Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

cơ sở văn hóa việt nam văn hóa triều Nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.09 KB, 10 trang )

Đề bài: Văn hóa Triều Nguyễn





Triều Nguyễn có thể được chia ra hai giai đoạn riêng biệt: Giai đoạn Độc lập và Giai
đoạn bị đế quốc Pháp xâm lăng và đô hộ. Giai đoạn độc lập (1802-1884) là giai đoạn mà
các vua nhà Nguyễn đang nắm toàn quyền quản lý đất nước, kéo dài 56 năm và trải qua
4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và giai đoạn Pháp xâm lăng nước ta.
Giai đoạn bị Pháp đô hộ (1884-1945) là giai đoạn kể từ việc nhà Nguyễn ký với Pháp hiệp
ước Pa- tơ-nốt và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
A.Giai đoạn độc lập (1802 – 1884 )
I. Hoàn cảnh lịch sử:
Đây là giai đoạn mà các vua nhà Nguyễn đang nắm toàn quyền quản lý đất nước, kéo dài
56 năm và trải qua 4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Và từ tháng 8
năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm chiếm
Sài Gòn cho đến khi Pháp ký được hiệp ước pa- tơ- nốt với triều Nguyễn. Khẳng định
việc mất nước hoàn toàn của ta.
II. Văn hóa triều Nguyễn:
1. Văn hóa tinh thần:

Nho giáo

Cũng giống như triều Lê, các vua Nguyễn lấy Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho
việc cai trị và giáo dục.
Tư tưởng Khổng giám còn được vua Minh Mạng đem áp dụng cho dân gian qua "mười
điều huấn dụ".
Vua Gia Long cho lập văn miếu tại các trấn để thờ Khổng Tử, lập Quốc Tử giám ở Kinh đô
để dạy cho các con quan và sĩ tử.



Chương trình học nặng nề tư tưởng Nho giáo, văn chương thơ phú được đề cao mà
những vấn đề thực tế ích quốc lợi dân thì không được đề cập.

Phật giáo
Các vua của triều Nguyễn tôn trọng đạo Phật.
Năm 1815, vua Gia Long cho tu bổ lại chùa Thiên Mụ.
Năm 1826 vua Minh Mạng cho dựng lại chùa Thành Duyên.
Năm 1830, vua Minh Mạng triệu tập các cao tăng về kinh đô để kiểm tra đạo học.
Năm 1844, vua Thiệu Trị, theo di chúc của vua Minh Mạng cho dựng một ngôi tháp cao
bảy tầng ở chùa Thiên Mụ, đặt tên là Từ Nhân Tháp (sau này đổi thành Phước Duyên
Bảo Tháp). Cũng trong năm ấy ngôi chùa Diệu Đế nổi tiếng ở Huế được dựng lên.
Các chùa công như chùa Thiên Mụ, Giác Hoàng đều có cao tăng trụ trì, được gọi là tăng
cương. Vị này có lương bổng của triều đình và có nhiệm vụ dạy cho tăng chúng việc tu
học. Nhà vua còn ban ruộng đất cho các chùa lớn để cày cấy tăng gia.

Đạo Thiên Chúa
Đạo Thiên Chúa dưới thời Nguyễn bị hạn chế nặng nề. Vua Gia Long không đàn áp tôn
giáo này, nhưng các vua sau thì cấm đạp cương quyết. Thừa sai và tín độ bị giết không ít.
Hải quân Pháp lấy cớ ấy, thị uy ở cửa biển Đà Nẵng ba lần dưới thời vua Thiệu Trị, nhưng
không làm thay đổi được chính sách cấm đạo của các vua Nguyễn.

