Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Nghiên cứu sự tác động của ngoại thương tới phát triển kinh tế Liên hệ thực tế tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.93 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
2
I. Khái quát mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển
3
1. Lợi ích của ngoại thương đối với các nước đang phát triển
3
2. Thực tiễn mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển
4
a. Ngoại thương phải được hỗ trợ bởi các yếu tố kinh tế và chính trị
4
b. Một số sức ép mà các nước đang phát triển gặp phải trong hoạt
động ngoại thương
5
II. Liên hệ mối quan hệ giữa ngoại thương và phát triển ở Việt Nam
6
1. Khái quát hoạt động ngoại thương Việt Nam từ sau quá trình Đổi
Mới
6
2. Tác động tích cực của hoạt động ngoại thương tới phát triển kinh tế ở
Việt Nam
12
3. Tác động tiêu cực của hoạt động ngoại thương tới phát triển kinh tế ở
Việt Nam
15
a. Nền kinh tế đất nước hứng chịu những cú sốc trong điều kiện kinh
tế thế giới bất ổn
15
b. Vấn đề về công bằng xã hội
1
8


c. Các tác động khác
21
4 Đề xuất một số giải pháp
21
a.Về phía các cơ quan lãnh đạo
21
b.Về phía các doanh nghiệp
23
Kết luận
2
8
Tài liệu tham khảo
29

Lời mở đầu


Mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển đã được bàn luận từ rất lâu
trước khi Adam Smith xuất bản cuốn sách nổi tiếng của mình. Tuy nhiên,
các học thuyết kinh tế cổ điển dựa trên giả thuyết lợi thế cạnh tranh cũng
không thể gải thích được một thực tế trong quá trình phát triển của một số
quốc gia, đó là: rất nhiều quốc gia châu Phi và Mỹ La tinh trong những năm
1980 chọn con đường thương mại tự do thì tốc độ phát triển đi xuống; trong
khi Hàn Quốc từ rất nhiều thập kỷ nay đã lựa chọn cho mình chủ trương bảo
vệ nền công nghiệp trong nước. Về mặt lý thuyết, giả định lợi thế so sánh
luôn đúng, và thương mại tự do luôn là lựa chọn tốt nhất cho mọi trường
hợp. Tuy nhiên trong thực tiễn mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển,
các nước đang phát triển nên có một cái nhìn thực tế cũng như chiến lược
hợp lý trong quá trình hội nhập vào thị trường quốc tế để đảm bảo cho sự
phát triển của đất nước.

Trong phạm vi một bài tiểu luận, nhóm 3 lớp Anh 15 sẽ nghiên cứu một
cách khái quát mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển từ góc độ của các
quốc gia đang phát triển, qua đó có được cái nhìn chính xác hơn về vai trò
của hoạt động ngoại thương đối với sự phát triển của một đất nước.
Việt Nam trong quá trình mở cửa hội nhập của mình đã ghi nhận rất nhiều
thành tựu mà ngoại thương đem lại cho sự phát triển của quốc gia. Chính vì
vậy, trong bài tiểu luận của mình, nhóm Kinh tế phát triển sẽ nghiên cứu bài
học của Việt Nam để nhìn nhận một cách rõ ràng hơn và chính xác hơn về
mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển, đồng thời đề xuất một số giải
pháp chung cho quá trình hội nhập sâu hơn của đất nước trong tương lai.
I. Khái quát mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển:
1. Lợi ích của ngoại thương đối với các nước đang phát triển:


Trong những năm gần đây, các nghiên cứu được tiến hành bởi các tổ chức
đa phương, các việc nghiên cứu và các tổ chức phi chính phủ đã chỉ ra lợi
ích to lớn mà hoạt động ngoại thương đóng góp cho sự phát triển của một
quốc gia thể hiện ở các mặt:
- Kích thích tăng thu nhập quốc gia và đóng góp cho ngân sách nhà nước ( từ
đó giúp tăng chi tiêu cho các lĩnh vực như y tế và giáo dục)
- Tăng cường cơ hội việc làm
- Tăng cường khả năng tiếp cận tới những tri thức và công nghệ phù hợp cho
quá trình phát triển
- Khuyến khích chuyển dịch các nguồn lực tới các ngành có lợi thế cạnh
tranh
- Mở rộng khả năng tiếp cận hàng hóa, dịch vụ đa dạng cho hoạt động tiêu
dùng trong nước
- Giúp tiếp cận các nguồn hỗ trợ tài chính cho các mục tiêu phát triển cao
hơn.
Việc thay đổi cơ cấu ngoại thương một cách hợp lý có thể đưa các nước

đang phát triển tới một tốc độ phát triển mà tại đó 600 triệu người sẽ vượt
qua mức nghèo khổ vào năm 2015.
Các khoản thu từ xuất khẩu chiếm khoảng hơn một phần tư tổng GDP của
các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong cơ cấu ngoại thương thế giới, các
nước này chỉ chiếm 3% trong khi dân số chiếm 40% dân số thế giới. Nếu các
nước đang phát triển tăng nguồn thu từ xuất khẩu lên khoảng 5%, thu nhập
quốc gia sẽ tăng thêm 350 tỉ USD, gấp 7 lần so với các khoản thu từ các
khoản viện trợ. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu trong cơ cấu hàng xuất
khẩu thế giới, mỗi khu vực đang phát triển tăng khoảng 1% thì đói nghèo có
thể giảm xuống 12%.
2. Thực tiễn mối liên hệ giữa ngoại thương và phát triển:


a. Ngoại thương phải được hỗ trợ bởi các yếu tố kinh tế và chính trị:
Nếu hoạt động ngoại thương được hỗ trợ bởi các yếu tố kinh tế và chính trị
hợp lý, nó sẽ hoạt động hoàn toàn có hiệu quả trong việc giảm thiếu đói
nghèo, thúc đẩy phát triển. Các yếu tố này bao gồm:
- Các chiến lược phát triển mạch lạc, chặt chẽ, bền vững, mang tầm vóc
quóc gia được làm nền bởi các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp nhằm đảm
bảo rằng tất cả các thành phần trong xã hội đều được hưởng lợi ích từ hoạt
động ngoại thương.
- Năng lực quốc gia và mong muốn về mặt chính trị nhằm xây dựng các
khung pháp lý và các hệ thống nghiên cứu nhằm đảm bảo khai thác từ ngoại
thương phục vụ cho phát triển.
- Các chương trình hành động được thiết lập một cách phù hợp nhằm đảm
bảo rằng người lao động và toàn thể cộng đồng có thể được bảo vệ khỏi
những thay đổi kinh tế và những cú sốc từ bên ngoài mà ngoại thương có thể
gây ra.
- Sự tôn trọng quyền con người, sự tham gia vào các hoạt động chính trị của
tất cả mọi tầng lớp trong xã hội để làm sao cho tất cả mọi người đều có tiếng

nói trong các chính sách ngoại thương.
- Khả năng thiết lập các nguồn thu thay thế (ví dụ thay thế thuế quan bằng
thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu dùng hoặc thuế thu nhập,…) nhằm đảm bảo sự
ổn định về ngân sách và tài chính cũng như duy trì năng lực của chính phủ
trong việc chi tiêu và thực hiện các mục tiêu phát triển cao hơn.
Khi mà các yếu tố kinh tế và chính trị trên không được áp dụng một cách
hợp lý, ngoại thương sẽ không giúp giảm bớt được đói nghèo. Trong hoàn
cảnh đó, sẽ tổn tại những hạn chế đối với ngoại thương. Những tác động trái
chiều có thể bao gồm:


- Nạn khai thác bóc lột đối với phụ nữ, trẻ em, vị thành niên và đối với các
nguồn tài nguyên quốc gia.
- Tình trạng bấp bênh về thu nhập gia tăng
- Cảm giác cô lập, thiếu quyền lực và bất bình đẳng gia tăng.
- Vi phạm nhân quyền, đặc biệt là quyền lợi của người lao động
- Tình trạng căng thẳng trong đời sống xã hội và đạo dức, sự thiếu ổn định
về chính trị
- Sự xuống cấp về mặt môi trường
- Tham nhũng ngày một gia tăng
- Năng lực sản xuất không được định hướng để phục vụ nhu cầu địa
phương
- Sự tổn hại tới các ngành sản xuất và công nghiệp địa phương, đặc biệt là
các ngành lương thực chính, dẫn tới tính trạng không đảm bảo lương thực
thực phẩm.
b. Một số sức ép mà các nước đang phát triển gặp phải trong hoạt
động ngoại thương:
Khả năng mà một quốc gia tối đa hóa lợi ích từ hoạt động ngoại thương có
thể bị hạn chế bởi rất nhiều yếu tố. Các yếu tố trên có thể xuất phát từ những
nguyên nhân bên trong cũng như bên ngoài:

Sức ép bên ngoài:
Các sức ép này thông thường bắt nguồn từ hành vi của các chính phủ khác,
ở các nước đã và đang phát triển, trong việc hạn chế khả năng tiếp cận vào
các thị trường của mình. Trường hợp này thường xuyên xảy ra trong các
ngành nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, những ngành mà rất nhiều quốc gia
đang phát triển chủ yếu hoặc dựa vào đó mà xây dựng hoặc sẵn có lợi thế
cạnh tranh.
Các sức ép này bao gồm:


- Thiết lập các mức thuế quan, hạn ngạch, các hàng rào phi thuế quan và
hàng rào kỹ thuật lên các mặt hàng nhập khẩu. Điều này sẽ làm giảm đi tính
cạnh tranh của các hàng hóa từ các nước đang phát triển và hạn chế khả
năng tiếp cận của chúng vào thị trường nước ngoài.
- Các khoản trợ cấp cho các hàng hóa trong nước khiến cho hàng hóa xuất
khẩu từ các nước đang phát triển trở nên kém cạnh tranh hơn.
- Bán hạ giá các sản phẩm được trợ cấp hoặc các sản phẩm thừa sang thị
trường các nước đang phát triển. Điều này trên thực tế có thể làm hại đến
các nền kinh tế đang phát triển còn khá yếu ớt.
- Sử dụng các công cụ, ví dụ như quyền tài sản trí tuệ, theo cách có thể hạn
chế sự bảo vệ các giá trị truyền thộng hoặc ngăn chặn quá trình chuyển giao
tri thức và công nghệ.
- Khó khăn trong việc tham gia một cách toàn diện và bình đẳng vào các
chính sách thương mại khu vực và quốc tế.
Sức ép bên trong:
Rất nhiều trường hợp mà các nước đang phát triển không thể tận dụng
được những cơ hội mà ngoại thương đem lại bởi vì:
- Hạn chế về mặt trình độ do ít tiếp cận với nền giáo dục cơ bản, thiếu sự
đào tạo kỹ năng kinh doanh cũng như sự hiểu biết về công nghệ và các ứng
dụng mới.

