Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Bằng Sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.31 KB, 46 trang )

Header Page 1 of 133.

LUẬN VĂN:

Phát triển kinh tế hộ nông dân theo
hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng
Bằng Sông Hồng

Footer Page 1 of 133.


Header Page 2 of 133.

Lời nói đầu

Trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã thực hiện đường nối đổi mới toàn diện nền kinh tế
đất nước , nhằm dần chuyển từng bước từ cơ chế quản lý tập chung sang sản xuất hàng
hoá , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN . Chủ chương đổi mới quan trọng này từng bước được cụ thể hoá thành các hệ
thống chính sách . trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tư tưởng đổi mới đã được thể
hiện thông qua việc ban hành chỉ thị 100-CT/TƯ của ban bí thư trung ương(1981) , Nghị
quyết 10 của bộ chính trị (1988) . Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát
triển sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung và tới việc khuyến khích chủ động sáng tạo
trong sản xuất của hộ nói riêng . với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản
xuất theo cơ chế thị trường , các hộ nông dân cả nước đã và đang tích cực đẩy mạnh phát
triển sản xuất một cách năng động , đa dạng phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của
mỗi hộ , tạo ra thị trường hàng hoá dồi dào , phong phú ngay tại địa bàn nông thôn. Mặt
khác dưới sự tác động khách quan của các quy luật cơ chế thị trường , các hộ nông dân
đang gặp khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá do những yếu tố bên trong và
bên ngoài khu vực nông nghiệp . Cũng như những hộ khác trong cả nước , kinh tế hộ
nông dân ĐBSH có những lợi thế và khó khăn nhất định trong quá trình phát triển sản


xuất hàng hoá . Nhận thấy đươc những vấn đề đó và có những giải pháp phù hợp , sẽ cho
chúng ta khai thác và sử dụng các tiềm năng về đất đai , lao động , vốn ở nông thôn có
hiệu quả , nâng cao đời sống dân cư nông thôn .Vì vậy em chọn đề tài: “Phát triển kinh
tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Bằng Sông Hồng”.

Phần I : Cơ cơ sở lý luận chung

Footer Page 2 of 133.


Header Page 3 of 133.

I-sự cần thiết phải phát triển kinh tế hộ nông dân
1. Xuất phát từ mục tiêu CNH (Công nghiệp hoá). HĐH (Hiện đại hoá) nông nghiệp
nông thôn
-Thứ nhất giảI quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn nâng cao thu nhập và
mức sống cho dân cư ở nông thôn
-Thứ hai : đa dạng hoá nền kinh tế ở nông thôn đa dạng hoá nghành nghề tạo ra việc
làm ở nông thôn trên cơ sở tạo ra nghành nghề mới.
-Thứ ba : sử dụng lao động dư thừa ngay tại chỗ trên địa bàn nông thôn. Vừa làm
ruộng vừa làm nghề khác như công nghiệp và dịch vụ nông thôn (Rời ruộng nhưng
không rời làng).
Trong quá trình công nghiệp hoá đất nước thì công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn có
vai trò quan trọng hàng đầu.
2. Vai trò của kinh tế hộ.
+ Là cầu nối khâu trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá ,
gắn với lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá.Quy mô thị trường được mở rộng từ thị
truòng dịa phương đến thị trường trong nước va vươn ra thị truòng quốc tế.
+ Là đơn vị tích tụ vốn, nếu không có sự tích tụ đó thì những khoản dư thừa do hoạt
động kinh tế hộ sẽ không đựơc sử dụng vào mục đích tăng sản phẩm cho xã hội. Mức độ

tích luỹ vốn càng cao kinh tế hộ càng có điều kiện dể chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển ngành nghề mở rộng sản xuất kinh doanh ( nguyên nhân tạo ra nghành nghề mới).
Từ yếu tố này quy định hộ là đơn vị cơ sở để phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng
hoá theo cơ chế thị trừong đã phá vỡ cơ cấu kinh tế tự cấp tự túc. Điều đó đòi hỏi phát
triển kinh tế toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm
cho nông nghiệp tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Để phát huy lợi thế so
sánh của hộ( tay nghề, vốn, thị trường…), tạo thành các hộ chuyên sản xuất một loại sản
phẩm hàng hoá cho thị trường.
+ Là đơn vị kinh tế co sở tiếp nhận khoa học kỹ thuật đổi mới công nghệ nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế. Nó là một quá trình gắn với lợi ích thiết thân của hộ để
tăng hiệu quả thông qua áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh
doanh. Trong hộ diễn ra quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật (kết hợp kinh nghiệm
truyền thống và hiện đại).

Footer Page 3 of 133.


Header Page 4 of 133.

+ Là đơn vị đáp ứng cung cầu và là đơn vị tiêu dùng- do đặc điểm của hộ: Có khả năng
thích ứng cao với mọi nhu cầu của thị trường, dể dàng tổ chức lại và phân công lao động
3. Từ thực tế những năm đổi mới .
Sau chỉ thị 100 của ban bí thư TW nhược điểm của chỉ thị biểu hiện ở:
Xã viên không làm chủ ruộng đất không yên tâm đầu tư thâm canh vì sợ hợp tác xã sẽ
điều chỉnh mức khoán khi năng suất tăng lên. Phần sản lượngvượt khoán nhiều khi
không đủ bù đắp chi phí tăng nên . 8 khâu sản xuất – HTX thực hiện 5 khâu , xã viên
thực hiện 3 khâu, không đảm bảo gắn lao động vàTLSX với sản phẩm cuối cùng trong
toàn bộ quy trình SX
Nghị quyết 10 của bộ chính trị : Khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ , trong
đó quan trọng nhất là chính sách ruộng đất ( do tính chất ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc

biệt – chủ yếu )và chính sách này tạo điều kiện cho hộ nông dân tập chung ruộng đất mở
rộng quy mô sản xuất, hình thành nên các trang trại .góp phần thúc đẩy phân công lao
động xã hội . Những người có khả năng chuyển sang các nghành nghề phi nông nghiệp
thì không bị trói buộc vào ruộng đất, họ có thể chuyển nhượng ruộng đất để tập chung
đầu tư cho hướng sx mới
II- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản
xuất hàng hoá
1. Nhân tố tự nhiên :
ĐBSH gồm 12 tỉnh thành phố Hà Nội , Hải Dương , hưng yên , Bắc Ninh , vĩnh phúc ,
Hà Tây , Hà Nam , Nam Định , Ninh Bình , Thái Bình . Diện tích toàn vùng là
12.150km2 Do điều kiện khí hậu thuỷ văn thuận lợi . ĐBSH còn có hàng vạn ha mặt
nước (ao , hồ đầm , sông ngòi ) nội địa có thể nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt . Vùng ven
biển từ Hải Phòng đến Ninh Bình dài hàng trăm km vừa là ngư trường nuôi trồng, khai
thác hải sản lớn vừa thuận lợi cho việc sản suất muối và trồng cây ngập mặn. Nhưng lợi
thế cơ bản của kinh tế nông hộ vùng ĐBSH chính là sự phát triển của các điều kiện kết
cấu hạ tầng kinh tế- văn hoá- xã hội tạo nên một hệ thống tưới tiêu chủ động được xây
dựng khá hoàn chỉnh , mạng lưới điện quốc gia phủ khắp phục vụ sản xuất , sinh hoạt của
nhân dân , hệ thống giao thông quốclộ , đường liên tỉnh , liên huyện và trong thôn xóm đã
được thiết lập

Footer Page 4 of 133.


Header Page 5 of 133.

