nước Đông Dương đã kề vai sát
cánh cùng nhau chiến đấu đánh bại các cuộc hành quân của Mĩ- Ngụy sang
Campuchia và đường 9 Nam Lào. Cùng với thắng lợi ở chiến trường miền
Nam, năm 1972 miền Bắc đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52
của Mĩ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương buộc Mĩ phải kí Hiệp định
Pari công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Đại thắng Mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, kết thúc vẻ
vang cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị
hơn 100 năm của chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở Việt Nam. Cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước là cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc ta. Với thắng lợi vĩ đại này đã đưa dân tộc ta bước
vào thời kỳ mới, thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.



17
- Chiến tranh bảo vệ tổ quốc sau năm 1975.
Ngay sau khi nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, các thế lực thù địch đã ra sức chống phá cách
mạng nước ta, chúng không muốn có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta tiếp tục phát huy truyền thống
đánh giặc giữ nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chiến dịch biên giới Tây Nam: Tập đoàn phản động PônPốt- Iêng xari đã
thi hành chính sách diệt chủng dã man, tàn bạo ở trong nước và chính sách thù
địch chống Việt Nam. Tháng 5/1975 chúng tiến hành xâm lấn biên giới, tháng
4/1977 chúng tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn chống Việt Nam,
chúng coi Việt Nam là kẻ thù số một. Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, từ đầu
tháng 12/1977 đến tháng 01/1979, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta
đã mở các chiến dịch tiến công lớn đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi bời cõi;
đồng thời theo lời kêu gọi giúp đỡ của nhân dân Campuchia, quân tình nguyện
Việt Nam đã tiến công tiêu diệt tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêngxari tận hang
ổ của chúng, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Chiến dịch biên giới phía Bắc: Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân ta, những người cộng sản chân chính và nhân dân Trung Quốc đã
giành cho nhân dân ta sự ủng hộ to lớn. Tuy nhiên, sau khi nước ta giành được
độc lập, tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh đã thi hành chính
sách thù địch chống Việt Nam. Từ năm 1974, chúng đã xâm lấn biên giới; 1978
cắt viện trợ, rút chuyên gia về nước. Sau hàng loạt hành động khiêu khích, lấn
chiếm và tạo cớ, ngày 17/2/1979 Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh xâm
lược quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới Việt- Trung dài hàng ngàn km. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta, trực tiếp là quân dân các tỉnh biên giới phía
Bắc đã đứng lên chiến đấu để giữ vững chủ quyền lãnh thổ, độc lập của Tổ quốc.
Ngày 19/3/1979, bọn phản động buộc phải rút quân khỏi biên giới nước ta.



18
2.2. Truyền thống đánh giặc giữ nước.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn phải
chống lại kẻ thù xâm lược mạnh hơn nhiều lần về quân sự, kinh tế. Song với
tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, với cách đánh mưu trí, sáng tạo, ông
cha ta đã đánh thắng tất cả kẻ thù xâm lược, viết lên những trang sử hào hùng
của dân tộc như chiến thắng Bạch Đằng, Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm
Tử… Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần yêu nước và truyền
thống đánh giặc của quân dân ta lại được phát huy lên một tầm cao mới và đã
đánh thắng hai kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh là thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ. Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm của dân tộc,
các thế hệ ông cha ta đã viết lên truyền thống vẻ vang rất đáng tự hào và
những bài học quý báu đối với các thế hệ mai sau. Và cũng chính từ lịch sử
ấy, truyền thống ấy qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam đã hun đúc và hình thành một cách tự nhiên truyền thống đánh giặc
giữ nước và nó trở thành truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống không phải là một cái gì có sẵn, nảy sinh trong một thời
gian ngắn, mà là những chuẩn mực, qui tắc ứng xử, thói quen được hình thành
từ lâu đời trong nếp nghĩ, lối sống, hành động của dân tộc và được truyền lại
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Mỗi dân tộc
đều có truyền thống của mình, không dân tộc nào không có. Truyền thống là
những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử
và hiện có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực…
Truyền thống có cái tốt, có cái xấu. Tốt như truyền thống lên ngựa cầm gươm,
xuống ngựa cầm bút của các tướng sĩ Việt Nam; xấu như mê tín đồng bóng,
như ngó thiển cận trong lũy tre làng”1.
Thật vậy, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam là
những thói quen về tư duy và hành động quân sự, được hình thành và truyền