- Khả năng làm việc thấp do điều kiện sức khỏe đặt trong hoàn cảnh liên
quan đến đói nghèo.
- Cơ sỏ hạ tầng kỹ thuật không được nâng cấp, bảo trì hợp lý hoặc liên tục
bị phá hoại ( ví dụ như đường xá, điện tử viễn thông, cảng biển,…), cở sở
dịch vụ yếu kém.
- Thiếu cập nhật thông tin về các thị trường mới, giá cả, tiêu chuẩn chất
lượng, các xu hướng, chi phí và các đối tác tiềm năng,…


- Thiếu kỹ năng thâm nhập các thị trường tài chính tin cậy và phù hợp.
II. Liên hệ mối quan hệ giữa ngoại thương và phát triển ở Việt Nam:
1. Khái quát hoạt động ngoại thương Việt Nam từ sau quá trình Đổi
Mới:
Bảng 1 cho thấy các mốc thời gian cho các thay đổi quan trọng trong hoạt
động ngoại thương Việt Nam và các chính sách kinh tế có liên quan. Quá
trình cải cách các tổ chức thương mại cũng như ký kết các hiệp định thương
mại với các đối tác tiềm năng đã được tiến hành một cách liên tục trong thời
gian vừa qua.
Mốc thời

Các sự kiện quan trọng

gian
1986
1988
1989

Quá trình Đổi Mới – bắt đầu các cải cách Kinh tế
Ban hành các mức thuế quan nhập khẩu
Thực hiện các cải cách mang tính định hướng thị trường: tỷ giá

hối đoái thống nhất, xóa bỏ tình trạng độc quyền trọng thương

1990
1991

mại với nước ngoài.
Thành lập các khu chế xuất xuất khẩu
Ban hành Luật Nghĩa vụ xuất nhập khẩu

1992
1994
1995

Thiết lập các mức thuế quan ưu đãi
Ký kết hiệp định thương mại với EU (liên minh châu Âu)
Ban hành các mức hạn ngạch
Nhóm làm việc gia nhập WTO dược thành lập

1997

Gia nhập ASEAN
Khủng hoảng tài chính châu Á diễn ra
Cắt giảm các yêu cầu cho các doanh nghiệp có thể tham gia

1998

vào ngoại thương
Gia nhập APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình

1999

2000
2001

Dương)
Ký kết MFN (nguyên tắc Tối huệ quốc) với Nhật Bản
Ký kết BTA (Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ)
Thực hiện CEPT/AFTA (Bảng danh mục thuế ưu đãi) cho các


2002

nước ASEAN
Gia nhập khu vực tự do thương mại ASEAN – Trung Quốc

2003

BTA bắt đầu có hiệu lực
Gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật

2004

Bản
Ký kết hiệp định song phương Việt Nam – EU về luật Cạnh

tranh gia nhập WTO
2005
Ban hành 29 đạo luật mới về Thương mại và Ngoại thương
2006
Ký kết các hiệp định song phương gia nhập WTO cuối cùng
Bảng 1: Các mốc thời gian của các cải cách kinh tế và hiệp định thương

mại
Để đáp ứng các thỏa thuận trong các hiệp định thương mại song phương và
tiến trình gia nhập WTO, rất nhiều các cải cách luật pháp đã được thực hiện.
Những thay đổi có tính chất quan trọng đầu tiên liên quan đến việc ban hành
các mức thuế quan nhập khẩu năm 1988, quá trình loại bỏ tình trạng độc
quyền trong thương mại quốc tế năm 1989 và việc thành lập các khu vực
xuất khẩu năm 1990. Cùng với một số cải cách được tiến hành trong những
năm thập kỷ 90, hiệp định thương mại song phương ký kết với Hoa Kỳ năm
2000 là một động lực mới thúc đẩy quá trình cải cách luật pháp ở Việt Nam.
Từ đó trở đi, thị trường tài chính Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn với việc
ban hành Luật Đầu Tư, Cạnh Tranh và Luật Doanh Nghiệp mới. Năm 2005,
việc Mỹ và các thành viên WTO khác công nhận quá trình cải cách của Việt
Nam đã tạo điều kiện cho việc thương lương đàm phán cuối cùng trong nỗ
lực gia nhập tổ chức này.
Các hiệp định song phương chủ chốt mà Việt Nam đã ký kết được mở đầu
bằng hiệp định ký kết với EU năm 1992. Năm 1995, Việt Nam gia nhập
ASEAN (cùng lúc bắt đầu các cuộc thương thuyết gia nhập WTO) và năm
1998 gia nhập APEC. Năm 2001, Việt Nam ký kết Hiệp định CEPT/AFTA
cam kết cắt giảm các mức thuế quan. Dưới sự bảo hộ của ASEAN, Việt