Đất có khả năng nông nghiệp, đất nông nghiệp trong vùng là 805,8 ha chiếm 46,5%diện
tích lãnh thổ của vùng trong đó đất canh tác là713 nghìn ha . Do được thiên nhiên ban
phát nên đại bộ phận là đất phù sa màu mỡ thích hợp với các loại cây trồng và nông dân
có truyền thống thâm canh và có trình độ canh tác nên đất đai ở đây được khai thác , sử
dụng triệt để có hiệu quả. Hệ số sử dụng đất canh tác toàn vùng là 1.96 lần (1990) cao

nhất so với cả nước
2. Nhân tố kinh tế – xã hội
ĐBSH là một trong hai vùng có đông dân số và dân cư nông thôn so với cả nước . Đến
năm 1999 toàn vùng có 16.833.000 người chiếm 22,6% so với dân số cả nước. Mật độ
dân số lên tới 1183người/ km2 .Trong đó hơn 80,4% dân cư sống ở nông thôn. Sự tập
chung đông dân cư nông thôn trước hết trong lĩnh vực nông nghiệp .Cùng với tốc độ tăng
dân số cao làm cho diện tích canh tác đất đai của nông hộ ở mức thấp , mỗi nhân khẩu chỉ
có 500m2/khẩu đất lúa còn ít hơn 384m2/khẩu (1999) .Đặc điểm đất chật người đông dẫn
đến lao động dư thừa ,việc làm thiếu ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị .Mặt khác
quá trình chuyển giao ruộng đất từ kinh tế tập thể sang kinh tế nông hộ đã dẫn đến tình
trạng nhỏ lẻ manh mún và phân tán đất đai của nông hộ gây nhiều khó khăn trong việc
canh tác sử dụng
Ngoài hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng là những trung tâm kinh tế,văn hoá thương
mại lớn trong vùng còn có 9 thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh ,có nhiều đầu mối giao
thông , tụ điểm kinh tế- văn hoá... Các nhân tố này tác động trực tiếp đến kinh tế nông hộ
từ phía sản xuất kinh doanh , tiêu thụ sản phẩm cũng như từ phía tiêu dùng và sinh hoạt
của hộ
III. Xu hướng phát triển kinh tế hộ .
- Tiếp tục tăng cường thâm canh trong nông nghiệp, nâng cao năng suất lúa, rau đậu và
các loại cây trồng khác đồng thời thay đổi cơ cấu cây trồng và cơ cấu mùa vụ, nhất là
hướng vào cây con có giá trị kinh tế cao .
- Phát triển công nghiệp nhỏ ,thương nghiệp dịch vụ và các hoạt động phi nông nghiệp
khác trong nông thôn, nhằm giải quyết cho lao động nông nghiệp dư thừa cải thiện thu
nhập của nông dân .
- Khả năng và xu hướng trên phụ thuộc rất lớn vào các chính sách và giải pháp nhằm
tạo môi trường và điều kiện kinh tế chung như: Chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ

Footer Page 5 of 133.



Header Page 6 of 133.

thuật, công nghệ và công nghệ sinh học. Giá cả , thị trường tiêu thụ sản phẩm của nông
dân ( kể cả sản phẩm nông nghiệp , ngư nghiệp , tiểu thủ công ngiệp ). Một yếu tố hết sức
quan trọng đó là vốn cho sản suất, kinh doanh. Cần mở rộng và hoàn thiện thị trường
vốn, tăng cường vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn .

Footer Page 6 of 133.


Header Page 7 of 133.

PhầnII: Thực trạng phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá

I- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng ĐBSH.
1. Đăc điểm tự nhiên vùng:
Là vùng có diện tích tự nhiên 12.150 Km2.Với dân số khoảng 15 triệu dân ( năm 2000)
.ĐBSH giáp với vùng kinh tế Đông Bắc ,Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.Diện tích nông
nhgiệp trên 720 nghìn ha, chiếm 9,2% của cả nước.Đất canh tác tuy không nhiều,độ màu
mỡ không được xếp vào loại cao, song địa hình khá bằng phẳng ,khí hậu chia 4 mùa rõ
rệt thích hợp với việc phát triển nông nghiệp lúa nước thâm canh cao hai vụ và có thế
mạnh rau vụ đông ,đặc biệt là rau quả vụ đông lớn nhất nước ta.Có thể nói đây là một
trong những lợi thế so sánh nổi bật củaĐBSH. Lợi thế này đã và đang tạo cho ĐBSH phát
triển nông sản hàng hoá phục vụ nhu cầu cung cấp nguyên liệu quanh năm cho nghành
công nghiệp chế biến với các sản phẩm chính như lúa gạo ,rau tươi, quả tươi, thịt lợn và
thịt gia cầm,thuỷ hải sản. ĐBSH vừa là cửa ngõ đi ra biển ,vừa là vùng trung chuyển
hàng hoá, nguyên vật liệu của 20 tỉnh Bắc Bộ qua lại hệ thống đường bộ, đường sắt
,đường thuỷ khá hoàn chỉnh nối liền với cảng biển hải phòng ,diêm điền .Đặc biệt hệ
thống sông ngòi chằng chịt với các sông Hồng, sông Đà, sông Đáy , sông Trà Lý vừa là
nguồn cung cấp nước ngọt cho sản xuất công, nông nghiệp và sinh hoạt,vừa là mạch máu

giao thông thuỷ thuận lợi cho các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp tập chung .
ĐBSH có rừng quốc gia Cúc Phương ,Ba Vì và các khu rừng Tam đảo ,Cát Bà cùng với
hệ thống cây xanh ven biển,ven đường giao thông có tác dụng điều hoà khí hậu. Hệ thống
núi đá ở Ninh Bình ,Hà Nam, Hải Dương, Hải Phòng là nguồn vật liệu xây dựng quý giá
đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển giao thông và sản xuất vật liệu xây dựng .ĐBSH
là nơi có nhiều di tích lịch sử,văn hoá ,có nhiều danh lam thắng cảnh tạo ra tiềm năng lớn
để phát triển du lịch trong những năm tới .
Tuy nhiên hệ thống sông ngòi chằng chịt gây ra khó khăn trong phát triển mạng lưới
giao thông . Khí hậu hai mùa mưa và mùa khô gây ra thừa nước ở mùa mưa, có thể bị hạn
hán vào mùa khô .

Footer Page 7 of 133.


Header Page 8 of 133.

1.1 Đặc điểm về xã hội .
1.1.1 Dân số và lao động :
- Dân số và lao động ĐBSH cũng là thế mạnh .Với số dân khoảng 15 triệu người (năm
2000) , trong đó có khoảng 7 triệu lao động (tỷ lệ dân số biết chữ trên 90%) ĐBSH là
vùng có trình độ dân trí cao,trình độ tay nghề của người lao động khá cao so với các vùng
khác . Đó là môi trường thuận lợi để nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nghề nghiệp cho
người người lao động .Bên cạnh trường đào tạo chính quy ,ĐBSH từ lâu đã hình thành
các làng nghề truyền thống , là nơi đào tạo nghề nghiệp tiểu thủ công nghiệp cho nhiều
thế hệ và ngày nay vẫn là điểm trội có một không hai của vùng này so với cả nước. Các
điều kiện của ĐBSH cũng khá thuận lợi, bên cạnh các thế mạnh về nônh nghiệp, ĐBSH
còn có thế mạnh về công nghiệp và dịch vụ .Các trung tâm công nghiệp và thương mại
lớn nhất miền bắc như Hà Nội , Hải Phòng ,Nam Định ngày càng phát triển cả bề rộng
và chiều sâu .Trong những năm đổi mới ,ĐBSH là vùng thu hút nhiều dự án đầu tư nước
ngoài lớn thứ 2 sau vùng Đông Nam Bộ , trong đó hầu hết là đầu tư vào công nghiệp và

dịch vụ .Các khu công nghiệp , khu chế xuất ở Hà Nội , Hải Phòng đã và đang thu hút các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, chủ yếu để phát triển công nghiệp .Giao thông vận
tải thuận lợi, tất cả chín tỉnh đều nằm trên hệ thống đường giao thông huyết mạch của cả
nước gắn với sân bay quốc tế Nội Bài , hệ thống cảng biển hiện đại gần vùng khoáng sản
tài nguyên Bắc Bộ ,đảm bảo nguyên liệu , vật liệu cho phát triển công nghiệp đa ngành
trong đó có công nghiệp nông thôn .
1.1.2 Cơ sở hạ tầng của vùng .
Kết cấu hạ tầng trong vùng cũng hơn hẳn các vùng khác,từ năm 1995 ĐBSH đã
hoàn thành điện khí hoá nông thôn sớm nhất cả nước.Hệ thống đường giao thông thôn
đến tận xã, thôn và không ngừng được nâng cấp . Hệ thống trường học ,trạm y tế ,nhà văn
hoá, chợ ,thông tin liên lạc,…Cũng thuộc loại nhất nhì so với các vùng khác .
Bảng : So sánh kết cấu hạ tầng ở ĐBSH so với cả nước.
Vùng

(%)

Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có
điện

đường ô tô đường ô tô trường tiểu trạm y tế
đến

trung đến thôn

học

tâm xã
Cả nước

Footer Page 8 of 133.