lại qua mấy nghìn năm kiên trì đấu tranh chống ngoại xâm, liên tiếp giành
1

Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1980, tr.50.


19
thắng lợi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính vì thế trong “Thư gửi các
chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô” năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục
khẳng định rõ truyền thống của dân tộc Việt Nam: “Các em là đội cảm tử.
Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự
tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã
kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các
em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt
Nam muôn đời sau”1. Như vậy, truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng
cảm, thông minh, sáng tạo trong đánh giặc giữ nước được thể hiện rõ ràng và
đanh thép trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, khởi
nghĩa vũ trang giành thắng lợi. Truyền thống và khí phách đó, niềm tự hào
quang vinh đó được các vị anh hùng dân tộc qua các thời kỳ lịch sử luôn
khẳng định: truyền thống đánh giặc giữ nước đã trở thành bản lĩnh và thói
quen của dân tộc Việt Nam.
Về nguyên nhân hình thành truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc Việt Nam được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Song tựu
chung lại nổi lên những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã
trải qua thời gian dài phải chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Từ cuối thế
kỷ thứ III trước Công nguyên đến nay, dân tộc ta phải tiến hành gần 20 cuộc chiến
tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh giải phóng dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử cho thấy, dựng nước đi đôi với

giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Hai là, trải qua trường kỳ đánh giặc, giữ nước dân tộc ta đã lập nên
những chiến công hiển hách không những đối với dân tộc Việt Nam mà còn
đối với cả thế giới, thắng lợi nối tiếp thắng lợi, chiến công rực rỡ chiến công,
thành một chuỗi dài bất tận trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta.
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2009, tr.35.


20
Ba là, cội nguồn và nguyên nhân sâu xa của truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc ta là bắt nguồn từ những phẩm chất cao quý của dân tộc và
con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng yêu nước thương
nòi, ý chí căm thù giặc sâu sắc, là truyền thống đoàn kết và cố kết cộng đồng
trong đánh giặc và trong lao động sản xuất, chống thiên tai, lũ lụt bảo vệ mùa
màng. Truyền thống ấy được hình thành từ buổi đầu dựng nước và giữ nước,
phát triển và lớn lên cùng với sự trường tồn của dân tộc. Truyền thống yêu
nước luôn gắn liền với truyền thống đoàn kết, truyền thống tự lực, tự cường của
dân tộc trong chống giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một nàn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử ta đã có
nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta
có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của
các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”1.
Thực tiễn lịch sử cho thấy đặc trưng chung của chiến tranh giữ nước
Việt Nam là cùng với Nhà nước và quân đội còn có lực lượng to lớn của toàn

dân tham gia đấu tranh. Đó là cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ nền độc lập dân tộc. Cả nước là chiến trường, toàn dân là lính, toàn dân
đánh giặc, đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí, phương tiện sẵn có. Đánh giặc
bằng cả hai phương thức: chiến tranh nhân dân địa phương, chiến tranh nhân
dân của các binh đoàn chủ lực cơ động và sự kết hợp giữa hai phương thức
ấy. Đó chính là sự khác biệt cơ bản về truyền thống đánh giặc giữ nước của
dân tộc Việt Nam, nét truyền thống đặc sắc độc đáo mà các dân tộc khác trên
thế giới không có được.
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.2009, tr.171.


