Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1979 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.6 KB, 12 trang )

BÀI THU HOẠCH
Môn: Lịch

Sử Kinh Tế Việt Nam

Giảng viên: Phạm Thị Hồng Điệp
Nhóm 8:
1.Nguyễn Thị Hải
2.Nguyễn Thị Nga
3.Vũ Huy Hoàng
4.Phạm Thị Hoài Thu
5.Phạm Hải Yến

Chủ đề: ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CỦA
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ-XÃ HỘI GIAI ĐOẠN
1979-1985

I.Tổng quan lịch sử
1- Bối cảnh.
_ Ngày 30/04/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi vẻ vang, đất
nước ta hoàn toàn độc lập, ngày 25/04/1976 nước ta tổ chức tổng
tuyển cử, bước đầu thống nhất về mặt chính trị.
_Đại hội Đảng lần thứ IV tháng 12/1976 đã xác định thống nhất kinh
tế bằng việc áp dụng mô hình kinh tế ở miền Bắc vào miền Nam, phấn
đấu đưa nước ta phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong
vòng 20 năm trên cơ sở ban đầu là kế hoạch 5 năm lần thứ 2 19761980, rồi đến lần 3 giai đoạn 1981-1985.
⇒ Như vậy chế độ sở hữu tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa mới đã
thống trị với quy mô cả nước, đồng thời mô hình kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp cũng được xác lập trong cả 2 miền Nam,
Bắc.



2- Những khó khăn chủ yếu.
_Cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến
vẫn còn là sản xuất nhỏ, mang đậm tính chất “ nông dân - nông
nghiệp”. Được thể hiện qua những mặt: quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún, quản lý sản xuất thiếu chặt chẽ, trình độ sản xuất yếu kém, công
cụ thô sơ, chưa áp dụng được những tiến bộ KHKT, hiệu quả lao động
thấp.
_Không những thế, nền kinh tế còn phải chịu hậu quả nặng nề của 30
năm chiến tranh ác liệt, sự khai thác đến kiệt quệ nguồn tài nguyên và
nhân lực của TD Pháp cùng với sự bao vây cấm vận của Mĩ, ở miền
Nam vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới. Các thế
lực phản động trong và ngoài nước không ngừng chống phá, gây ảnh
hưởng lớn đến đến sự ổn định của đất nước nói chung và tình hình
kinh tế nói riêng.
3- Những thuận lợi cơ bản.
_Tổ quốc được hòa bình, độc lập, thống nhất, nhân dân phấn khởi, hai
miền Nam - Bắc có thể hỗ trợ cho nhau trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
_Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô đang
trên đà lớn mạnh, phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân đang phát triển rộng khắp; cuộc cách mạng
khoa học – kĩ thuật trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và đem lại
những thành tựu cực kì to lớn trong sự phát triển kinh tế của các nước.
Những điều đó là một điều kiện thuận lợi cho nước ta xây dựng và
phát triển nền kinh tế.

II.Đặc điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn
1979-1985.
Trong giai đoạn 1976-1978, khi nền kinh tế nước ta lần đầu tiên

được thống nhất với mô hình cơ chế hóa tập chung, quan liêu bao cấp,
kinh tế nước ta đã có những thay đổi tích cực. Tuy nhiên, từ năm


1979, qua nhiều chỉ tiêu trong kế hoạch đề ra đã không đạt, nông
nghiệp sa sút, công nghiệp trì trệ, lưu thông rối loạn, lạm phát tăng
nhanh…Cả nước bước vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế- xã hội
nghiêm trọng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội trong thời kì này không giống
với các cuộc khủng hoảng chu kì trong nền kinh tế các nước chủ nghĩa
tư bản, cũng không giống như các cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ
hay khủng hoảng kinh tế đi liền với khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng
năng lượng, lương thực, khủng hoảng thừa hay khủng hoảng thiếu…
Đây là cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội đặc biệt.
Nhìn một cách tổng quan, cuộc khủng hoảng này có những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội không phải điễn ra
trong một lĩnh vực kinh tế nào đó mà trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế, trước hết đó là sự khủng hoảng toàn bộ cơ chế
quản lí kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp.
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả
phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền
quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho
doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước làm
mất đi tính sáng tạo trong sản xuất, gò bó, ép buộc. Các cơ quan hành
chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các

doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết
định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng
gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
1.Nông nghiệp.