85,8

92,9

79,8

98,8

98,0


Header Page 9 of 133.

Đồng Bằng 99,9

99,9

99,6

99,9

100,0

Sông Hồng
Nguồn : Thời báo Kinh tế, 3-2000.
Yếu tố đầu tiên là thị trường sức lao động , thị trường tiêu thụ nông sản .Với số lượng 15
triệu dân ,trong đó khoảng 12 triệu dân sống ở nông thôn ,nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ
phi nông nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng .
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên, ĐBSH cũng còn khó khăn và hạn chế xuất phát từ

đặc điểm tự nhiên-xã hội của vùng :
-

Mật độ dân số quá cao 1224 người/km2. Đất nông nghiệp vốn đã ít lại giảm dần
cùng với quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Đến nay bình quân đất nông
nghiệp chỉ còn 500m2/khẩu ,đất lúa còn ít hơn 384 m2/khẩu ( năm 1999 ) . Đặc
điểm đất chật người đông dẫn đến lao động dư thừa , việc làm thiếu ở cả hai khu
vực nông thôn và thành thị. Lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn tăng
nhanh dẫn đến thu nhập và tích luỹ của dân cư nông thôn vùng này thấp, nguồn
vốn trong dân đầu tư cho sản xuất hàng hoá hạn chế rất nhiều .

-

Trong nông nghiệp , ruộng đất đã ít lại manh mún và phân tán trong nhiều hộ gia
đình , rất khó khăn cho quá trình cơ giới hoá, điện khí hoá nông nghệp .

-

Tập quán canh tác tự cấp tự túc, tính chất tự phát, lại nhiều năm làm việc trong cơ
chế quản lý tập trung cùng với tính bảo thủ, trì trệ đã hạn chế khả năng tiếp cận cơ
chế thị trường, kiến thức sản suất hàng hoá của đội ngũ cán bộ và người lao động
ở khu vực nông thôn ĐBSH hiện nay còn thấp .

II- Vài nét về quy mô sản xuất kinh doanh .
1. Đặc điểm lao động :
Hộ là một đơn vị lao động, các hộ dựa vào sử dụng nhân công trong gia đình là chủ yếu
và hộ bao gồm một cơ cấu tuổi tác, giới tính, lao động nghề nghiệp khác nhau .Cơ cấu
này cho phép hộ sử dụng nguồn nhân lực rất linh hoạt theo nhiều chiều một cách có hiệu
quả. Nhưng lao động trong gia đình không được xem dưới hình thái hàng hoá. Trong
những điều kiện sản xuất khó khăn như thiên tai, Lao động trong nông nghiệp vẫn hạn

chế tiêu dùng vài gắng sức tìm nguồn sống trong gia đình với chi phí lao động rất lớn đã
làm cho người nông dân bị hạn chế khi bước vào sản xuất hàng hoá. Nhưng do sản xuất

Footer Page 9 of 133.


Header Page 10 of 133.

hàng hoá trong nông nghiệp phát triển dẫn tới sự phân công lao động, hình thành lao
động làm thuê, Một đặc trưng nổi bật của việc sử dụng thời gian lao động của hộ trong
khu vực nông thôn là việc sử dụng quỹ thời gian lao động còn rất thấp
Chất lượng của lao động trong nông thôn còn yếu thể hiện qua trình độ chuyên môn của
lực lượng lao động nông thôn .

(%)
Bảng: Cơ cấu số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ở khu
vực nông thôn phân theo trình độ chuyên môn ở một số tỉnh vùng ĐBSH.
Vùng

Chưa

Sơ cấp

Trung

Cao

qua đào

Công


cấp

đẳng

tạo

nhân

Đại học

Kỹ thuật
ĐBSH

91,12

3,46

3,21

1,13

1,07

Hải Dương

93,92

2,6


2,2

0,78

0,49

Hà Tây

91,57

2,65

3,21

1,54

1,04

Hải Phòng

86,68

6,74

4,01

1,21

1,27


Hưng Yên

93,68

2,58

2,31

0,88

0,55

(Nguồn : Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn , thuỷ sản. Nxb Thống kê2002)
Tỷ lao động chưa qua đào tạo toàn vùng là 91,12% trong khi đó số lao động qua đào tạo
ở các trường dạy nghề toàn vùng mới đạt 3,46%. Cơ cấu trên ảnh hưởng đến việc tiếp
nhận kỹ thuật mới vào sản xuất gặp khó khăn. Một trong những hướng phát triển nghành
nghề nông thôn là thu hút lao động từ nông nghiệp và hộ nông dân phải có trình độ đáp
ứng với nghành nghề phi nông nghiệp. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng
vật nuôi có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng phản ứng của nó là tạo ra lao động có
kỹ thuật hay không cũng có thể làm được, nên lao động chủ yếu tự đào tạo và truyền
nghề ,không qua đào tạo có hệ thống, trình độ chuyên môn lao động không cao. Việc sử
dụng quỹ thời gian của hộ trong khu vực nông thôn còn thấp (Trung bình ở ĐBSH trong
một năm có 74,98% ngày làm việc/năm), do vậy kiếm thêm việc làm trong khu vực nông
thôn rất khó khăn, đây là nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp. Muốn giải quyết vấn đề

Footer Page 10 of 133.


Header Page 11 of 133.


này cần phải tạo việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, nâng cao hiệu số sử dụng đất đai
qua thâm canh, kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất. Mặt khác sự phát triển của các hộ
phi nông nghiệp, hay hộ kiêm nghành sẽ tạo ra sức hút lớn đối với lao động ở nông thôn,
xu hướng di chuyển lao động ở một số tỉnh sẽ phản ánh rõ điều này.
Xuất hiên ba xu hướng di chuyển lao động :
Xu hướng chuyển lao động vào khu công nghiệp nông thôn hoặc vào ngay trong nông
nghiệp nhưng là lao động làm thuê ở các nông, lâm trường, các trang trại. Xu hướng lao
động làm dịch vụ, thợ xây, buôn bán nhỏ…Nhưng vẫn phụ thuộc vào sản xuất nông
nghiệp. Như chúng ta đã biết những xu hướng này phụ thuộc rất lớn vào trình độ của
người lao động .
2. Quy mô đất canh tác.
Đặc trưng của nông hộ ĐBSH là quy mô canh tác rất nhỏ bé biểu hiện tính tiểu nông .
Toàn vùng có 738.527ha đất nông nghiệp trong đó chủ yếu là trồng cây lương thực
(507.025ha). Sau khoán 10 diện tích đất nông nghiệp ở ĐBSH hầu như không tăng và
quỹ đất nông nghiệp chỉ chiếm 9,5% đất nông nghiệp cả nước, trong khi đó số hộ nông
nghiệp chiếm 25,35% và lao động nông nghiệp chiếm 19,5% trong tổng số hộ, khẩu và
lao động trong cả nước. Mặt khác hàng năm số hộ, số khẩu, số lao động ở khu vực này
ngày càng tăng.Thực trạng đó đã khiến cho ĐBSH trở thành nơi có bình quân ruộng
đất/đầu người giảm dần qua các năm và ở mức thấp nhất của cả nước .