Nam ký kết các hiệp định thương mại với Trung Quốc và Nhật Bản trong
các năm 2002 và 2003. Năm 2002, hiệp định thương mại song phương ViệtMỹ (BTA) bắt đầu đi vào hiệu lực. Cũng trong thời gian này, Việt Nam ký
kết các hiệp định song phương với các thành viên WTO trong tiến trình gia
nhập tổ chức này: năm 2004, hiệp đinh song phương về gia nhập WTO được
ký kết với EU; đến năm 2006, tổng cộng tất cả 20 hiệp định đã được hoàn
thành.
Hình 1 cho thấy rằng ngay trước khi Việt Nam thực hiện CEPT/AFTA cho
các thành viên ASEAN vào năm 2001, thương mại với các đối tác ASEAN
đã tăng một cách đáng kể. Thương mại với đối tác ASEAN quan trọng nhất

của Việt Nam, Singapore, trên thực tế đã tăng từ năm 1994, ngay trước khi
Việt Nam gia nhập ASEAN. Thương mại của Việt Nam với các đối tác
ASEAN khác bắt đầu phát triển vào khoảng giữa những năm cuối thập niên
90, với một vài hạn chế và các dòng tài chính thất thường do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997. Từ năm 1999, xuất khẩu sang
Singpore, Thái Lan, và Phillipin (trên thực tế đã trở thành điểm đến xuất
khẩu quan trọng nhất của Việt Nam trong khu vực ASEAN) tăng ít nhất 4
lần, vượt xa so với những gì dự đoán về xuất khẩu tới các quốc gia này. Xuất
khẩu sang Singapore đạt 1,8 tỉ USD năm 2004, xuất khẩu sang Thái Lan và
Singapore đạt gần 1 tỷ USD, và sang Malaysia đạt 600 triệu USD.


Hình 1:tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam sang các nước ASEAN
Hình 2 chỉ ra rằng hoạt động thương mại diễn ra giữa liên minh châu Âu
(EU) và Việt Nam, từ mức độ còn rất thấp, ngay sau khi hiệp định song
phương được ký kết năm 1992, đã tăng một cách nhanh chóng. Xuất khẩu
một lần nữa tăng mạnh từ 4,5 tỷ USD năm 2002 lên 7 tỷ USD năm 2004,
cùng thời điểm hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ (BTA) đi vào
hiệu lực và các cuộc đàm phán gia nhập WTO với liên minh châu Âu được
hoàn thành. Đối với đối tác Hoa Kỳ, Việt Nam hầu như không xuất khẩu gì
cho đến giữa những năm thập niên 90; và ngay trước khi BTA được thực


hiện năm 2002, xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt mức 1 tỷ USO 1 năm.
Đến năm 2005, xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng trên 6,5 tỷ USD. Khác với EU
và Mỹ, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Nhật Bản sớm hơn và cũng ghi
nhận một mức tăng ấn tượng: ngay sau khi hiệp định thương mại Việt NamNhật Bản được ký kết năm 2002, xuất khẩu tăng từ 2,5 tỷ USD lên 4 tỷ USD
vào năm 2004. Thương mại với Trung Quốc không tăng một cách đáng kể
cho tới năm 2000 đạt 1 tỷ USD, và sau đó gần như gấp ba tại mức 2,5 tỷ
USD vào năm 2004.


Hình 2: tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam sang các thị trường khác


Như vậy, từ sau quá trình Đổi Mới, hoạt động ngoại thương Việt Nam từ
việc bắt đầu ở mức độ thấp đã phát triển với tốc độ càng ngày càng lớn dần.
2. Tác động tích cực của hoạt động ngoại thương tới phát triển kinh
tế ở Việt Nam:
Quá trình lâu dài trong nỗ lực gắn kết nền kinh tế Việt Nam với thị trường
chung thế giới đã đạt tới đỉnh cao bởi việc gia nhập WTO vào ngày
11/1/2007 với tư cách thành viên thứ 150 của tổ chức này. Từ năm 1986, khi
quá trình Đổi Mới bắt đầu, hàng loạt các cải cách kinh tế và pháp luật mang
tính định hướng thị trường đã được áp dụng. Quá trình này đã kéo theo tốc
độ tăng trưởng mau lẹ, ngoại thương phát triển và đói nghèo được đẩy lùi
một cách ấn tượng. GDP đầu người tính theo sức mua ngang giá của đồng
đôla tăng gần như 3 lần từ 1097 USD năm 1989 lên 2739 USD năm 2005.
Cũng trong thời gian này, phần trăm của hoạt động ngoại thương (nhập khẩu
cộng xuất khẩu) trong GDP tăng 6 lần, nghèo khổ tính theo đầu người với
mức 1 USD/ 1 người/ 1 ngày đã giảm xuống dưới 15% năm 1993 và chỉ còn
2% năm 2002 ( báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới năm 2006)


Hình 3: Tăng trưởng kinh tế, ngoại thương, FDI, và nghèo khổ ở Việt Nam
Nền kinh tế hiện đại Việt Nam, như được thể hiện ở hình 3, rất đáng chú ý.
Sau những cải cách kinh tế năm 1986, GDP tăng một cách đều đặn với tốc
độ trung bình khoảng 7,6% một năm. Tăng trưởng kinh tế tăng mạnh 9,8%
một năm từ đầu những năm 90 đến năm 1998, do tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á, chậm lại với tốc độ 7,0% một năm trước khi tăng
tốc trở lại với mức 7,7% một năm từ năm 2002 đến năm 2004. Đi kèm với
tốc độ tăng trưởng kinh tế mau lẹ này chính là sự tăng lên to lớn của hoạt