Trong giai đoạn 1976- 1980, quy mô hợp của các hợp tác xã được
mở rộng nhanh chóng, đầu tư của nhà nước vào nông nghiệp tăng lên
nhưng sản xuất trong nông nghiệp vẫn trì trệ. Quy mô hợp tác xã càng
mở rộng thì càng gia tăng tình trạng vô chủ, càng thất thoát tài sản,
quỹ vốn, diện tích gieo trồng bỏ hoang hóa ngày càng tăng, người lao
động thờ ơ với công việc của hợp tác xã, mức thu nhập của xã viên
giảm, tỉ trọng thu nhập từ hợp tác xã chỉ từ 10-40%, nhà nước phải
đưa gạo chi viện cho nông dân. Đến cuối năm 1979, một số hợp tác xã
và tập đoàn sản xuất đã bắt đầu tan rã ở một số nơi. Sản lượng thóc
trong giai đoạn này không những không tăng mà thậm chí còn giảm.
(Năm 1976 là 11,827 triệu tấn, 1977 là 10,957 triệu tấn, 1978 là 9,789
triệu tấn…). Hàng năm phải nhập khẩu lương thực với khối lượng lớn,
chỉ tính riêng năm 1979, nước ta đã phải nhập khẩu lượng lương thực
là 1,708 triệu tấn. Chưa bao giờ vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long lại
phải cứu đói như những năm 1979-1980. Sản xuất không đủ tiêu dùng.
Thu nhập của người nông dân bấp bênh và giảm sút, đời sống của
người nông dân không được đảm bảo. Mô hình tập thể hóa trong nông
nghiệp đã rơi vào khủng hoảng.
2.Công nghiệp.
Nhà nước tập trung quyền quản lí bằng cách quốc hữu hóa các cơ sở
công nghiệp của tư sản mại bản và tư bản công nghiệp lớn chạy ra
nước ngoài, cải tạo, chuyển các tư bản vừa và nhỏ thành công tư hợp
doanh. Các doanh nghiệp ngày càng phụ thuộc vào nhà nước cả về
vốn và vật tư sản xuất, không được chủ động trong sản xuất và kinh

doanh, thiếu tính cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng không ổn định. Tốc
độ phát triển công nghiệp bình quân hàng năm thấp, chỉ đạt 0,6%, tăng
trưởng của công nghiệp trung ương là -4,1%, địa phương là 3,9%..Tuy
chiếm 41% giá trị tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân nhưng
công nghiệp chỉ tạo ra được 28,2% thu nhập quốc dân. Công nghiệp đi
vào đình đốn, “lời giả” mà ” lỗ thật”.
3.Thương nghiệp- tài chính- tiền tệ.
• Thương nghiệp


Cơ cấu thương nghiệp mất cân đối.Giai đoạn này nước ta luôn trong
tình trạng nhập siêu. Giá trị hàng hóa nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu.
Giá trị hàng hóa xuất khẩu chưa vượt qua 30% giá trị hàng hóa nhập
khẩu.
Nguồn dự trữ hàng hóa cạn kiệt .Các thương nghiệp quốc doanh rơi
vào khủng hoảng nghiêm trọng, làm ăn thua lỗ, phải bù đắp bằng trợ
cấp trong ngân sách quốc gia. Ngân sách nhà nước bội chi ngày càng
lớn. Nước ta lâm vào hoàn cảnh “làm không đủ ăn”, “thu không đủ
chi”, “ xuất không đủ nhập”. Nền ngoại thương bước vào giai đoạn
khủng hoảng nghiêm trọng.
• Tài chính
Từ năm 1976 đến năm 1980, thu từ vay nợ và viện trợ nước ngoài
chiếm 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng thu trong nước.
Đến năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỉ rúp và 1,9 tỉ USD.
Trong khi đó thu nhập quốc dân chỉ chiếm khoảng 13 tỉ USD.
Ngân sách luôn bị thâm hụt. Nền tài chính quốc gia lâm vào khủng
hoảng trầm trọng.
• Tiền tệ
Bội chi ngân sách đã dẫn đến bội chi tiền mặt, số lượng tiền mặt lưu
thông tăng đột biến, đồng tiền mất giá. Số lượng tiền lưu thông từ cuối

năm 1980 so với năm 1978 tăng gấp hơn 2 lần. Lạm phát luôn tăng
hai con số. Giá cả hàng hóa tăng nhanh. Mức giá trên thị trường tự do
tăng với tốc độ ngày càng cao. Giá trên thị trường tự do ngày càng
cách xa với mức giá do nhà nước quy định, mức giá hàng nhập bán
trong nước thấp hơn nhiều so với giá vốn nhập hàng nước ngoài. Mức
bù giá trong ngân sách nhà nước ngày càng cao.
Thứ hai, khủng hoảng không chỉ dừng lại ở cơ chế quản lí kinh
tế mà còn ở cả những cơ sở của nền kinh tế, cả thể chế kinh tế xã
hội chủ nghĩa trước đổi mới.


Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp được duy trì quá
lâu, đã gây tác hại trong nhiều năm. Cơ chế cũ đã không chú trọng
đầy đủ tới đặc điểm kinh tế hàng hóa và quy luật giá trị, tới cơ cấu đa
dạng của sản phẩm hàng hóa có chất lượng và giá trị cao để cạnh
tranh. Các hình thức sở hữu ngoài quốc doanh và tập thể không được
chú trọng, tiềm năng và năng lực kinh tế cá thể, tư nhân không được
khai thác. Cơ cấu thành phần kinh tế mất cân đối, làm giảm chất
lượng và dư thừa một lượng lớn các sản phẩm của quá trình sản xuất.
Nhà nước đã quốc hữu hóa gần như toàn bộ các doanh nghiệp công
nghiệp làm cho số lượng các xí nghiệp quốc doanh tăng nhanh. Trên
lĩnh vực hoạt động ngoại thương và nội thương, thành phần quốc
doanh cũng chiếm phần lớn, nắm bắt gần như toàn bộ thị trường xuất
nhập khẩu. Các thành phần kinh tế khác bị chèn ép, không có cơ hội
phát triển do đó mà nền kinh tế mất cân đối. Kinh tế hiện vật và kinh
tế chỉ huy đã chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến sự
cứng nhắc trong quản lí, trong cơ chế và chính sách.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền,
quan liêu.

Trong thời kỳ này, nhà nước đã sử dụng các hình thức bao cấp:
a, Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư,
hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị
trường. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được
cho không. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, không có vai trò.
b, Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy
định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên,
công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu
với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương
thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và
phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.


c, Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có
chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp
vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho
sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”.

Thứ ba, đây không chỉ là cuộc khủng hoảng của riêng Việt Nam
mà là sự khủng hoảng mô hình xã hội chủ nghĩa trước đổi mới và
có tính chất quốc tế, khủng hoảng toàn bộ hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa.
Trong những năm 70 của thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều biến
động báo hiệu một cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu. Do dập
khuôn một cách giáo điều theo mô hình xã hội chủ nghĩa đã được xây
dưng ở Liên Xô đối với các nước khác nhau, nên ngay từ những năm
đầu của thập niên 70, ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã có những
biểu hiện của cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội. Bắt đầu từ cuộc
khủng hoảng năng lượng năm 1973 gây ảnh hưởng đến nhiều nước xã
hội chủ nghĩa. Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lây lan ra nhiêu lĩnh

vực và nhiều nước. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhịp độ tăng trưởng
kinh tế bắt đầu suy giảm rõ rệt, nhịp độ sản xuất giảm sút. Giá cả tăng
vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các cuộc bãi công, biểu
tình đòi cải thiện cuộc sống liên tiếp xảy ra. Các cuộc chiến tranh, lật
đổ chính quyền diễn ra. Hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào
tình trạng bất ổn về xã hội, nền kinh tế ngày càng sa sút. Thu nhập
quốc dân giảm, nợ nước ngoài gia tăng nhanh chóng, sản xuất công
nghiệp giảm, sản xuất nông nghiệp phát triển chậm, vật giá lên cao,
lạm phát tăng vụt. Đến cuối những năm 80, hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa bước vào thời kì khủng hoảng trầm trọng và dần dần sụp đổ.

III.Phân tích nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế
giai đoạn 1979-1985
Cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1979-1985 xảy ra do nhiều
nguyên nhân, không chỉ do có sự tác động của yếu tố bên ngoài mà
chủ yếu là do những nguyên nhân xuất phát từ bộ nền kinh tế, trong


đường lối lãnh đạo, trong các chính sách phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước ta.