Footer Page 11 of 133.


Header Page 12 of 133.

Bảng: Bình quân ruộng đất, hộ, khẩu, lao động, nông nghiệp ở ĐBSH (1993-1998)
Năm

Tổng diện tích đất


Bình quân hộ

Bình quân

Bình quân lao

nông nghiệp (ha)

nông nghiệp

khẩu nông

động nông

(m2)

nghiệp (m2)

nghiệp (m2)

1993

721.326

2.814

750

1.817


1994

711.744

2.775

679

1.486

1995

720.218

2.713

664

1.486

1996

719.610

2.722

689

1.486


1997

721.548

2.722

670

1.462

1998

720.747

2.715

665

1.438

(Hiện trạng sử dụng ruộng đất năm 1980-1998. Tổng cục quản lý ruộng đất).

Như vậy trong vòng 5 năm (từ năm 1993-1998) trung bình hàng năm đất nông nghiệp
giảm 24m2/hộ. Nếu vào năm 1993 mỗi hộ có 2.836m2 thì đến năm 1998 còn
2.716m2.Nhưng nếu tính từ năm 1990-1998 mỗi năm giảm 150m2/hộ.Đa số hộ nông dân
có diện tích canh tác thấp, dưới 0,5ha(chiếm 96%),nhưng đến năm 2001 đã giảm
(46,77%) mặc dù số hộ đã tăng nên. Quy mô ruộng đất nông nghiệp tính theo nhóm hộ
còn ở mức thấp hơn
Bảng : Cơ cấu ruộng đất phân theo quy mô đất nông nghiệp .(Năm 2001)
(%)

Tổng số

ĐBSH

Cả
nước

Hộ có dưới 0,2ha

46,77

25,15

Hộ có từ 0,2 đến dưới 0,5ha

49,03

39,19

Hộ có từ 0,5-1ha

3,6

16,42

Hộ có từ 1-3ha

0,24

13,06


Hộ có từ 3-5ha

0,02

1,75

Hộ có từ 5-10ha

0,01

0,4

Hộ có từ 10ha trở nên

0

0,05

(Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông thôn, thuỷ sản. Nxb Thống kê-2002)

Footer Page 12 of 133.


Header Page 13 of 133.

Trong vòng 10 năm qua đất nông nghiệp luôn dao động ở mức 56-61% so với tổng diện
tích đất tự nhiên trong khi đó cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn đặc biệt là việc xây dựng các công trình công cộng và khu công nghiệp
ở các tỉnh thành phố như Hà Nội, Hải phòng, Hải Dương, Hưng Yên…diện tích đất

chuyên dùng và đất phi nông nghiệp không ngừng tăng nên. Đây là một nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đất nông nghiệp bị giảm sút. Trước sự giam sút diện tích đất nông nghiệp
trên khẩu, lao động và hộ gia đình nó tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa sự gia tăng dân số
với diện tích đất gieo trồng .
Để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá không thể duy trì
tình trạng phân tán ruộng đất của mỗi hộ và giữ mức ruộng đất một hộ như đã nêu ở trên
.Mà cần có biện pháp thúc đẩy tập chung ruộng đất của mỗi hộ nâng dần mức ruộng đất
bình quân của các hộ làm nông nghiệp nên, tạo điều kiện cho các hộ phát triển sản xuất
nông nghiệp theo hướng trang trại gia đình. Nhưng vẫn để ruộng đất lại phải gắn với quá
trình phân công lại lao động và phát triển các nghành phi nông nghiệp trong nông thôn
.Do bình quân ruộng đất thấp, nên tích tụ ruộng đất không gắn với phát triển các nghành
nghề phi nông nghiệp, thì tất yếu không tránh khỏi một bộ phận nông dân sẽ không có đất
để sản xuất và trở thành những người lao động làm thuê trong nông thôn. Điều này sẽ
làm tăng tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng trong nông thôn . Mức hạn điền đối với
cây hàng năm của hộ gia đình cần phải được xem xét lại vì mức hạn điền như vậy trong
nhiều trường hợp lại là trở ngại cho sự tích tụ ruộng đất vào các hộ có kinh nghiệm sản
xuất, có khả năng quản lý có điều kiện về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh nông
nghiệp và do đó hạn chế sự phát triển của sản xuất hàng hoá.
Ngay cả trong trường hợp có quyền mua bán đất đai tự do thì sự tích tụ tập chung đất đai
trên quy mô lớn sẽ diễn ra hết sức chậm chạp. Thực tế là người nông dân ĐBSH không
thể bán đất đai bởi vì trong nông nghiệp sức ép từ lao động thừa là quá lớn làm cho họ ít
có cơ hội tìm được việc làm mới thành thử họ không thể bán các phương tiện sống chủ
yếu .
Đối với những hộ sản xuất không đủ tiêu dùng, không đủ khả năng tái sản xuất giản đơn
hoặc những hộ sản xuất đủ tiêu dùng và có một khối lượng sản phẩm không đáng kể để
bán. Ngay cả trong khi có nhiều người mua đất hộ nông dân cũng không thể bán đất. Cốt

Footer Page 13 of 133.



Header Page 14 of 133.

lõi vấn đề là ở chỗ : Đại bộ phận nông dân không thể bán cái phương tiện duy nhất có ý
nghĩa quyết định sự sinh tồn của họ.
3. Thực trạng về vốn sản xuất kinh doanh.
Khả năng tích tụ vốn của đại bộ phận các hộ nông dân là thấp. Các hộ vẫn trong tình
trạng thiếu vốn. Số vốn đầu tư chỉ ở mức thấp các hộ trung bình 200.000-300.000nđ.Các
hộ buôn bán, ngành nghề khoảng trên dưới 1triệu đồng. So với nhu cầu các hộ nghèo
thường thiếu vốn ở giai đoạn đầu, các hộ khác thiếu khoảng 300.000nđ. Các hộ kiêm
nghành nghề thiếu từ 500.000 đến 1 triệu đồng .
Mặt khác chu kỳ Sx nông nghiệp kéo dài nên việc chu chuyển vốn rất chậm, bởi vậy sự
căng thẳng về vồn càng diễn ra gay gắt ,tình trạng cho vay nặng lãi khá phổ biến ở nông
thôn. Do vốn ít nên nông dân sử dụng một khối lượng phân hoá học và thuốc trừ sâu hạn
chế mỗi ha dùng 40-60kg đạm lân và 0,5kg thuốc trừ sâu. Những hộ nghèo do không có
vốn đầu tư sx đã dẫn đến tình trạng bóc lột đất đai. Quy mô thu nhập nhỏ bé khả năng
tích luỹ thấp dẫn đến hạn chế khả năng tái đầu tư sản xuất mở rộng. Mức chi cho sản xuất
nông nghiệp và sản xuất nói chung còn thấp.
Tích luỹ của nông dân không phải dựa trên một nền nông nghiệp thặng dư. Sự tích luỹ
này do sự chắt bóp của nông dân, những nông phẩm được bán đi mua vật tư đầu tư vào
sản xuất đôi khi chính là khẩu phần chủ yếu xâm phạm vào sản phẩm tất yếu. Tích luỹ
chủ yếu từ nghành trồng trọt và chăn nuôi, tích luỹ dưới hình thái hiện vật–những vật
phẩm ít có khả năng sinh lời .ở những làng có nghề thủ công, dịch vụ vốn tiền mặt sẵn
hơn và nó được chu chuyển nhanh hơn ,những nơi này vốn tiền mặt chiếm tỷ trọng cao
khoảng 50% tổng số tiền mặt của hộ số hộ chuyên nghành nghề chiếm tỷ lệ không cao.
Nhóm hộ giàu cũng có tình trạng thiếu vốn .Nguồn vốn tự có bình quân của hộ chuyên
nghành nghề 55,4%,hộ kiêm nghành 63,94%.Vốn vay bình quân của một hộ chuyên
chiếm 44,46%, hộ kiêm là 36,06% ,trong đó tỷ trọng vốn vay ngân hàng của một hộ
chuyên 61,04%, hộ kiêm là 72,43% (Năm 2000). Như vậy vay ngân hàng chiếm tỷ lệ nhỏ
trong tổng vốn vay. Do đó khi vay ngoài họ dễ bị tính lãi xuất cao .
Tình trạng thiếu vốn ở hộ giàu là do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh còn ở nhóm hộ

nghèo thiếu vốn do nhu cầu tái sản xuất giản đơn, đôi khi phần vốn vay mượn để chi
dùng cho nhu cầu cơ bản (Nhu cầu ăn, uống) là chủ yếu. Tình trạng thiếu vốn đã hạn chế
lớn đến việc mở rộng việc làm trong khu vực nông thôn, hạn chế khả năng mở rộng

Footer Page 14 of 133.