21
Từ những vấn đề trên đã hình thành nên những nội dung cơ bản của
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam như sau:
Thứ nhất, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu hy sinh vì độc
lập tự do, không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
Dân tộc ta đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ
nước. Trong quá trình lịch sử đó, tổ tiên ta đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức
mạnh Việt Nam chống chọi với thiên tai, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Trong nhiều yếu tố hợp thành bản sắc dân tộc, tạo thành sức mạnh Việt Nam
thì lòng yêu nước nồng nàn là yếu tố cơ bản, là chuẩn mực cao quý thiêng
liêng của đạo lý dân tộc, là giá trị có ý nghĩa nền tảng vững chắc tạo nên sức
mạnh truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thật vậy, ngọn lửa chiến tranh yêu nước, chống giặc ngoại xâm thường
xuyên tôi luyện và phát huy lòng yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất của
dân tộc. Trước quân xâm lược, thái độ duy nhất của dân tộc ta là đứng lên
chiến đấu “quét sạch nó đi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa tới

nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một nàn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” 1. Toàn bộ lịch sử dân
tộc ta đã chứng minh chân lý sáng ngời đó, dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn
năm lịch sử đấu tranh kiên cường để dựng nước và giữ nước. Mỗi trang sử của
dân tộc đều nói lên ý chí tự lực, tự cường, kiên cường bất khuất của nhân dân ta
bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc của mỗi người dân Việt Nam.
Tinh thần yêu nước không phải là tình cảm tự nhiên, nảy sinh cùng với
sự xuất hiện của con người. Tinh thần yêu nước là sản phẩm của một quá
trình lịch sử xã hội của một cộng đồng người nhất định. Nó bắt nguồn từ tình
cảm tự nhiên sâu sắc của mỗi con người đối với những người ruột thịt, đối với
ngôi nhà, làng xóm, quê hương nơi mà họ đã sinh ra và lớn lên, đối với mảnh
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.2009, tr.171.


22
đất mà họ đã đổ biết bao mồi hôi, nước mắt để thuần hoá và từ đó kiếm được
“bát cơm, manh áo”, duy trì lâu dài cuộc sống của mình và các thế hệ nối tiếp,
đối với những sinh hoạt tinh thần mà họ đã cùng những người đồng hương
sáng tạo nên và chung vui sau những giờ lao động vất vả, mệt nhọc. Những
tình cảm đó đã cô đúc lại tạo nên ở con người họ sự gắn bó, yêu thương mảnh
đất quê hương của mình và bên cạnh đó là ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm
đối với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển quê hương mình. Mà cái quê hương
đó, trước đây chỉ là làng xóm, nơi “chôn nhau, cắt rốn” cụ thể của mỗi con
người, nay mở rộng ra thành đất nước, nơi sinh sống của những người cùng
chung số phận, cùng một tiếng nói và một nền văn hoá. Cũng chính vì tình
cảm gắn bó với quê hương đất nước, nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi mà
đôi tay, bộ óc, trái tim của mỗi người Việt Nam đã tạo nên những thành quả

lao động giàu đẹp và một nền văn hoá độc đáo nên nhân dân ta rất thiết tha
yêu quê hương, đất nước của mình, và đã không tiếc công sức, xương máu để
xây dựng đất nước ta thành một quốc gia riêng và dùng mọi sức mạnh để bảo
vệ nó. Tình cảm và ý thức đó chính là lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc của
dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước nồng nàn đó luôn gắn liền với tinh
thần chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do, không chịu mất nước, không chịu làm
nô lệ, không chịu áp bức bóc lột. Tinh thần yêu nước đó là một tinh thần yêu
nước rất cao độ, có nội dung phong phú. Do đó, mà dân tộc ta luôn phát triển
mạnh mẽ, yêu nước là phải tự lực, tự cường, phải kiên cường, bất khuất, đó là
cội nguồn của sức mạnh trong đánh giặc giữ nước.
Trong lịch sử đánh giặc, giữ nước của dân tộc ta đã có nhiều tấm gương
anh dũng chiến đấu, hi sinh vì độc lập dân tộc: Hình ảnh cậu bé làng Gióng
vút lớn lên với tre già, ngựa sắt, đánh đuổi giặc Ân. Hình ảnh Hai Bà Trưng
với lời thề sông Hát: “Một xin rửa sạch nước thù, hai xin nối lại nghiệp xưa
họ Hùng, ba kẻo oan ức lòng chồng, bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này”; Bà
Triệu cưỡi voi chỉ huy đánh giặc với tinh thần và ý chí: “Tôi muốn cưỡi cơn
gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô,