Văn học
Thời Nguyễn đã để lại một khối lượng khổng lồ về văn học cả của Triều đình lẫn của dân
gian nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức sau khi đã thành lập Quốc sử
quán.
-Những tác phẩm quan trọng:


Nhất thống địa dư chí (1806) viết về địa lý tự nhiên, tổ sản, đường sá, phong tục, chợ

búa của tất cả các trấn từ Lạng Sơn đến Hà Tiên.
Đạt Nam Thưc lục tiền biên và chính viên do Quốc sử quán biên soạn, kê khai theo kiểu
biên niên các sự kiện từ thời các chúa Nguyễn cho đến các vua Nguyễn.
Đại Nam liệt truyện viết về các nhân vật nổi tiếng của thời Nguyễn, Đại Nam nhất thống
chí viết về phong tục, sản vật, địa lý của tất cả các tỉnh (1865),
Việt sử thông giảm cương mục (lịch sử Việt Nam) cũng viết xong năm 1884...
- Số lượng sáng tác trong dân chúng cũng rất đáng kể. ở đất Thăng Long nghìn năm văn
vật có Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát...
ở miền Trung có nhóm "Mạc Thi vân xã" của nho sĩ quý tộc như Tùng Thiện Vương, Tuy
Lý Vương, tập hợp văn tài của đất Thần kinh có đến 50 người tham gia.
ở miền cực nam của đất nước có "Chiêu Anh các" tại Hà Tiên. ở Gia Định có nhóm "Gia
Định Tam gia": Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tỉnh.
Ngoài ra trong dân gian còn có các tác phẩm vô danh nhưng vô cùng giá trị, lưu lại cho
đến ngày nay như "Lý Công, Phạm Tải - Ngọc Hoa", "Tống Trân-Ngọc Hoa"...

Giáo dục
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng
Tử và lập Quốc Tử Giám (1803) ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở
khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan.
Cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới
và chương trình học chế đồng thời tái lập lại các khoa thi ở các trấn.
Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi. Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở
khoa thi Hương ở các địa phương.
Trong dân chúng, việc học tập có tính chất tự do hơn. Bất kỳ người nào có học lực kha
khá cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc
ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận
đến học.


2.


Văn hóa vật chất:

Kiến trúc-Mĩ thuật
1. Kiến trúc kinh đô Huế
a.Kinh thành Huế
Kiểu kiến trúc kinh thành Huế là tiêu biểu cho kiến trúc thời nhà Nguyễn
Kinh thành Huế nằm bên bờ sông Hương là một quần thể kiến trúc rộng lớn và đẹp nhất
nước ta thời đó
Kinh đô Huế do Gia Long xác định và khởi công xây dựng vào năm 1804 trên nền thành
Phú Xuân cũ
Vua Minh Mạng lên ngôi đã cho quy hoạch lại hoàng thành, sửa sang cung điện như
ngày nay
Gồm 3 vòng thành gần vuông:
-Vòng ngoài: chu vi chừng 10km, 10 cửa và hào sâu bao quanh
-Vòng giữa: là Hoàng thành gồm cửa Hòa Bình, cửa Ngọ Môn nằm trên đường trục
chính, phần trên là lầu Ngũ Phụng gồm 100 cột lớn nhỏ, ở giữa khu Nam là điện Thái
Hòa: nơi đặt ngai vàng và nơi vua thiết triều
-Trong cùng: là Tử Cấm Thành hình vuông, cạnh dài 300m nơi vua ở và làm việc
b. Lăng tẩm nhà vua
Là các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và
thiên nhiên, được xây dựng theo sở thích các nhà vua theo lối phong thủy
Các khu lăng mộ lớn
-Lăng Gia Long (Thiên Thọ lăng): hoành tráng
-Lăng Minh Mạng ( Hiếu Lăng ): thâm nghiêm
-Lăng Thiệu Trị ( Xương Lăng ): thanh thoát