Header Page 15 of 133.

nghành nghề, khả năng tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, khả năng nâng cao trình độ
thâm canh nông nghiệp. Trong khi vốn tự có của nông dân thiếu nghiêm trọng thì vốn
đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp có xu hướng giảm. Hệ thống tín dụng trong những
năm gần đây đã có sự tiến bộ đáng kể nhưng hệ thống tín dụng chưa được tổ chức tốt. Hệ
thống tín dụng hợp tác xã có vai trò mờ nhạt. Hệ thống tín dụng tư nhân cho vay với lãi
xuất cao. Bình quân một hộ giàu vay 934.000nđ/năm trong đó vốn ngân hàng là 5%,anh
em họ hàng 7%, tư nhân 20%, các nguồn khác 68%. Vay ngắn hạn bình quân một hộ vay
một năm 498.000nđ, trong đó vay ngân hàng 20%, hợp tác xã tín dụng 7%, HTX nông
nghiệp 24%, anh em họ hàng 10%,vay hộ tư nhân 15%,vay các nguồn khác 24%.Việc cải
thiện tình hình cho vay vốn đã tác động tốt đến sản xuất, giúp cho hộ giàu mở rộng quy
mô sản xuất tạo thêm việc làm trong khu vực. Những hộ nghèo vay vốn họ ít nhiều đã tạo
được cân bằng trong sản xuất. Mặc dù tình hình thiếu vốn là nghiêm trọng song số hộ cần
vay chiếm tỷ lệ không cao(38,1%), hộ nông nghiệp kiêm nghành nghề(36,3%) ở nhóm hộ
nông, ngư nghiệp tỷ lệ này cao hơn 50%. Phản ánh một thực tế năng lực tổ chức sản xuất
của các hộ tiểu nông cũng có giới hạn. Khả năng đầu tư vào sản xuất, hiệu quả mang lại
trong điều kiện tương quan giá cả đầu vào, đầu ra của sản xuất, các điều kiện vay mượn
chưa hẳn đã dễ dàng .
4. Cơ cấu sản xuất kinh doanh :
Cơ cấu kinh tế nông thôn theo 3 nhóm nghành chủ yếu thì ĐBSH đứng ở vị trí trung bình
của cả nước sau Đông Nam Bộ, ĐBSCL và hơn vùngTrung Du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Tây Nguyên. Với tỷ lệ 68,71% nông nghiệp, 15,56% công nghiệp và, dịch vụ 15,73%

(năm1997) .Thì đến nay nông thôn vùng ĐBSH vẫn thuần nông là chính .
Tính chất thuần nông cũng thể hiện rõ nét ở cơ cấu các hộ kinh doanh, hộ kiêm doanh, hộ
phi nông nghiệp tuy có tăng lên qua các năm nhưng tỷ trọng còn nhỏ

Footer Page 15 of 133.


Header Page 16 of 133.

Bảng : Cơ cấu hộ gia đình nông thôn ĐBSH
Loại hộ

1990

1.Tổng số hộ hiện

1995

1998

1999

2000

3.181.569

3.403.707 3.569.020 3.655.692 3.707.151

2.558.130


2.714.888 2.808.223 2.831.340 2.856.440

có trên địa bàn
2.Trong

đó

hộ

nông thôn
Tỷ trọng (%)
a- Hộ

80,4
nông

2.366.182

80,5

78

77,4

77

2.741.888 2.552.685 2.578.192 2.167.552

nghiệp


-Tỷ trọng(%)

74,4

-Hộ thuần nông

Tỷ trọng (%)
-Hộ kiêm doanh
Tỷ trọng (%)

-Hộ kiêm doanh ,
tiểu

thủ

1.647.667

74,9

71,7

71,3

70,6

1.752.971 1.776.794 1.783.402 1.786.794

51,8

51,5


49,4

48,7

48,2

365.132

398.820

421.562

443.161

449.722

11,5

11,7

11,7

12

12,1

182.175

200.579


211.074

221.227

223.117

5,7

5,8

5,8

6

6

177.025

183.873

227.200

221.539

232.988

5,6

5,4


6,3

6

6,2

công

nghiệp
Tỷ trọng (%)
b-Hộ

phi

nông

nghiệp
-Tỷ trọng

( Nguồn : Số liệu điều tra của đề tài KHXH 02-08)
Các hộ phi nông nghiệp, hộ kiêm nghành nghề tăng không ngừng qua các năm cả về số
tương đối và tuyệt đối , trong khi đó số hộ nông nghiệp giảm xuống. Điều này thể hiện xu
hướng chuyển từ sản xuất nông nghiệp là chính sang lĩnh vực phi nông nghiệp và kết hợp
với việc di chuyển lao động dẫn đến thay đổi cơ cấu sản xuất của đơn vị hộ. Nhưng cơ
cấu đó còn thể hiện nhiều hạn chế:

Footer Page 16 of 133.



Header Page 17 of 133.

- Cơ cấu sx phần lớn của các nông hộ là đa nghành nghề nhưng lại không dựa trên cơ sở
chuyên môn hoá sản xuất. Với nguồn vốn ít ỏi vực các nông hộ thường phải phân tán vốn
đầu tư cho nhiều lĩnh vực sản xuất . ngoài phát triển cây lúa và con lợn hai nghành sản
xuất truyền thống còn có các nghành nghề thủ công, thương nghiệp và dịch vụ. Đây là
đặc trưng của hộ sản xuất hàng hoá nhỏvà ít nhiều còn mang tính thời vụ .
Trong nông nghiệp đã xuất hiện chuyên môn hoá đi đôi với phát triển tổng hợp. Như các
vùng chuyên môn hoá trồng rau, hoa, cây ăn quả, chăn nuôi bò sữa, nuôi trồng thuỷ hải
sản. Nhưng tỷ lệ số hộ chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp, chuyên kinh doanh công
thuương nghiệp là quá thấp.
-Cơ cấu sản xuất như vậy nhưng vẫn chủ yếu hướng vào phục vụ nhu cầu của bản thân
hộ. Mục đích của sản xuất không tìm kiếm lợi nhuận, thứ hai cơ cấu sản xuất bao gồm
nhiều nghành nhưng lại rất phân tán manh mún bởi quy mô nhỏ bé, hiện tại đã xuất hiện
nhóm hộ sản xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu thị trường .
Do cơ cấu kinh tế nông thôn vùng ĐBSH còn ở trình độ thấp lại chuyển dịch chậm nên
hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, tỷ lệ lãi trên giá bán một số sản phẩm của vùng thấp
hơn mức trung bình cả nước. Như lúa đông xuân tỷ lệ lãi trên giá bán (Năm 2000) của
vùng là 21,8%, cả nuớc 42,47%. Nền nông nghiệp vẫn là dựa trên nền tảng kinh tế hộ ,
nông nghiệp vẫn là hoạt động chính của dân cư nông thôn. Thu nhập từ nông, lâm ,thuỷ
sản là chủ yếu (67,6%) trong đó thu từ nông nghiệp 91,4%( Thu từ trồng trọt 58,6%, từ
chăn nuôi 40,4% ). Trong trồng trọt thu từ cây hàng năm chiếm tỷ lệ cao (88%).
5- Kết quả sản sản xuất hàng hoá.
Do quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình sx ra sản phẩm ra để bán nên chỉ tiêu quan
trọng nhất phản ánh trình độ sx hàng hoá là tỷ xuất sản phẩm hàng hoá trong tổng giá trị
sản phẩm của người sản xuất: Bao gồm các hộ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, trang
trại , Hộ phi nông nghiệp, chuyên–kiêm doanh, tiểu thủ công nghiệp . Đối với các trang
trại ở ĐBSH giá trị sản lượng hàng hoá bình quân năm 2000 là 134,5 triệu đồng gấp hơn
ba lần tiêu chí so với tiêu chí để xác đinh trang trại. Điều này khẳng định sản xuất hàng
hoá ĐBSH đã phát triển .