23
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp
người”. Tình cảm, ý chí của Trần Hưng Đạo: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa
đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột
da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ,
nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Trần Quốc Toản mới 15
tuổi bóp nát quả cam vì hận mình còn nhỏ tuổi không được dự bàn kế đánh
giặc ở Bình Than, về quê mộ quân luyện tập võ nghệ giương cao lá cờ “Phá
cường địch, báo hoàng ân”. Trần Thủ Độ nói với vua Trần Thái Tông: “Đầu
thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; hay Trần Hưng Đạo can dán vua
Trần Thái Tông: “Xin bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hàng”. Trần Bình

Trọng “Thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Nguyễn
Trung Trực đã hiên ngang tuyên bố trước mặt quân thù: “Bao giờ người Tây
nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Hình ảnh Bế Văn
Đàn, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót đã xả thân vì nước, Nguyễn Viết Xuân
“Nhằm thẳng quân thù mà bắn”… là những biểu tượng sáng ngời về lòng yêu
nước, tinh thần chiến đấu hi sinh vì độc lập dân tộc.
Với tinh thần “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” 1, “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do” đã sớm trở thành tư tưởng và tình cảm lớn nhất, là lẽ sống thiêng liêng
của mỗi người dân Việt Nam.
Thứ hai, cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc.
Cả nước chung sức đánh giặc, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc
toàn diện là vấn đề có tính quy luật trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của
dân tộc ta. Dân tộc ta từ ngàn xưa đã ý thức được rằng “nước mất thì nhà
tan”; mất gia đình, mất của cải, mất cả lẽ sống và đạo lý làm người, mất cả
nền văn hiến của dân tộc. Sự mất mát đó không chỉ ở riêng ai mà với mọi
người, mọi nhà. Từ lòng căm thù giặc sâu sắc và để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mỗi người cũng như toàn dân tộc mà mọi người dân Việt Nam ở
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2009, tr.480.


24
mọi thế hệ bất kể già, trẻ, gái, trai ai ai cũng đứng lên đánh giặc cứu nước. Cả
nước chung sức, toàn dân đánh giặc còn được xuất phát từ yêu cầu khách
quan của các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đất nước ta
đất không rộng, người không đông, nhân tài vật lực của ta có hạn, lực lượng
quân đội của ta không nhiều. Trái lại, kẻ thù của dân tộc ta có tiềm lực quân
sự và kinh tế mạnh, chúng cậy số đông, trang bị mạnh và có nhiều kinh