động ngoại thương ( nhập khẩu cộng xuất khẩu chia phần trăm cho GDP): từ


23% năm 1986 lên 97% năm 1998 và 140% vào năm 2004. Tăng trưởng
trong xuất khẩu đặc biệt ấn tượng: từ chỗ chỉ có 6,6% GDP năm 1986 đã
tăng lên 44,8% năm 1998 và 66,4% năm 2004. Thêm vào đó, phần trăm xuất
khẩu trong GDP còn tăng nhanh hơn so với nhập khẩu. Năm 1983, nhập
khẩu chiếm hơn 2/3 hoạt động thương mại. nhưng đến năm 2004 xuất khẩu
đã chiếm gần một nửa trong hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong khoảng thời gian qua là
tương đối thất thường và chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á. Từ năm 1986, FDI là không đáng kể; đến năm 1993 tăng lên
7,1% GDP và duy trì xấp xỉ dưới mức đó, bằng 6,1% năm 1998. FDI giảm
dưới 4% GDP từ năm 2002 trước khi bắt đầu khôi phục lại vào năm 2004.
Có thể nhận thấy rằng, sự đóng góp của FDI nói riêng và hoạt động đầu tư
nói chung vào tăng trưởng GDP ở Việt Nam là không rõ ràng. Đáng chú ý
hơn cả, mức độ gia tăng của GDP còn gắn liền với sự giảm rõ rệt của đói
nghèo.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, Việt Nam là một trong những trường hợp
điển hình cho thấy lợi ích to lớn mà hoạt động ngoại thương đem lại cho sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Ở Việt Nam, lợi ích đó thể hiện ở các
mặt:
- Việc tăng mạnh xuất khẩu giúp cho một dòng ngoại tệ lớn đổ vào đất
nước, từ chỗ Ngân sách nhà nước phải bù lỗ cho hoạt động xuất nhập khẩu,
đến nay đã có nguồn thu từ hoạt động này.
- Hoạt động ngoại thương đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết khủng
hoảng kinh tế, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, khắc phục những khó khăn
trong nước, nhất là từ khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
tan rã. Hoạt động ngoại thương đã loại bỏ tình trạng nhập khẩu chủ yếu các



nguồn thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu quan trọng, hàng tiêu dùng thiết yếu
bằng vay nợ và viện trợ.
- Xuất khẩu tăng nhanh đã trang trải cho nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư,
nguyên nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng cho phát triển kinh tế trong nước.
- Xuất nhập khẩu tăng đã góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp hóa.
Đồng thời, việc tận dụng lợi thế so sánh về lao động đã phát triển các ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
- Mức sống của người dân tăng lên đáng kể. Người tiêu dùng có cơ hội tiếp
cận một lượng lớn các hàng hóa dịch vụ đa dạng cả trong nước và nước
ngoài. Người dân có thể tiếp cận với nền giáo dục cơ bản và tìm hiểu tri thức
chung của nhân loại.
- Quan trọng hơn cả, sự phát triển mạnh của hoạt động ngoại thương đã ổn
định kinh tế tăng trưởng vững mạnh, đẩy lùi tình trạng đói nghèo một cách
đáng kể.
3. Tác động tiêu cực của hoạt động ngoại thương tới phát triển kinh
tế ở Việt Nam:
a. Nền kinh tế đất nước hứng chịu những cú sốc trong điều kiện
kinh tế thế giới bất ổn:
Khi hoạt động ngoại thương càng ngày càng phát triển, Việt Nam sẽ ngày
càng gắn chặt nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới. Điều này đồng
nghĩa với việc nếu nền kinh tế thế giới trở nên bất ổn, tác động của nó đến
kinh tế đất nước sẽ trở nên ngày càng nặng nề hơn. Trên thực tế, đây là một
trong những tác động tiêu cực mà hoạt động ngoại thương có thể mang đến
cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Tác động này ở Việt Nam được
nhìn thấy rõ nhất trong thời gian gần đây.


Vào nửa cuối năm 2007, điều kiện kinh tế vĩ mô toàn cầu trở nên ngày một

khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thế giới giảm xuống, và năm 2008 thấp hơn
năm 2007. Sự tăng giá các mặt hàng thực phẩm, dầu mỏ, khoáng sản và vật
liệu xây dựng kéo dài là vấn đề đáng lưu tâm. Giá dầu mỏ đã tăng gấp ba lần
từ năm 2003, giá các mặt hàng khác tăng gấp đôi. Xu hướng tăng giá chung
này có nguyên nhân sâu xa và sẽ còn tiếp diễn trong tương lai. Tuy nhiên,
trong những tháng gần đây, xu hương này tăng rất mạnh, đặc biệt trong
trường hợp gạo và dầu mỏ.
Các sức ép ngầm của việc tăng giá gạo
Sự phát triển của thị trường gạo thế giới đặc biệt quan trọng với Việt Nam.
Cùng thời điểm giá gạo trên thế giới tăng đáng kể vào khoảng tháng 11 năm
2007, một vài các nước đang phát triển bắt đầu áp dụng các biện pháp ổn
định lương thực nhằm mục đích dự trữ và giữ cho giá gạo trong nước ở mức
vừa phải. Tuy nhiên, những biện pháp này lại dẫn đến hậu quả giá gạo thế
giới tăng với tốc độ mau lẹ (hình 4). Trong khi đó, giá gạo trong nước tăng
rất ít so với giá gạo thế giới. Do đó, khi Việt Nam gỡ bỏ các chính sách cấm
xuất gạo, sự chênh lệch giữa giá gạo trong nước và thế giới sẽ tạo sức ép
khiến cho giá gạo trong nước tăng lên. Đặt trong trường hợp nền kinh tế
đóng cửa, nếu nhà nước có thực hiện các biện pháp đảm bảo lương thực, đất
nước cũng không phải chịu sức ép tăng giá từ thế giới.