Bảng : Kết quả sản xuất hàng hoá, dịch vụ của trang trại một số tỉnh vùng ĐBSH.
Tỉnh

Footer Page 17 of 133.

Tổng số

Tổng thu

Giá trị hàng hoá

Thu nhập bình

trang trại

(triệu

dịch vụ bán ra bình

quân một


Header Page 18 of 133.

đồng)

quân một trang trại

trang trại


(Tr.đ)

(Tr.đ).

ĐBSH

1829

260.393

134,5

46,9

Hà Tây

181

26.123

133,6

36,7

Bắc Ninh

33

5040


131,8

40,4

Hưng Yên

59

12.290

184,4

39,2

Thái Bình

101

19.016

160,2

43,7

Ninh Bình

294

13.320


41,9

17,4

Nam Định

344

50.714

143,7

55,0

( Nguồn : Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn, Thủy sản. Nxb Thống kê2002 )
Nhờ phát triển kinh tế trang trại mà nhiều địa phương đã hướng vào sản xuất hàng hoá
khai thác lợi thế tự nhiên nhiều sẵn có đồng thời đã thay đổi quan điểm sx nên phải
hướng theo thị trường trên cơ sở tiềm năng địa phương mình . Nhiều làng xã ở Hải
Dương , Hưng Yên do chuyển đổi cơ cấu cây trồng thành công nên có mức thu nhập từ
24-26 triệu đồng/ha:Như xã Vĩnh Hoà, Minh Thanh (Huyện Tứ Lộc –Hải Dương); 105107trđ/ha như ở Thạch Khôi –Tứ Lộc (Hải Dương ) .Các xã Thanh Cường( Hải Dương ),
Lam Sơn (Hưng Yên) do chuyển đổi sang trồng Vải Thiều, nhãn lồng cho thu hoạch 6080trđ/ha. Tại Thái Bình : thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng năm 1994
,tỉnh đã thay thế một số diện tích cây công nghiệp bằng các loại cây trồng : Đậu tương,
Cói, lạc vừng , dâu tằm..nên đã cho thu nhập 18,9 trđ/ha . Hà Tây đã thay thế cây màu,
cây lương thực như ngô, khoai bằng những loại cây công nghiệp ngắn ngày có giá tri
kinh tế cao như đậu tương lạc vừng mía. Bên cạnh đó một số xã ở Hà Tây có bình quân
đất nông nghiệp thấp đã chuyển sang các nghành nghề dịch vụ nâng thu nhập bình quân
của mỗi hộ một năm 20 triệu đồng .Tưongtự như vậy số xã ở Thái Bình do bình quân đất
canh tác đầu người thấp nên đã chú trọng phát triển nghề phụ như: Chế biến nông sản ,
thực phẩm, mộc dệt chiếu. ở khu vực ngoại thành Hà Nội đã phát triển theo hướng đẩy
mạnh sản xuất rau màu , phái triển đàn bò sữa , nuôi lợn lạc cùng với phát triển nghề phụ

: Gạch ngói , mộc... Nhờ có thị trường tiêu thụ rộng lớn lại nằm trong xu hướng đô thị
hoá mạnh mẽ nông dân ngoại thành Hà Nội có điều kiện chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh
tế theo hướng sản xuất hàng hoá. Sau 10 năm thực hiện cơ chế khoán mới trong nông

Footer Page 18 of 133.


Header Page 19 of 133.

nghiệp, đến năm 1990 thu nhập của nông dân vùng ĐBSH đã tăng 21,72% so với những
năm 81-85 và4,59%năm 1988.
Đến nay thu nhập của người dân ở ĐBSH đã tăng gấp hai lần so với năm 1990 . Số hộ
giàu chiếm 15%, số hộ nghèo chỉ còn khoảng 17%. Trong những năm đổi mới do nhanh
chóng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu nghành nghề nên nhiều địa
phương đã có sự phát triển tương đối cao về cơ sở hạ tầng , nhà ở.
6. Những tồn tại và khó khăn của kinh tế hộ trong quá trình phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá .
6.1 Một số hạn chế của Hộ kiêm, chuyên nghành- nghề.
Hiện nay các hộ chuyên, kiêm nghành ở ĐBSH gặp phải một số khó khăn trong khâu
tiêu thụ sản phẩm do thị trường ở các làng nghề còn nhỏ bé, bấp bênh, khả năng cạnh
tranh sản phẩm của các làng nghề còn kém. Kênh tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của làng
nghề là gia công cho các doanh nghiệp thành thị hoặc bán thẳng cho chủ bao tiêu, tiêu thụ
trực tiếp trên thị trường. Theo kết quả điều tra làng nghề thì có 85%sản phẩm của hộ
chuyên nghành nghề hay 92,6% với hộ kiêm ở làng nghề tiêu thụ ở thị trường trong tỉnh
và 2-2.5% sản phẩm của hộ kiêm và hộ chuyên được xuất khẩu. Phần còn lại là tiêu thụ
ở thị trường ngoài tỉnh. Nguyên nhân thị trường nhỏ bé bấp bênh như vậy là do :
-

Khả năng tiếp cận với thị trường còn hạn chế. Việc nghiên cứu mẫu mã sản phẩm
tại các làng nghềlà công việc phải được chú ý quan tâm thường xuyên, nhưng việc

cải tiến mẫu mã sản phẩm tại các làng nghề trong vùng rất ít hoặc chưa có. Việc
thay đổi chủng loại các mặt hàng là hoàn toàn do tự phát, không tiêu chuẩn hoá
chất lượng sản phẩm và đăng ký nhãn hiệu cho phù hợp với nhu cầu người tiêu
dùng thì khó có thể chiếm lĩnh thị trường .

-

Mức độ cơ khí hoá, đổi mới công nghệ ở mức thấp, đa số thiết bị là cũ thải loại từ
công nghiệp thành thị . Mức độ cơ khí hoá đạt từ 37-40% . Mức trang thiết bị máy
móc bình quân cho một lao động là 6114000đ/hộ

-

Trình độ tay nghề của người lao động thấp : Số chủ hộ chưa qua đào tạo
51,5-69,8%, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở các hộ nghành nghề từ 54-78%
(tháng 8/2000)

-

Phát triển làng nghề ở đồng bằng sông hồng đang gây ô nhiễm môi trường (không
khí , nước …) do công nghệ lạc hậu và không có công nghệ sử lý chất thải ..

Footer Page 19 of 133.


Header Page 20 of 133.