-Lăng Tự Đức ( Khiêm Lăng ): thơ mộng
-Lăng Dục Đức ( An Lăng ): đơn giản

-Lăng Đồng Khánh ( Tư Lăng ): xinh xắn
-Lăng Khải Định ( Ứng Lăng ): tinh xảo
2. Điêu khắc và hội họa
a. Điêu khắc
Mang tính tượng trưng cao nhất là các con vật như Nghê, Cửu Đỉnh đúc bằng đồng,
chạm khắc trên đá, tượng người và các con vật như Voi, Rồng bằng đá và xi măng
Điêu khắc Phật giáo tiếp tục phát huy truyền thống sẵn có của khuynh hướng dân gian,
làng xã
Các pho tượng được mang tính hiện thực cao, Hộ pháp có kích thước lớn, tượng Thánh
Mẫu chùa Trăm gian, Tam Thế ( Bắc Ninh )
b.Hội họa
Dòng tranh khắc gỗ dân gian Kim Hoàng (Hoài Đức-Hà Tây) xuất hiện vào thời kì này
Chỉ có nét và mảng màu đen được in ván gỗ sau đó dựa vào mảng phân hình và tô vẽ các
màu khác nhau
Được in và vẽ trên giấy Hồng Điều hoặc giấy Tàu Vang nhập của nước ngoài

Âm nhạc
Khi triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) lên kế vị, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định
đã tạo điều kiện cho văn hoá nghệ thuật phát triển
Âm nhạc cung đình được nhà vua coi trọng và giao cho Bộ Lễ tổ chức. Bấy giờ triều đình
quy định 7 thể loại âm nhạc: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường
triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung nhạc.


Sử dụng trong các loại nhạc này là do các quan trong bộ Lễ biên soạn, có nội dung phù
hợp với từng cuộc lễ của triều đình.
Bên cạnh số lượng phong phú các nhạc chương, có thể nói đây còn là thời điểm nở rộ
của các dàn nhạc cung đình. So với các thời đại trước, triều đình Nguyễn đã cho bổ sung
thêm nhiều loại dàn nhạc như Nhã nhạc, Huyền nhạc, Ti Trúc Tế nhạc, Ty chung, Ty
Khánh, Ty Cổ. Biên chế các dàn nhạc cũng được mở rộng hơn trước, một số quy mô rất

lớn.
B. Giai đoạn bị đế quốc Pháp xâm lăng và đô hộ (1884 - 1945)
I. Hoàn cảnh lịch sử:
Giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ (1884-1945) là giai đoạn Pháp ký hiệp ước pa- tơnốt với triều Nguyễn và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
II.Chính sách văn hóa của người Pháp
•Thực hiện chính sách chia để trị. Làng xã vẫn tồn tại, thậm trí người Pháp còn duy trì tổ
chức làng xã nhằm sử dụng bộ máy cũ kĩ để làm các công việc cho chính quyền thuộc địa
→tạo điều kiện để văn hóa, nhất là văn hóa dân gian của người Việt được giữ vững
•Giáo dục: ban đầu người Pháp duy trì Nho học với chế độ khoa cử lỗi thời. Nhưng đến
đầu thế kỉ XX mới bãi bỏ chế độ thi cử bằng chữ Hán. Tuy nhiên để có công chức cho
chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp vẫn phải mở các cơ sở đào tạo. Ngoài các trường
học, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như viện vi trùng học ở Sài
Gòn, Nha Trang, Hà Nội, trường Viễn Đông Bác Cổ,…
•Người Pháp đã nhìn thấy chữ quốc ngữ là công cụ thuận lợi cho việc cai trị và đồng
hóa, vì thế họ khuyến khích học chữ quốc ngữ.
•Pháp cho báo chí phát triển ở Nam Kì sau rộng ra cả nước.
III. Văn hóa triều Nguyễn:
_Văn hóa vật chất:
+Người Pháp cho triển khai phát triển đô thị công nghiệp và giao thông đương nhiên với
mục đích rất rõ ràng: khai thác thuộc địa.


+Tính chất là một trung tâm chính trị văn hóa của Việt Nam không còn đậm đặc như
trước tính chất là một trung tâm công thương nghiệp rõ nét hơn. Các trung tâm buôn
bán sầm uất được hình thành như: Hải Phòng, Hà Nội,Sài Gòn- Chợ Lớn...
+Sự phát triển của các đô thị dẫn đến sự phát triển của kiến trúc đô thị. Các kiến trúc
kiểu tây phương được đưa vào Việt Nam nhưng được Việt Nam hóa khiến các công trình
này không bị lạc điệu giữa những công trình kiến trúc cổ truyền.
+Các công trình kiến trúc đô thị Sài Gòn chia thành hai giai đoạn: giai đoạn bình định
bằng bạo lực, kiến trúc được bê nguyên xi nghệ thuật địa phương mà họ khinh miệt.