Hình 4: Giá gạo thế giới
Lạm phát gia tăng nhanh chóng
Chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu tăng vào nửa đầu những năm 2007, trên thực
tế đã tăng mạnh vào ba tháng cuỗi năm 2008. Trong đó, việc giá các mặt
hàng lương thực tăng ảnh hưởng tới chỉ số giá tiêu dùng với mức độ lớn
(hình 5). Thời tiết mùa đông khắc nghiệt cùng với bệnh dịch sẽ làm cho
lương thực hiếm hơn, do đó sẽ trở nên đắt hơn. Thêm vào đó, với một nền
kinh tế mở hoàn toàn và tỷ giá hối đoái cố định, giá lương thực thế giới tăng
cao sẽ được chuyển hoàn toàn thành giá nội địa.



Như vậy, nếu nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng lạm phát thì kinh tế
Việt Nam cũng rất dễ lâm vào lạm phát.

Hình 5: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam
b. Vấn đề về công bằng xã hội:
Hoạt động ngoại thương làm cho sự phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc
hơn, làm tăng khoảng cách giữa các tầng lớp dân cư trong cùng một nước,
làm gia tăng sự bất công trong xã hội. Ở Việt Nam, tác động này có thể được


nhìn nhận thông qua trường hợp về tác động xã hội của việc tăng giá lương
thực, đặc biệt là giá gạo.
Kể từ khi chúng ta đổi mới chuyển dịch nền kinh tế khép kín sang một nền
kinh tế mở, sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng giữa các miền
khác nhau, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng đồng bằng với
vùng xâu vùng xa , vùng núi, vùng dân tộc thiểu số (bảng 2)

CẢ NƯỚC
1. Chia theo khu vực
- Thành thị
- Nông thôn
2. Chia theo vùng
- Tây Bắc và Đông Bắc
- Đồng bằng sông Hồng
- Bắc Trung Bộ
- Duyên hải Nam Trung Bộ
- Tây Nguyên
- Đông Nam Bộ

- Đồng bằng sông Cửu Long

1994

1995

1996

1999

6,5

7,0

7,3

8,9

7,0
5,4

7,7
5,8

8,0
6,1

9,8
6,3


5,2
5,6
5,2
4,9
10,1
7,4
6,1

5,7
6,1
5,7
5,5
12,7
7,6
6,4

6,1
6,6
5,9
5,7
12,8
7,9
6,4

6,8
7,0
6,9
6,3
12,9
10,3

7,9

Bảng 2: Hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo ở Việt Nam
Như vậy số liệu trên cho thấy hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm
nghèo năm 1999 đều tăng; so với năm 1996, tính chung cả nước tăng 1,6
lần; thành thị tăng 1,8 lần, nông thôn tăng 0,2 lần; các vùng đều tăng trong
đó tăng nhanh là vùng Đông Nam Bộ 2,4 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1,5
lần, tăng thấp nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng 0,4 lần. Đáng chú ý là
vùng Tây Nguyên từ năm 1995 đến năm 1999 mức chênh lệch giữa nhóm
giàu và nhóm nghèo mỗi năm tăng không đáng kể.
Thống kê ở Việt Nam cho thấy trong số 20% dân nghèo thì có tới 90%
sống ở nông thôn, còn gần 2/3 số dân trong nhóm 20% giàu nhất là sống ở
đô thị. Mức sống của các hộ dân thành thị tính bình quân theo chỉ tiêu đầu


người cao hơn 60% so với hộ nông thôn. Tính tới cuối năm 2005, cứ 100 hộ
nghèo thì có 8 hộ ở thành thị, 43,2 hộ ở nông thôn đồng bằng và 48,8 hộ ở
nông thôn miền núi.
Gần đây nhất, xu hướng gia tăng khoảng cách giàu nghèo mà hoạt động
ngoại thương tác động đến kinh tế Việt Nam có thể được nhìn nhận thông
qua tình trạng lạm phát bắt đầu vào khoảng cuối năm 2007.
Trong điều kiện hội nhập, nền kinh tế giới có tác động lớn tới kinh tế trong
nước,giá cả thế giới tác động trực tiếp đến giá cả trong nước, khi giá cả thế
giới tăng thì giá trong nước sẽ tăng theo. Giá cả tăng sẽ tác động đến mọi
người dân nhưng tác động mạnh nhất là công chức nhà nước và người
nghèo. "Lạm phát là một loại thuế hết sức dã man mà loại thuế này đánh
mạnh nhất vào nhóm những nguời nghèo khổ nhất". Trong nhóm người
nghèo bị tác động mạnh ở Việt Nam có một phần rất đông là nông dân, sản
xuất nông nghiệp. Nói cách khác, giá cả tăng sẽ tác động đến tất cả mọi tầng
lớp, nhưng với những người giàu, có điều kiện sẽ ít bị tác động hơn vì trong

tổng thu nhập, họ chỉ phải sử dụng một phần cho chi tiêu hàng ngày. Còn
những người nghèo thì hầu hết thu nhập dùng cho chi tiêu hàng ngày, có bao
nhiêu phải chi hết, thậm chí không đủ mà chi. Vì vậy, giá cả lên sẽ khiến
cuộc sống vốn eo hẹp của nhóm đối tượng này càng eo hẹp và khó khăn hơn.
Nếu giá cả càng tăng thì càng tác động tiêu cực đến người nghèo và quá
trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo càng mạnh hơn.
c. Các tác động khác:
Vấn đề môi trường
Một trong những tác động tiêu cực khi tham gia vào hoạt động ngoại
thương ở Việt Nam là sự nghèo đi của tài nguyên, xấu đi của môi trường. Từ
khi mở cửa đến nay, tuy đạt được nhiều thành tựu về xây dựng kinh tế