-

Môi trường thể chế cho các làng nghề nói chung và các hộ chuyên, kiêm nói riêng

ở ĐBSH chưa thể hiện rõ sự khuyến khích làng nghề phát triển. Hiện nay số lượng
doanh nghiệp vừa và nhỏ ( doanh nghiệp tư nhân , Hợp tác xã..) có đăng ký hoạt
động nhưng chưa nhiều, mới đạt 6% còn 94% vẫn thuộc loại hình kinh tề hộ chưa
được pháp lý bảo hộ, nên chưa đủ tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm ở
nông thôn .

6.2 Các hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp
Việc chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá của kinh tế hộ gặp phải một số khó khăn là
thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp theo nhu cầu thị trường
diễn ra không dễ dàng nhất là trong quá trình hội nhập WTO,AFTA
+ Thứ nhất: Bản thân người nông dân sản xuất chủ yếu với mục đích tiêu dùng lên
quyết định sản xuất chi phối đến cơ cấu sản xuất hướng vào việc thoả mãn nhu cầu
gia đình .
+ Thứ hai: Trình độ phát triển của thị trường là nhân tố chi phối có tính quyết đình
đến sự hình thành cơ cấu sản xuất mới, thoát khỏi cơ cấu sản xuất truyền thống .
+ Thứ ba : Quy mô sản xuất của hộ nông dân nhỏ bé , sự am hiểu về kỹ thuật ,
quản lý , về thị trường còn hạn chế nên việc nâng quy mô sản xuất , phát triển
ngành nghề mới cũng hạn chế. Tập quán và thói quen của nông dân được củng cố
và duy trì tạo ra sức ì trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất .
+ Thứ tư : Tác động của hệ thống chính sách làm biến đổi đến cơ cấu sản xuất
truyền thống , hiệu quả gồm khả năng cung cấp vốn công nghệ cải tiến mở rộng
cải tạo đất đai , hệ thống cung cấp nước….

Footer Page 20 of 133.


Header Page 21 of 133.

Phần III : Giải pháp phát triển kinh tế hộ
theo hướng sản xuất hàng hoá ở

Đồng bằng sông Hồng .

I. Những tác động gián tiếp để phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá:
1. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn
- Cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng Đồng bằng sông
Hồng, từ đó cụ thể hoá quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá-hiện đại hoá. Nội dung cần tập chung vào quy hoạch hệ thống công trình
kết cấu hạ tầng chủ yếu như điện, đường, thuỷ lợi, trạm nghiên cứu thực nghiệm, trạm
y tế, chợ, bưu điện, cơ sở chế biến nông, lâm thuỷ sản, các thị trấn, thị tứ, khu công
nghiệp…
1.1--Xây dựng hệ thống giao thông nông thôn đáp ứng sản xuất nông nghiệp hàng
hoá.
- Giao thông nông thôn nói chung bao gồm các tuyến đường thuộc tỉnh, huyện, xã nối
liền tới các thị trường, các khu vực phi kinh tế nông nghiệp và các dịch vụ xã hội
khác, ở đâu có giao thông ở đó có phồn vinh kinh tế- xã hội. Giao thông nông thôn
giúp các hộ nông dân, các trang trại đưa nông sản đến ban cho các cơ sở chế biến, đến
các đô thị. Ngược lại giao thông nông thôn còn giúp thị trường nông thôn phát triển vì
nông thôn là thị trừơng rộng lớn để tiêu thụ các hàng hoá các ngành công nghiệp và
sản xuất khác. Giao thông nông thôn tốt sẽ đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hoá
nông sản, nhất là các nông sản tươi sống phục vụ cho tiêu dùng cũng như công nghiệp
chế biến, giúp giảm 20-30% chi phí, cước phí trong giá thành sản phẩm. Để phát triển
giao thông nông thôn phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp hàng hoá:
- Phải tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong vùng,
nhất là đường giao thông nông thôn theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm
chính quyền địa phương quản lý. Cần có quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá cho các vùng kinh tế trong nước, cho các vùng hàng hoá tập chung lớn như
lúa, cây công nghiệp, rau quả- chăn nuôi phải gắn với giao thông nông thôn, coi giao
thông là khâu kết nối giữa các vùng nguyên liệu và chế biến.

Footer Page 21 of 133.



Header Page 22 of 133.

Đối với hệ thống đường bộ quốc gia cần nâng cấp những tuyến chính và nối kết
chúng thành hệ thống, đảm bảo lưu thông hàng hoá,vật tư nông sản trong phạm vi
toàn vùng và nối kế với Hà Nội, Hải Phòng và cả nước. Mặt khác, cần nâng cấp chất
lượng đường giao thông liên huyện, liên xã phù hợp với yêu cầu phất triển nông
nghiệp hàng hoá và khu kinh tế nông thôn. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội các
địa phương ( tỉnh – huyện – xã ) đều phải chú trọng giao thông nông thôn, lấy mục
tiêu phát triển kinh tế phục vụ dân sinh để đầu tư xây dựng giao thông nông thôn. Giải
pháp hiện nay và những năm tới là bê tông hoá hoặc nhựa hoá theo tiêu chuẩn đường
quốc gia để đảm bảo tính bền vững của hệ thống đường giao thông, cần phải coi trọng
chất lượng, làm đến đâu chắc đến đó, nâng cấp đi cùng duy tu, bảo dưỡng và quản lý.
Chính quyền cấp xã và thôn có trách nhiệm quản lý đường giao thông nông thôn theo
phạm vi của mình, tránh tình trạng “ cha chung không ai khóc” dẫn đến đường vô
chủ, xuống cấp.
-

Vốn cho xây dựng giao thông nông thôn nói chung và Đồng bằng sông

Hồng nói riêng phải dựa vào các nguồn nhà nước các doanh nghiệp vốn viện trợ hoặc
vay với lãi suất ưu đãi cả các tổ chức quốc tế và một phần vốn do dân đóng góp. Tuy
nhiên xuất phát từ điều kiện thực tế, thu nhập và tích luỹ của nông dân vùng Đồng
bằng sông Hồng còn rất thấp nên cần huy động sức dân đống góp chỉ nên đặt ra ở
mức vừa sức dân, chủ yếu là công lao động. Nhà nước cần có chính sách huy động
nguồn vốn đóng góp của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư
thành thị để phát triển giao thông nông thôn. Bước tiếp theo là đổi mới quản lý chỉ
đạo thiết kế, thi công sao cho tiết kiệm và hiệu quả, công khai trong đóng góp và chi
tiêu trong xây dựng và nâng cấp đường giao thông. Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống

điện nông thôn trong những năm tới, vấn đề chủ yếu là ổn định nguồn điện bằng các
biện pháp kỹ thuật và quản lý.
1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống lưới điện nông thôn.
-

Cần hòan thiện hệ thống các trạm hạ thế đường dây tải điện đến tận hộ đảm bảo

cung cấp điện ổn định chất lượng cao đến hộ nông dân. Kinh phí xây dựng trạm biến
thế, hạ thế và hệ thống đường dây chủ yếu từ nhà nước và vốn tài trợ của các tổ chức
quốc tế, thực hiện cơ chế khoán cho tư nhân quản lý và bán điện đến hộ nông dân
thông qua hợp tác xã.

Footer Page 22 of 133.


Header Page 23 of 133.