Nhưng ở giai đoạn sau các công trình kiến trúc xã hội,văn hóa đã chú ý hơn đén yếu tố
địa lí, khí hậu và nghệ thuật địa phương.
+Ở thời kì này thì giao thông vận tải cũng rất phát triển:hệ thống cầu đường,đường
sắt ,đường thủy...
Hệ thống đường sá và đo thị phát triển đã tạo cho diện mạo văn hóa vật chất giai đoạn
này có những khác biệt so với các giai đoạn trước.
_Văn hóa tinh thần:
*Hệ tư tưởng:
+Là tấm gương phản chiếu mặt đời sống và nếp sống của một cộng đòng một dân tộc,ở
trung tâm của một văn hóa quyển, hệ tư tưởng cũng được xem là một hệ văn hóa.
+Các hệ tư tưởng vào Việt Nam từ hàng nghin năm trước vẫn tồn tại ở xã hội mà căn
bản là xóm làng với những người nông dân trồng lúa nước.
+Những phong trào Văn thân, Cần Vương dưới ánh sáng của tư tưởng Nho giáo không
giúp các nho sĩ tìm được con đường cứu nước nên các nho sĩ đã tổ chức cuộc vận động
giải phóng dân tộc theo một hệ tư tưởng khác: các nhà nho đã sáng lập ra phomg trào
Đông kinh Nghĩa Thục, tiếp nhận văn hóa tư tưởng phương tây qua máy lọc tư tưởng và
văn hóa Trung Hoa các nhà nho này đã từ bổ sự lạc hậu đèn với sự cách tân.
+Đông kinh nghĩa thục vận động học chữ quốc ngữ, hô hào thực nghiệp bài trừ mê tín dị
đoan, đành dấu sự chuyển biến tư tưởng của các nhà nho Việt Nam, khẳng định Khổng
Mạnh khong còn là tư tưởng của một lớp người như giai đoạn trước


+Nho giáo đã mất dần vai trò lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào Việt Nam
từ tấm lòng yêu nước của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
*Báo chí ra đời và phát triển:
+Báo chí ra đời và phát triển ở Việt Nam là từ ý đồ của thực dân Pháp cần có một vũ khí
nhằm tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa. Lúc đầu là các tờ báo bằng tiếng Pháp và
chữ Hán.
+15/4/1865 tờ Gia Định báo ra đời, 1888 tờ Thông loại khóa trình của Trương Vĩnh Kí
được phát hành,1901 tờ mín đàm....

+Ở Hà Nội có các tờ báo bằng chữ quốc ngữ như: Đăng cổ tùng báo,Hữu Thanh, Nam
phong....
+Những tờ báo bằng chữ quốc ngữ ở cả ba miền góp phần vào sự phát triển của văn học
chữ quốc ngữ.
+Từ năm 1858-1945 việc dùng chữ quốc ngữ làm báo đã là bước đột biến của diễn trình
văn hóa.Nhìn ở phương diện ngôn ngữ, đấy là một bước đột biến, nhìn ở phương diện
báo chí đây cũng là một bước đọt biến.
*Văn học:
+Văn học ở nửa sau thế kỉ XIX đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
+Do tác động khách quan, văn học giai đoạn nà đã có bước phát triển nhanh chóng cả về
nội dung và hình thức.
+Trước hết là sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác văn học: ban đầu chữ quốc ngữ dùng
để phiên âm các sách chữ Nôm,chữ Hán, chữ Pháp, các tác phẩm như:Đại hoc,Trung
dung, Truyện Kiều....Mặt khác là sự phát triển của các sáng tác bằng chữ quốc ngữ:
chuyến đi Bác Kì năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Kí, sống chết mặc bay của Ngô Tất Tố, tỉnh
mộng của Hồ Biểu Chánh...
+Vào thập niên ba mươi ,bốn mươi văn xuôi bằng chư quốc ngữ đã có những bước tiến
bộ vượt bậc nhóm Tự lực văn đoàn đã cho ra mắt bạn đọc một loạt các tác phẩm:Bướm
trắng , Đời mưa gió, Đoạn tuyệt...bên cạnh đó có các tác phẩm văn học hiện thực phê
phán như: chí phèo của Nam Cao, số đỏ ,giông tố của Vũ Trọng Phụng