nhưng do chất lượng khoa học công nghệ không cao, ý thức bảo vệ môi
trường không tốt, đơn thuần chạy theo lợi nhuận nên đã phá hoại môi trường
nghiêm trọng, lãng phí tài nguyên.
Vấn đề về cạnh tranh
Khi tham gia ngoại thương, các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt hơn. Nhìn chung, môi trường kinh doanh của các doanh
nghiệp còn nhiều khó khăn, và đó cũng là lý do vì sao các doanh nghiệp có
hiệu quả kinh doanh chưa cao, kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Hơn nữa, việc
quản lý ở các doanh nghiệp vẫn chưa theo kịp, vẫn còn yếu kém, nhân viên
thiếu kỹ năng, thiếu kiến thức, thiếu thông tin.
4 Đề xuất một số giải pháp:
Nhận thức được mối liên hệ biện chứng giữa ngoại thương và phát triển,
muốn có phát triển phải xúc tiến tốt hoạt động xuất nhập khẩu, chúng ta phải
có các giải pháp tốt để thúc đẩy hoạt động ngoại thương, gắn ngoại thương
với phát triển.
a.Về phía các cơ quan lãnh đạo:
Về xuất khẩu:

- Cơ chế quản lý, chính sách thương mại cần được tiếp tục đổi mới theo
hướng tháo gỡ hàng loạt "rào cản" như về thuế ( như các dòng thuế xuất
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...), các thủ tục
hải quan hành chính( thời gian, trình tự thủ tục...), tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh XNK, giúp các hoạt động
XNK của ta nhanh chóng hội nhập có hiệu quả cao vào thị trường thế giới,
khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, mà trọng tâm trước hết là Đông Á,
trong đó có Nhật Bản, thị trường lớn giàu tiềm năng của Việt Nam .
- Có những chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ các DN đẩy mạnh được XK.
Trong điều kiện hiện nay, khó khăn lớn nhất mà DN đang phải đối mặt là


tìm đầu ra cho sản phẩm XK. Nhằm giải quyết vấn đề này, cần phải có biện
pháp hỗ trợ xúc tiến thương mại để tháo gỡ cho DN như: hỗ trợ trực tiếp cho
các mặt hàng và các hợp đồng XK lớn, giảm mức lãi suất cho vay tín dụng
XK đối với VND
-Các cơ quan có nhiệm vụ làm tốt công tác thu thập thông tin dự báo thị
trường giúp Chính phủ điều hành có hiệu quả hơn nữa sự phát triển vĩ mô
nền kinh tế, trong đó có các hoạt động sản xuất và kinh doanh XNK
- Các quan hệ cung cầu, giá cả trong nước phải được xử lý năng động, vừa
tuân theo quy luật thị trường, vừa có tính định hướng bảo đảm ổn định sản
xuất, xuất khẩu. Cần bảo đảm cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất hàng
xuất khẩu, đặc biệt chú ý tạo ra hàng tiêu dùng xuất khẩu có quy mô lớn để
tạo đà hơn nữa cho việc tăng nhanh KNXK. Phát triển mạnh thị trường trong
nước cũng như thị trường ngoài nước đều phải đi đôi với tăng cường công
tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, hàng giả và các tệ nạn
tiêu cực khác trong hoạt động thương mại nói chung và XNK nói riêng.
- Trên thị trường xuất khẩu cần tập trung phát triển những mặt hàng lớn vì
các mặt hàng này tăng trưởng sẽ tạo ra giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, giải
quyết nhiều lao động và các vấn đề xã hội khác; tập trung vào các mặt hàng

có kim ngạch xuất khẩu tuy chưa lớn nhưng vừa qua có tốc độ tăng trưởng
nhanh, có tiềm năng, không bị hạn chế hoặc chưa bị hạn chế về thị trường,
hạn ngạch
Về nhập khẩu:
-Hỗ trợ nhà nhập khẩu nước ngoài: Xem xét việc cấp tín dụng cho các nhà
nhập khẩu (NK), tạo điều kiện cho các nhà NK nước ngoài được trả chậm
khi ký kết hợp đồng với DN Việt Nam hoặc hỗ trợ lãi suất cho nhà NK nước
ngoài để thực hiện hợp đồng. Đây thực chất là việc hỗ trợ giảm giá bán cho
nhà NK, nhằm tạo mức giá cạnh tranh cho hàng XK của VN.


-Cho thực hiện "hàng đổi hàng", xây dựng hoặc thuê kho ngoại quan ở nước
ngoài để các DN gửi hàng và bán trực tiếp cho DN NK, các nhà phân phối;
bảo lãnh tín dụng đầu tư cho một số dự án sản xuất,...
Nhìn chung cơ chế chính sách giữa chính phủ và các cơ quan quản lý cần có
sự nhất quán và ổn định trong thời gian dài, giúp các doanh nghiệp xây dựng
định hướng đầu tư và phát triển; cần hỗ trợ trực tiếp cho việc thực hiện các
mục tiêu xuất nhập khẩu về mặt hàng và thị trường; các chính sách khuyến
khích phải đến đúng đối tượng, tập trung vào đúng mặt hàng, đúng thị
trường và đúng chủ thể cần khuyến khích; các mặt hàng có kim ngạch nhỏ,
có tiềm năng và tốc độ tăng trưởng cao. Những giải pháp xúc tiến thương
mại và phát triển thị trường ngoài nước cần tiếp tục tập trung chuyên nghiệp
hóa hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thương hiệu, nghiên cứu sàn
giao dịch, thương mại điện tử; thực hiện chương trình và thành lập Quỹ Xúc
tiến thương mại trọng điểm quốc gia; đổi mới tiêu chuẩn thưởng vượt kim
ngạch xuất khẩu và thưởng thành tích xuất khẩu; xây dựng giải pháp chuyển
đổi cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu; nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt
động của các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài; tăng cường cung cấp
thông tin thị trường ngoài nước...
b.Về phía các doanh nghiệp:

Có thể nói, trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế nước ta ngày càng hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng tài chính khiến cho
hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước thời gian qua
gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, bản thân các doanh nghiệp phải
hành động như thế nào, có kế hoạch ra sao để vượt qua hoặc có thể tận dụng
cơ hội do suy thoái đem lại để tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài trong hoạt động
ngoại thương?


Thứ nhất, các doanh nghiệp cần chủ động khi hội nhập vào nền thương
mại quốc tế:
Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới cuối năm 2007 đã mở
ra nhiều cơ hội kinh doanh cũng như mang đến những thách thức không nhỏ
cho doanh nghiệp trong nước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu. Khi hội nhập WTO, các doanh nghiệp nhất thiết phải hiểu luật
thương mại quốc tế, luật của các đối tác, tập quán thương mại quốc tế và các
tranh chấp thương mại quốc tế phổ biến để phòng tránh những rủi ro có thể
có trong hoạt động của mình. Quan hệ giao thương của Việt Nam đang phát
triển mạnh, tuy nhiên những kiến thức về pháp luật các nước và luật pháp
quốc tế của các DN lại rất hạn chế. Gia nhập WTO, tham gia thị trường
thương mại quốc tế bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật và tập quán
quốc tế. Điều này các doanh nghiệp của chúng ta buộc phải biết để có tiếng
nói chung. Nếu không hiểu được và không tìm được tiếng nói chung thì bất
đồng có thể xảy ra ngay từ khi tìm hiểu, giao ký kết hợp đồng lẫn các tranh
chấp khi xảy ra. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính cũng như nhân lực không có. chưa đủ
điều kiện để có một bộ phận pháp lý chuyên nghiệp. Chúng ta có thể hợp tác
với văn phòng luật sư có những hiểu biết về luật pháp và thương mại quốc tế
hoặc thông qua các Hiệp hội doanh nghiệp để có thể tham gia các Hội nghị,
Hội thảo, các lớp tập huấn.

Thứ hai, dành sự quan tâm thích đáng đến văn hoá kinh doanh cũng là một
cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương
đạt được lợi thế cạnh tranh và vượt qua những sóng gió hiện nay khi hội
nhập. Không ít doanh nghiệp của Việt Nam hiện vẫn kém hiểu biết về tâm
lý, thói quen tiêu dùng... của khách hàng mà mình hướng tới. Đây chính là
ví dụ điển hình cho sự thua kém về văn hoá kinh doanh. Thiếu yếu tố này,


doanh nghiệp sẽ không thể thắng lợi trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ
nước ngoài thời kỳ hội nhập. Bởi lẽ, bên cạnh các yếu tố vật chất như tài
nguyên thiên nhiên, người lao động..., văn hoá kinh doanh là yếu tố cơ bản,
lâu bền góp vào sự thành công của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
Thứ ba, đánh giá lại khả năng thực sự của doanh nghiệp và xây dựng kế
hoạch chiến lược kinh doanh. Cụ thể, các doanh nghiệp phải thường xuyên
đánh giá lại từng sản phẩm, xem xét các ngành kinh doanh và toàn bộ phạm
vi hoạt động, mối liên kết giữa các chuỗi giá trị, sự co dãn của các nhà cung
cấp và khách hàng, thị trường để tìm ra điểm mạnh và điểm yếu của mình,
cũng như cơ hội và mối đe dọa từ thị trường, từ đối thủ cạnh tranh, nhìn ra ai
là đối thủ mạnh nhất và họ sẽ phản ứng ra sao. Từ đó, xem xét chỗ nào cần
cải tiến hoạt động, cắt giảm chi phí, thêm giá trị gia tăng, có thể khai thác
nguồn lực rẻ ở đâu... để tạo ra giá thành thấp cũng như đa dạng hóa rủi ro về
tiền tệ và khách hàng để có sự ưu tiên trong ngắn hạn, trung và dài hạn.
Thứ tư, theo sát các khách hàng của đối thủ cạnh tranh để thâm nhập khi
có cơ hội. Tăng thêm đầu tư cho công tác tiếp thị, hoạt động nghiên cứu và
phát triển (R&D), tăng chi tiêu cho một số lĩnh vực để sẵn sàng đạt các mục
tiêu chiến lược như thay đổi mô hình kinh doanh, các kênh phân phối... Đối
với những khách hàng tiềm năng, có nhiều cơ hội sinh lời và tăng trưởng,
doanh nghiệp nên dành những điều kiện thanh toán thuận lợi để thu hút họ.
Đối với những nơi ít hấp dẫn thì đương nhiên cần siết chặt hơn. Doanh

nghiệp phải đa dạng hóa khách hàng, vùng tiêu thụ như thế nào để đối phó
với những biến động.
Thứ năm, doanh nghiệp cần nghiêm túc xây dựng một chiến lược kinh
doanh dài hạn, chuẩn bị nguồn lực cho cuộc chạy đua, nắm bắt trước những
thời cơ và hướng nỗ lực của doanh nghiệp vào phía đó.


×