1.Nguyên nhân khách quan
Chúng ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất
nhỏ, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề với hậu quả rất nghiêm
trọng. Nhiều thành phố bị phá hủy, nhiều thị trấn, thị xã, xóm làng,
đồng ruộng bị hủy diệt, các cơ sở công nghiệp, công trình giao
thông…bị hư hại nghiêm trọng.
Trong khi còn chưa khắc phục được hậu quả của cuộc chiến tranh
trước đây thì năm 1979 chiến tranh biên giới lại xảy ra, đồng thời
chúng ta lại phải đưa quân đội sang giúp đỡ nhân dân Campuchia loại

trừ thảm họa diệt chủng. Cũng từ đó nước ta chịu sự bao vây cấm vận
của Mĩ và các thế lực thù địch bên ngoài, chịu nhiều hậu quả của chủ
nghĩa thực dân cũ và mới, gây khó khăn trong việc lưu thông hàng
hóa, giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới, kinh tế hàng hóa bị
cản trở, xuất nhập khẩu ngày càng bị hạn chế.
Trong nước, các thế lực phản động câu kết với bên ngoài chống phá
cách mạng, chúng dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền, phá hoại, mua
chuộc cán bộ, người dân, xúi dục các phần tử quấy rối…nhằm gây
những cái nhìn lệch lạc về cách mạng, làm rạn nứt khối đoàn kết toàn
dân, chia rẽ nhân dân ta…
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang suy yếu và bước vào cuộc
khủng hoảng toàn diện về kinh tế- xã hội vào những năm đầu của thập
niên 80.

2.Nguyên nhân chủ quan
Trong công tác xây dựng và quản lí kinh tế của Đảng và Nhà nước
như Đại hội IV của Đảng đã nhận định một số sai lầm khuyết điểm
như sau:
-Về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi.


Sau khi nước nhà được thống nhất, việc đánh giá tình hình cụ thể về
các mặt kinh tế xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu xót. Trong thời
kì này đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lí luận và vận dụng các quy
luật đang hoạt động trong thời kì quá độ, đã mắc bệnh duy ý chí ,giản
đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Có tư
tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần
thiết.Trong 5 năm 1976-1980 ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết…chưa thấy được sự cần

thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa thấy được sự cần
thiết phải xóa bỏ hẳn cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp,
có những thành kiến không đúng, chưa thực sự thừa nhận những quy
luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan, không chú ý vận
dụng vào việc hoạch định các chủ trương, chính sách kinh tế. Do đó
trong 10 năm qua đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu
và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật, cải tạo XHCN và quản
lí.
-Về bố trí cơ cấu kinh tế.
Ta có sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, thường chỉ xuất phát từ
lòng mong muốn đi nhanh không tính tới điều kiện và khả năng thực
tế. Nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, chưa có tích lũy
đáng kể trong nội bộ nền kinh tế, cơ sở vật chất kĩ thuật còn yếu kém,
thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ kĩ thuật nói chung còn lạc hậu...Trong
các kế hoạch 5 năm đã thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những
công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết vấn đề căn bản,
vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng phát triển công nghiệp
nặng, đầu tư lại dàn trải ra nhiều công trình quy mô lớn nên hết kế
hoạch 5 năm mà nhiều công trình vẫn dở dang, chưa đưa vào hoạt
động, trong khi công nghiêp nhẹ chưa được chú ý đúng mức.Việc
nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ kinh tế tư nhân ở miền
Nam đã cắt đứt nguồn vốn, vật tư và thị trường mà các xí nghiệp này
vốn có mối liên hệ với nước ngoài. Các cơ sở công nghiệp của tư sản


mại bản và tư bản công nghiệp lớn chạy ra nước ngoài đều bị quốc
hữu hóa, trở thành doanh nghiệp quốc doanh, các tư bản vừa và nhỏ
trở thành công tư hợp doanh. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả
rất thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế rất chậm, thậm chí còn có xu

