3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước
ta, CTĐN đã góp phần giữ vững, củng cố môi trường hòa bình và tạo những
điều kiện quốc tế ngày càng thuận lợi cho công cuộc xây và bảo vệ Tổ quốc.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng; là
một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên
trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia; là cơ quan đại diện
của Nhà nước thực hiện CTĐN ở KVBG. Để hoàn thành nhiệm vụ được
giao, BĐBP phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp công tác. Trong đó,
CTĐN chiếm một vị trí hết sức quan trọng, là một trong những nhân tố tạo
nên sức mạnh góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền ANBG quốc gia, xây
dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng.
Tỉnh Lạng Sơn là địa bàn chiến lược quan trọng có đường biên giới
giữa nước ta với Trung Quốc. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, BĐBP
tỉnh Lạng Sơn thường xuyên phải giải quyết những vấn đề về chủ quyền
ANBG có liên quan đến hai nhà nước và tiếp xúc với người nước ngoài. Vì
vậy, CTĐN luôn được BĐBP tỉnh Lạng Sơn xác định là một nhiệm vụ
chính trị, một biện pháp quan trọng góp phần vào thực hiện thắng lợi
CTĐN của Đảng và Nhà nước, bảo vệ và giữ vững chủ quyền ANBG quốc
gia, thúc đẩy được mối quan hệ và tăng hiệu quả trong xử lý các vấn đề nảy
sinh trên biên giới.
Hiện nay và trong những năm tới, tình hình trên tuyến biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc nói chung và tuyến biên giới tỉnh Lạng Sơn nói riêng,
bên cạnh những thuận lợi, tiếp tục có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
trực tiếp đến CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn. Chính điều này sẽ đặt ra cho
4
CTĐN những khó khăn và thách thức mới. Bên cạnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia trong tình hình mới cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề mới đối với CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn. Vì vậy, CTĐN
của BĐBP tỉnh Lạng Sơn cần phải được quan tâm, chú trọng, có sự phát triển
mới cả về lý luận và thực tiễn.
Trong những năm qua, BĐBP tỉnh Lạng Sơn đã chủ động tiến hành có
hiệu quả CTĐN, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền ANBG quốc gia và
xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị. Tuy nhiên, CTĐN của BĐBP tỉnh
Lạng Sơn còn có những hạn chế, bất cập cả về nội dung, phương thức thực
hiện, cơ chế hoạt động, phối hợp cũng như hiệu quả thực tế. Một bộ phận
cán bộ, chiến sỹ BĐBP tỉnh Lạng Sơn còn nhận thức chưa đúng, chưa đầy
đủ về tầm quan trọng của CTĐN; chưa nắm vững chức năng, nhiệm vụ của
BĐBP trong thực hiện CTĐN biên phòng; năng lực tổ chức, thực hiện
CTĐN của một bộ phận cán bộ, chiến sỹ còn bộc lộ những hạn chế, yếu
kém… Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện cả lý luận và thực tiễn về CTĐN
của BĐBP tỉnh Lạng Sơn, trên cơ sở đó đề xuất yêu cầu và một số giải pháp
cơ bản nhằm thực hiện tốt CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn hiện nay là vấn
đề mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn “Công tác đối ngoại của Bộ
đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn hiện nay” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công tác đối ngoại có vai trò rất quan trọng đối với nước ta trong thời
kỳ hội nhập quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia, tranh thủ các điều kiện quốc tế để xây dựng, phát triển
đất nước và phát huy ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế. Vì vậy, vấn
đề này được nhiều ngành, nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài quân đội
5
nghiên cứu. Các công trình đã đề cập đến vấn đề đối ngoại trên các mặt, các
góc độ khác nhau.
* Nghiên cứu về tư tưởng và thực tiễn hoạt động ngoại giao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh
Có nhiều sách tham khảo viết về tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động
ngoại Hồ Chí Minh như: Vũ Dương Huân (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về ngoại giao, Nxb Thanh niên, H; Đỗ Đức Hinh (2007), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại - một số nội dung cơ bản, Nxb CTQG, H; Nguyễn Dy Niên
(2008), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H; Bộ Ngoại giao,
Ban Nghiên cứu lịch sử ngoại giao (2009), Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb CTQG, H.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: Nguyễn Thế Hưởng (2010), Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi
mới, Luận án Tiến sĩ, H; Lê Hồng Trang (2007), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đổi mới, Luận
văn Thạc sĩ, H; Hoàng Thị Thu Hương (2008), Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh vào việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, H; Phạm Thanh Thủy (2009), Quan điểm của
Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại và sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, H.
Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tư tưởng đối ngoại
và thực tiễn hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những
giai đoạn cụ thể của cách mạng Việt Nam. Qua đó, rút ra những giá trị to
lớn về mặt lý luận và thực tiễn đối với hoạt động đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta; sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc hoạch định, đề
ra đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước qua các kỳ đại
hội và đưa ra một số kiến nghị nhằm vận dụng có hiệu quả tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
6
*Nghiên cứu về công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Có các luận văn thạc sĩ như: Nguyễn Thanh Tâm (2005), Đường lối
hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, H;
Nguyễn Thị Thùy (2006), Sự phát triển quan hệ Việt - Trung từ sau khi bình
thường hóa và tác động của nó tới quá trình giải quyết vấn đề biên giới lãnh
thổ, Luận văn Thạc sĩ, H; Lê Thị Trường An (2006), Quan hệ Việt Nam Campuchia trong việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, Luận văn Thạc sĩ,
H; Trần Đức Hùng (2007), Quan hệ Việt - Mỹ từ khi bình thường hóa đến
nay, Luận vănThạc sĩ, H; Nguyễn Hải Yến (2008), Vai trò của Quốc hội Việt
Nam trong hoạt động đối ngoại thời kỳ đổi mới, luận văn Thạc sĩ, H; Nguyễn
Ngọc Minh (2009), Ngoại giao đa phương Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
Luận văn Thạc sĩ, H; Đào Thị Mai Anh (2011), Quan hệ đối tác chiến lược
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, H...Các tác giả
đã tập trung nghiên cứu làm rõ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới và chủ trương, nguyên tắc, đối sách trong
quan hệ ngoại giao với từng nước cụ thể. Trên cơ sở đó, đề xuất những yêu
cầu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và nâng cao hiệu quả quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với
các nước.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC
ĐỐI NGOẠI CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác đối ngoại của Bộ đội Biên
phòng tỉnh Lạng Sơn hiện nay
1.1.1. Nhận thức chung về công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
* Cơ sở lý luận của công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kết hợp giữa chủ
7
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; về
vấn đề dân tộc
Chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân là những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa
yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là hai
khái niệm có nội hàm khác nhau nhưng đều nằm trong bản chất của giai
cấp công nhân và gắn liền với nhau một cách chặt chẽ. Trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph Ăngghen đã khẳng định: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức
đấu tranh dân tộc. Đương nhiên và trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải
thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã” [39, tr.611].
Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo về
bản chất là cuộc cách mạng quốc tế, nhưng trước hết nó được tiến hành trong
từng dân tộc, từng quốc gia. Cuộc cách đó phải đồng thời giải quyết hai vấn đề
quan hệ chặt chẽ với nhau là vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Do vậy, để giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước cũng
như quốc tế thì đòi hỏi tất yếu khách quan là phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Kết hợp
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là
nguồn gốc tạo nên sức mạnh tổng hợp để giai cấp công nhân hoàn thành thắng
lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đồng thời, đảm bảo cho sự phát triển độc lập,
vững chắc của từng dân tộc, đảm bảo cho quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong từng nước cũng như trên phạm vi quốc tế ngày càng phát triển và giành
thắng lợi. Từ đó, có đủ sức mạnh để bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, củng cố
môi trường hòa bình, ổn định và tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế đối với
sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân ở mỗi nước.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kết hợp chủ nghĩa yêu nước
8
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân chỉ ra những vấn đề
có tính nguyên tắc đối với cách mạng của mỗi nước, đó là: Phải kết hợp chặt
chẽ giữa cách mạng của từng nước với cách mạng thế giới; giải quyết đúng đắn
mối quan hệ lợi ích dân tộc và giai cấp, lợi ích quốc gia và quốc tế; tuân thủ
nghiêm những nguyên tắc trong quan hệ quốc tế.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ
nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển
các dân tộc, đó là: các dân tộc tách ra để trở thành các dân tộc độc lập và liên
hiệp lại với nhau giữa các dân tộc.
Xét trong mối quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, biểu hiện của hai xu
hướng khách quan đó thể hiện rất nổi bật. Thời đại hiện nay là thời đại các
dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xóa bỏ xiềng xích nô lệ và giành lấy quyền tự
quyết định vận mệnh của dân tộc mình. Xu hướng này biểu hiện trong phong
trào giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc áp bức bóc lột. Xu
hướng này còn biểu hiện rõ nét trong tình hình hiện nay, đó là những nước
chậm phát triển đấu tranh giữ độc lập tự chủ, chống lại sự phụ thuộc vào
những nước lớn. Ngược lại, trong thời đại hiện nay, xu hướng các dân tộc
muốn xích lại gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất; xu
hướng tập đoàn hóa ở các khu vực của thế giới cũng tăng lên rõ rệt không chỉ
do tác động của các lợi ích kinh tế mà còn do sức thúc đẩy của các lợi ích
chính trị và giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại.