- Giá bán điện ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng cần đảm bảo sự thống nhất tương
đối trong phạm vi các tỉnh xung quanh giá điện khu vực thành thị, phần chênh lệch
(nếu có) do ngân sách nhà nước bù lỗ nhằm quản sự bất hợp lý hiện nay trong giá bán
điện ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng vì nông dân thu nhập chỉ bằng 1/3 dân thành
thị nhưng lại phải mua điện với giá cao hơn. Giá bán điện cho các hộ sản xuất tiểu thủ
công nghiệp ở các làng nghề cũng cần được xem xét và điều chỉnh theo hướng giảm
so với hiện nay để khuyến khích các cơ sở sử dụng điện thay thế các nguồn năng
lượng khác gây ô nhiễm môi trường như than, củi…
1.3. Cần tiếp tục nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng.
- Đặc điểm của chính sách thuỷ lợi là các biện pháp cung cấp nước tưới cho ngành
trồng trọt. Nước tưới là một yếu tố đầu vào thể hiện tính bổ trợ cho các đầu vào biến
đổi khác. Do đặc điểm nước tưới là hàng hoá công cộng, khi đã sản xuất ra thì không
thể ngăn cản người khác sử dụng, vì vậy rất khó hoặc không thể buộc họ trả tiền về

việc sử dụng đó. Đặc trưng trên của nước tưới khác hẳn cung cầu so với các loại đầu
vào khác dẫn đến chi phí xây dựng hệ thống kênh mương thường rất cao không thể
tính vào giá nước để thu của nông dân. Cũng không thể co biện pháp ngăn cản nông
dân lấy nước từ nguồn kênh mương sẵn có. Do vậy chúng ta phải thực hiện chính
sách cấp kinh phí cho xây dựng các công trình thuỷ lợi. Nhà nước cần ưu tiên vốn đầu
tư nâng cấp các trạm bơm điện hiện có trong vùng để chủ động tưới, tiêu ổn định và
đối phó có hiệu quả trước những diễn biến phức tạp về thời tiết (Nhất là mưa lớn và
hạn hán)
-

Giải pháp kỹ thuật là nâng cấp, thực hiện kiên cố hoá kênh mương, kể cả kênh cấp

1,2,3 và kênh mương nội đồng. Để nâng cấp theo hướng này cần phải có vốn đầu tư
của nhà nước và nhân dân. Trong những năm tới vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà
nước cho thuỷ lợi cho vùng này nên ưu tiên thoả đáng cho chương trình kiên cố hoá
kênh mương.
- Một vấn đề khác là quản lý và hoàn thiện quan hệ giữa công ty thuỷ nông với chính
quyền các xã và ban quản lý các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Để giải quyết vấn
đề này, nhà nước cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các công ty thuỷ nông, của
các uỷ ban nhân dân xã và các hợp tác xã nông nghiệp trong công tác quản lý, bảo
dưỡng các công trình thuỷ nông và thu thuỷ lợi phí. Tăng cường sự tham gia của nông

Footer Page 23 of 133.


Header Page 24 of 133.

dân bằng cách xây dựng các nhóm thuỷ nông của nông dân hay hợp tác xã làm dịch
vụ thuỷ nông để đảm nhận phần lớn chức năng duy tu, bảo dưỡng kênh mương cấp
hai và toàn bộ với kênh mương cấp 3 nội đồng. Điều kiện cơ bản để thực hiện theo

hướng nay là loại bỏ mâu thuẫn về quyền lợi giữa những người nông dân trong phạm
vi công trình thuỷ lợi.
1.4 Cần kiện toàn và nâng cao năng lực của các trạm trại nghiên cứu khoa học và ứng
dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp.
- Trong những năm tới, các ngành ở trung ương và các địa phương trong vùng cần
dành ưu tiên kiện toàn và nâng cấp các cơ sở nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng
tiến bộ vào các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến, bảo
quản nông sản. Các cở sở cần ưu tiên đầu tư trạm, trại, giống cây lương thực, cây thực
phẩm, một số cây ăn quả (nhãn, vải, cam ), trạm nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật mới
trong ngành chăn nuôi bò thịt, bò sữa, lợn thịt theo hướng nạc hoá, gia cầm, ứng dụng
phương pháp tự động hoá trong ngành chăn nuôi.
- Nhanh chóng ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật với phương châm: chất lượng
cao, giá thành hạ để tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường trong và
ngoài nước. Nếu trước đây các cơ sở lai tạo giống chỉ chú trọng năng suất cao thì hiện
nay yêu cầu đòi hỏi chuyển sang giống có năng suất cao, nhất là giống lúa ngô, rau
quả, thịt lợn, thịt gia cầm là những sản phẩm nông nghiệp Đồng bằng sông Hồng có
nhiều tiềm năng và lợi thế. Việc nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch để nâng cao
chất lượng và giảm hao hụt cũng cần đầu tư thoả đáng. Để thực hiện giải pháp trên
cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:
+ Tăng cường đầu tư vốn và cán bộ khoa học – kỹ thuật có năng lực của trung ương
và địa phương cho các trạm, trại với chế độ trách nhiệm và đãi ngộ hợp lý.
+ Tập chung cao độ cho các lĩnh vực lai tạo và nhân giống cây con, bảo vệ thực vật,
thuỷ lợi, khuyến nông, khuyến ngư, công nghệ sau thu hoạch, công nghiệp chế biến
nông sản, thuỷ sản.
+ Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ xã, hợp tác xã nông nghiệp để nâng cao trình
độ khoa học kỹ thuật và kiến thức quản lý sản xuất trong cơ chế thị trường
+ Bồi dưỡng và nâng cao dân trí nông dân trong vùng theo yêu cầu của sản xuất hàng
hoá vốn là thế mạnh và tiềm năng to lớn của ĐBSH.

Footer Page 24 of 133.



Header Page 25 of 133.

2. Phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ.
- Công nghiệp chế biến nông sản là một nhóm ngành chế biến tiến hành chế biến
những nguyên liệu từ nông nghiệp. Trong nền kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc, việc
chế biến nông sản chủ yếu được tập chung trong phạm vi các hộ gia đình. Khi chuyển
sang nền kinh tế hàng hoá việc chế biến nông sản trở thành dịch vụ kỹ thuật được
thực hiện cả trong và ngoài hộ gia đình nông dân và trở thành ngành công nghiệp chế
biến nông sản ở nông thôn. Nguyên liệu và sản phẩm chế biến rất đa dạng, do đó công
nghiệp chế biến nông sản có nhiều ngành nghề chế biến lương thực, cụ thể là lúa gạo,
ngô, khoai, sắn…chế biến thực phẩm như cá, tôm, thịt, sữa, đường, rượu…
-

Công nghiệp chế biến nông sản là một bộ phận hợp thành của công nghiệp chế

biến, thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng
của nguyên liệu từ nông nghiệp thông qua quá rình cơ nhiệt hoá, nhằm đáp ứng nhu
cầu của thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đưa lại hiệu quả
kinh tế cao.
- Trong nền kinh tế tự nhiên, nông nghiệp chiếm vị trí thống trị, sản xuất phụ thuộc
vào tự nhiên, sản xuất chủ yếu là để tiêu dùng. Đặc trưng của kinh tế tự nhiên là lực
lượng sản xuất hết sức thấp kém, lạc hậu, công cụ lao động thủ công. Khi chuyển
sang nền nông nghiệp hàng hoá sản xuất ra sản phẩm để bán mà muốn bán được sản
phẩm và bán được giá cao thì phải thông qua công nghiệp chế biến. Sự phát triển các
ngành công nghiệp chế biến nông sản sẽ tạo thị trưòng tiêu thụ các sản phẩm nông
nghiệp, góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động, công nghiệp
chế biến nông sản vừa có vai trò trực tiếp và vừa có vai trò gián tiếp tới sự phát triển
nông nghiệp hàng hoá, tạo cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp là khâu đột phá

để công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện để nền nông
nghiệp hàng hoá phát triển mạnh mẽ hơn.
3. Nâng cao chất lượng dịch vụ trong nông nghiệp.
+ Dịch vụ sản xuất nông nghiệp vốn là những khâu của quá trình sản xuất được tách
riêng ra. Người trồng lúa tự túc, tự cấp bản thân họ vừa sản xuất, vừa tự phục vụ quá
trình sản xuất của mình. Nhưng để sản xuất hàng hoá hộ với tư cách là đơn vị chủ sản
xuất, kinh doanh, có nhưng hạn chế về vốn, vật tư kỹ thuật, khả năng ứng phó với
diễn biến phức tạp của thời tiết, sâu bệnh,nên nhu cầu dịch vụ tăng. Tuy vậy người

Footer Page 25 of 133.


×