nghiệm trong chiến tranh xâm lược. Với điều kiện tương quan lực lượng giữa
ta và địch như vậy, nếu dùng lực lượng quân đội đơn thuần thì chắc chắn
không thể đánh thắng được. Muốn thắng quân thù to lớn và cường bạo, thì
phải dựa vào sức mạnh cả nước, huy động toàn dân đánh giặc.
Trong cuộc xâm lược quy mô lớn của nhà Tần đối với các bộ tộc Việt,
nhân dân ta đã anh dũng chống lại, dựa vào sức lực của chính mình, ra sức
đoàn kết và kiên trì chiến đấu. Lực lượng chủ yếu để làm chức năng quân sự
trong cuộc chiến tranh này là những người dân của các bộ tộc, bộ lạc được
huy động ra làm dân binh đi chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Sự đoàn kết
toàn dân để bảo vệ dân tộc, nòi giống đã bắt nguồn từ đó.
Trong thời kỳ hơn một nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân cả nước đã liên
tục đứng lên tiến hành khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc. Cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng, dân ta đã hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước của Hai
Bà vũ trang nổi dậy ở tất cả 65 huyện thành trong cả nước đập tan ách thống
trị, khôi phục nền độc lập tự chủ của dân tộc. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu
năm 248 bắt đầu từ quận Cửu Chân đã lan rộng ra nhiều địa phương lớn,
thành cuộc chiến tranh giải phóng bền bỉ trong gần ba năm. Cuộc khởi nghĩa
của Lí Bí năm 542, nhân dân ta trên khắp nước đồng tâm nổi dậy cùng nghĩa
binh đánh địch khắp nơi, lật đổ ách thống trị nhà Lương, lập nên nước Vạn
Xuân… Trước sự áp bức bóc lột rất tàn khốc và bị đàn áp đẫm máu, các lãnh
tụ khởi nghĩa đã biết dựa vào dân, tạo sức mạnh từ trong nhân dân, huy động
toàn dân đứng lên khởi nghĩa. Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau, có
lúc bị dìm trong biển máu, có lúc thành công khôi phục lại chủ quyền đất


25
nước, qua đó ngày càng hun đúc thêm tinh thần đoàn kết, ý thức đấu tranh
giành độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Thời Trần đã ba lần đánh thắng quân Mông- Nguyên chủ yếu vì bấy
giờ “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức chiến đấu, nên

giặc phải bó tay”. Nhà sử học Phan Huy Chú cũng viết trong tác phẩm của
mình “Đời nhà Trần nhân dân ai cũng là binh nên mới phá được giặc dữ làm
cho thế nước được mạnh”. Nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân Minh vì
“tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, “tụ tập khắp
bốn phương dân chúng, dưới trên đều một bụng cha con”.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, tổ tiên ta đều nhận thức một các rõ ràng
vai trò của toàn dân đánh giặc giữ nước. Quan điểm quốc phú binh cường thì
gốc rễ là ở dân thể hiện trong nhiều triều đại. Cho nên, để động viên được sức
mạnh tiềm tàng đó, tổ tiên ta đã phải thi hành nhiều chính sách tiến bộ để “an
dân”. Lý Thường Kiệt coi “đủ ăn” là nguyện vọng của dân. Trần Quốc Tuấn
chủ trương “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Buổi đầu đời Lê, triều
đình đã ban lệnh “Không được khinh động đến sức dân” và Nguyễn Trải cho
“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến thế kỷ thứ XVIII, Nguyễn Huệ đã có
nhiều biện pháp để làm nước giàu, quân mạnh, trong đó có chủ trương “làm
sao cho dân yên ổn, có ruộng cày…” hoặc “mở mang cửa ải, thông chợ búa,
khiến cho các hàng hóa không ứ đọng, làm lợi cho dân”. Các triều đại phong
kiến tiến bộ ở nước ta đều chú ý bồi dưỡng, khoan thư sức dân, ra chiếu
khuyến nông, chăm lo thủy lợi, có khi miễn giảm tô thuế một phần để mở
mang kinh tế, phần nữa để tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc, giữa
triều đình và dân chúng. Vì lợi ích của toàn dân mà phải bảo toàn nền độc lập
của dân tộc, chủ quyền của đất nước, điều đó đã ăn sâu vào lòng người Việt
Nam, trong bất kỳ tầng lớp nào qua các thời đại. Vì toàn dân mà cũng phải do
toàn dân làm mới đánh được kẻ thù hung bạo mạnh hơn, cho nên chính sách
đúng đắn của các chính quyền nhà nước qua quá trình lịch sử Việt Nam đều
phải có sức phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, chung sức đánh giặc. Việc Hồ


×