Nhận thức rõ vấn đề này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính
sách mở cửa để hòa nhập vào xu thế chung của thời đại. Đồng thời, phải có
chiến lược, sách lược và giải pháp hữu hiệu để giữ vững độc lập, tự chủ, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Điểm nổi bật trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân
tộc được thể hiện sâu sắc trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin, đó là: các
9
dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc có quyền tự quyết và đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc.
Thực chất của bình đẳng dân tộc là xoá bỏ nạn nô dịch của dân tộc này
đối với dân tộc khác. Trên cơ sở đó dần dần xoá bỏ sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các dân tộc và để các dân tộc được tham gia bình đẳng
vào các hoạt động của cộng đồng quốc gia và quốc tế.
Thực hiện tốt quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện
quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các
dân tộc đối với nhau.
Quyền tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường
phát triển của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết còn có nghĩa là các
dân tộc không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là một nội dung cơ bản trong
Cương lĩnh dân tộc của Lênin; phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công
nhân, sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Đồng thời, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng
lợi. Để chiến thắng các thế lực áp bức, bóc lột, một tất yếu khách quan là phải
tổ chức sự liên minh giai cấp công nhân các dân tộc trong từng quốc gia cũng
như trên phạm vi thế giới.
Những quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là cơ sở lý luận
để Đảng và Nhà nước ta đề ra đường lối, chính sách đối ngoại. Đồng thời, là
cơ sở lý luận của CTĐN của BĐBP trong việc xác định nội dung, hình thức,
phương pháp giải quyết các vấn đề có liên quan đến chủ quyền, ANBG quốc
gia và trong quan hệ với lực lượng BVBG của các nước láng giềng.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
đối ngoại
10
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống những nguyên lý, quan
điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới và thời đại, về đường lối quốc
tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam
thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại
thực tiễn của Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước Việt Nam [43,
tr.89].
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung chủ yếu
như: các quyền dân tộc cơ bản; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; hòa bình và chống chiến tranh
xâm lược; hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới với
Việt Nam; quan hệ với các nước lớn; ngoại giao là một mặt trận.
Trong tư tưởng ngoại giao, Hồ Chí Minh luôn khẳng định các quyền dân tộc
cơ bản và nhấn mạnh độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn
đề liên quan chặt chẽ với nhau và chi phối toàn bộ mọi hoạt động ngoại giao.
Nội dung cốt lõi trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là độc lập tự chủ, tự
lực tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế. Người nêu rõ: “Muốn
người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”[40, tr.293]. Hồ Chí
Minh luôn xác định cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với các trào lưu
và lực lượng tiến bộ trên thế giới. Vì vậy, việc tăng cường các mối liên hệ và hợp
tác quốc tế là một trong những điều kiện giúp ta kháng chiến thắng lợi, kiến quốc
thành công. Sức mạnh của Việt Nam là ở sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đồng
thời ở việc đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế. Đó cũng chính là cơ sở
để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Người còn sớm nêu ra ý
tưởng hợp tác cùng có lợi với tất cả cả các nước và rất chú trọng tăng cường quan
hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng. Đồng thời, xử lý đúng đắn mối quan
hệ với các nước lớn, phấn đấu mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam theo hướng
11
đa dạng hóa, là bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai:
“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính
phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia
của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới ”
[41, tr.8].
Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã trở thành một mặt trận
quan trọng, triển khai khắp thế giới và ngay tại hậu phương của đối phương. Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Tiến công ngoại giao là một mặt tiến công quan trọng có ý nghĩa
chiến lược” [33, tr.36]. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và kháng chiến
cứu nước, ngoại giao đã phối hợp nhịp nhàng với đấu tranh quân sự và chính trị tạo
thành sức mạnh tổng hợp. Ngoại giao đóng góp đắc lực tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ quốc tế, thực hiện vừa đánh vừa đàm, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng
từng thời kỳ, trực tiếp tham gia kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi cuối cùng. Đó
là một kỳ tích trên mặt trận ngoại giao.
Gắn liền với tư tưởng là phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh. Đó là phương pháp dự báo và nắm đúng thời cơ, ngoại giao tâm
công và “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; phong cách ngoại giao với tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, ứng xử linh hoạt, thể hiện giản dị, dễ cảm hóa, dễ thuyết phục và
ngắn gọn, hàm súc, dễ hiểu; nghệ thuật vận dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (biết
mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến), nhân nhượng có nguyên tắc
và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương. Phương pháp, phong cách và
nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện nhuần nhuyễn trong mọi hoạt
động ngoại giao của Người. Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự mềm mỏng nhưng rất
quyết đoán, kiên trì chân lý, bảo vệ nguyên tắc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, tạo
được sức cảm hóa và thuyết phục đối với mọi đối tượng trong quan hệ ngoại giao
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh luôn là cơ sở nền tảng lý luận để
BĐBP vận dụng vào thực hiện CTĐN của mình.