+Phong trào thơ mới xuất hiện với một loạt tên tuổi như : Thế Lữ,Xuân Diệu,Huy Cận
,Chế Lan Viên...
Non một trăm năm thì văn học Việt Nam đã có bước chuyển biến quan trọng đi từ pham
trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại.

*Nghệ thuật hội họa xuất hiện tranh sơn dầu, tranh bột màu với bút pháp tả thực
*Bắt đầu xuất hiện những vở kịch nói như vở thương khó(1912), chén thuốc độc (1921)
của Vũ Đình Long, Khi ta có ba người, Quý ông 5 giờ, Chiếc ghế bành 47, Chị họ từ

Varsava của tôi... Năm 1911, Nhà hát Lớn Hà Nội được khánh thành.
*Hệ thống giáo dục kiểu phương Tây , bắt học trò học tiếng Pháp. Chữ Hán cũng như
chữ Nôm bị Pháp triệt bỏ và thay thế bằng chữ Pháp, còn văn tự cho tiếng nói người bản
xứ nếu cần đã có chữ quốc ngữ cùng một họ mẫu tự La Tinh. Ngày 8/5/1861 Đô Đốc
Charner ký nghị định lập trường Collège d'Adran để đào tạo thông ngôn người Việt và
cho cả người Pháp muốn học tiếng Việt (5). Trường Thông Ngôn (Collège des
Interprètes) được thiết lập ở Sài Gòn năm 1864, ở Hà Nội năm 1905. Pháp còn thiết lập
các Trường Hậu Bổ (chuẩn bị bổ ra làm quan Apprenti Mandarin) ở Hà Nội năm 1903 và
ở Huế năm 1911. Đây là những bước đầu trong việc thiết lập một nền giáo dục của
Pháp.
IV. Tổng kết

Trải qua giai đoạn độc lập nền văn hóa Việt Nam đã đạt được những thành tựu rực rỡ,
đưa nền văn hóa lên mức độ. Đồng thời khẳng định sự trưởng thành của cả một dân
tộc, một quốc gia văn hiến, một đất nước đã sẵn sàng bước ra cùng thế giới, sẵn sàng
đương đầu với những phong ba bão táp phía trước, những biến động trong lịch sử giai
đoạn sau.
Song giai đoạn 58-45 lại xuất hiện vết đứt gãy trong nền tổng thể văn hóa. Dưới ách
thống trị của thực đân Pháp bằng những chính biện pahps khai thác triệt để vô hình
chung làm loãng mật độ văn hóa Việt Nam. Sự biến thiên trong lối sống, tư tưởng nghệ
thuật, giao thông vận tải… thể hiện rõ nét theo từng vùng từng tầng lớp xã hội. Tuy
nhiên hình ảnh lũy tre làng vẫn đứng đó hiên ngang, bất khuất chở che cho “đứa con”-


văn hóa. Bên cạnh việc giữ gìn và bảo tồn những nét đẹp ngàn xưa tính chọn lọc của nền
văn hóa tiếp tục và đưa dần Việt Nam đến gần với văn hóa thế giới hay cũng có thể coi
đó là bản lĩnh của văn hóa. Chính vì thế có thể coi sự phát triển đứt gãy trong nền văn
hóa giai đoạn này như bước nối liền mạch ở tầm vóc mới của sự phát triển




×