hướng giảm.
-Về cải tạo XHCN
Trong lĩnh vực này cũng có những sai lầm thể hiện ỏ chỗ nóng vội,
muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh
chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh, tổ chức lại theo
hướng tập trung, chuyên môn hóa, cơ giới hóa . Sự phát triển của quan
hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Nó được thể hiện ở chỗ, sự áp đặt phổ biến và cứng nhắc của
hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong khi lực lượng sản xuất chưa có gì thay đổi.
Trong cải tạo, cách làm thường gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ
chất lượng và hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội lại buông lỏng
quản lí. Các hợp tác xã được đưa lên quy mô lớn hơn, tập thể hóa triệt
để tư liệu sản xuất trong khi chưa có đủ điều kiện, áp dụng máy móc
những hình thức tổ chức và quản lí giống nhau vào các vùng và các
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất khác nhau.Trong những năm 1975-1976,
thực hiện vận động rộng lớn nông dân tham gia vào các hình thức tập
thể kinh tế quá độ như tổ nông dân đoàn kết sản xuất, tổ vần công, đổi
công…Nông dân được ồ ạt đưa vào làm ăn tập thể trong khi việc giải
quyết ruộng đất chưa được giải quyết hợp lí, vì vậy nhiều địa phương
đã buông lơi công tác cải tạo. Không ít tổ chức được gọi là công tư
hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất chỉ là hình thức, không có
thực chất của quan hệ sản xuất mới. Quy mô các tổ chức này càng lớn
thì hiệu quả kinh tế càng thấp.
Về cơ chế quản lí kinh tế.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp được duy trì quá
lâu, đã gây tác hại trong nhiều năm nhưng chưa bị xóa bỏ. Nhiều
chính sách thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi. Chế độ phân phối



theo ngày công và bình quân theo định suất đã dẫn đến tình trạng xã
viên chán nản, tiêu cực, ỷ lại, vô trách nhiệm đối với những công việc
chung của hợp tác xã, ruộng đất bị bỏ hoang. Trong thời gian này tuy
có một số cải tiến quản lí nhưng còn chắp vá, thiếu đồng bộ, không ăn
khớp, thậm chí trái ngược nhau. Cơ chế này phù hợp và có vai trò to
lớn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cùng các thế lực tay sai,
nhưng khi chuyển sang thời kì cả nước phát triển kinh tế trong điều
kiện đất nước hòa bình, thống nhất, cơ chế này đã trở thành kìm hãm
sự phát triển của sản xuất, trở thành một nguyên nhân đẩy đất nước rơi
vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng.
Về cơ chế mới ,chúng ta mới đưa ra được phương hướng, còn nội
dung, hình thức, bước đi, cách làm cụ thể còn chưa rõ. Đặc biệt khi
lĩnh vực lưu thông căng thẳng và rối ren, thị trường tài chính tiền tệ
không ổn định, thâm hụt ngân sách nặng nề đã dẫn đến lạm phát trầm
trọng dẫn đến cuộc điều chỉnh giá –lương –tiền cuối năm 1985, nhưng
đã phạm sai lầm về các giải pháp cụ thể, trong việc định giá, định mức
lương, tiền đổi, xác định bước đi trong điều chỉnh giá- lương- tiền
thiếu chuẩn bị chu đáo.
Quản lí buông lỏng, pháp luật và kỉ cương của nhà nước bị vi phạm
ngày càng phổ biến. Bộ máy quản lí cồng kềnh, phình ra qúa lớn, ngày
càng xa rời thực tiễn sản xuất. Cán bộ quản lí thì dần thoát li sản xuất,
đi vào hành chính quan liêu hóa, trở thành” cán bộ túi xách”, lạm
dụng chức quyền, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người lao
động. Có thể nhận thấy rằng ” Những sai lầm và khuyết điểm trong
lãnh đạo kinh tế xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt
động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”. Đây là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân.
Như vậy, thời kì 1976- 1985, trên phạm vi cả nước đã áp dụng mở
rộng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp mà
miền Bắc đã xây dựng trước đây. Những nhược điểm của mô hình

kinh tế đã trở thành sức cản trở lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội,
làm cho khủng hoảng kinh tế trở nên gay gắt.


Bài học kinh nghiệm
Sau khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1979-1985, Đảng ta đã rút ra
được nhiều bài học kinh nghiệm trong công tác quản lí và hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế của đất nước: không nên nóng vội mà bỏ
qua những điều kiện và bước đi cần thiết, xác định rõ việc cần thiết
phải xóa bỏ các cơ chế, thể chế đã lỗi thời, không phù hợp, sát sao
trong công tác quản lí, chú trọng bồi dưỡng cán bộ quản lí, mở rộng
hợp tác và học hỏi kinh nghiệp của các nước trong khu vực và trên thế
giới…Đó là những yếu tố cần thiết trong việc khắc phục những khuyết
tật, yếu kém của nền kinh tế, tạo những nét chấm phá để giải khủng
hoảng, đưa nền kinh tế nước ta đi vào quỹ đạo phát triên mới.



×