12
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định CTĐN là một bộ phận rất quan trọng nhằm thực hiện
thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Qua các kỳ Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, Đảng ta
luôn khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ quốc tế và đề ra những phương châm đối ngoại rất quan trọng. Trong đó,
nhấn mạnh nội dung: coi trọng kết hợp hoạt động đối ngoại của Đảng, đối ngoại
của nhà nước và đối ngoại nhân dân; xác định rõ mục tiêu đối ngoại là góp phần
củng cố môi trường hoà bình, hợp tác để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tiếp tục kế thừa và phát triển đường lối, chính sách đối ngoại từ các kỳ
Đại hội trước, Đại hội XI của Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh [31,
tr.236].
Đại hội XI của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ của CTĐN là giữ
vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Về đường lối, phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại, Đảng ta
nhấn mạnh:
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các
mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập,
tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
13
tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của
quá trình hội nhập quốc tế...Tích cực hợp tác cùng các nước,
các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những
thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến
đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc
tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ
động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành
động can thiệp vào công việc nội, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn
định chính trị của Việt Nam” [31, tr.236 - 237].
Đối với vấn đề biên giới, lãnh thổ, Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ:
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ,
ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở
những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc
ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng
đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển” [31,
tr.237].
Những quan điểm, tư tưởng của Đảng về CTĐN luôn là những nguyên tắc
lớn, là sự định hướng đúng đắn, xuyên suốt để BĐBP vận dụng thực hiện CTĐN
có hiệu quả vào nhiệm vụ quản lý, BVBG. Đó là: xây dựng biên giới hoà bình,
hữu nghị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
nhau; tăng cường hợp tác, mở rộng quan hệ đối ngoại là điều kiện thuận lợi để
BĐBP hoàn thành tốt nhiệm vụ; đảm bảo vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tinh
thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau bảo vệ vững chắc chủ quyền ANBG; khi giải
quyết các vấn đề xung đột ở biên giới phải bằng đàm phán, thương lượng, không
để xảy ra xung đột vũ trang, gây mất ổn định biên giới.
* Cơ sở pháp lý tiến hành công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
14
Tại điều 16, Pháp lệnh BĐBP, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 28 tháng 03 năm 1997, đã chỉ rõ: Bộ đội Biên phòng được quan hệ,
phối hợp với lực lượng BVBG, chính quyền địa phương nước tiếp giáp theo quy
định của Chính phủ để thi hành các điều ước quốc tế về biên giới, xây dựng biên
giới hòa bình, hữu nghị; đấu tranh ngăn chặn mọi hành động làm phương hại
đến quan hệ biên giới giữa các nước có chung biên giới và xâm phạm chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại Điều 6, Nghị định số 02/1998/NĐ-CP, ngày 06/01/1998 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh BĐBP và mục 1, Thông tư
2866/1998/TT-BQP, ngày 12/9/1998 của Bộ Quốc phòng hướng dẫn thi hành
Nghị định số 02/1998/NĐ-CP, ngày 06/01/1998 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh BĐBP đã nêu cụ thể: Bộ đội Biên
phòng được quan hệ, phối hợp với lực lượng BVBG và chính quyền địa
phương nước tiếp giáp trong việc thi hành các điều ước quốc tế về biên giới,
xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động
làm phương hại đến quan hệ biên giới giữa các nước có chung biên giới.
Trách nhiệm cũng như cơ sở để BĐBP tiến hành CTĐN còn được xác
định cụ thể tại: Quyết định số 05/2003/QĐ-BQP, ngày 15/01/2003 của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng về Quy định hoạt động đối ngoại biên phòng; điều
14 trong Nghị định 89/2009/ NĐ-CP của Chính phủ, ngày 19/10/2009;
Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền giữa Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, Bắc Kinh, ngày 18-11-2009; Nghị định thư phân giới cắm
mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc giữa Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, Bắc Kinh, ngày18-11-2009.
15
Các văn bản, quy phạm pháp luật trên không những là hành lang pháp lý
tạo ra sự nhận thức chung về ý thức chủ quyền dân tộc mà còn thể hiện sự
quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG
quốc gia nói chung và nhiệm vụ của CTĐN của BĐBP nói riêng trong xu thế
hội nhập, mở cửa hiện nay.
* Khái niệm công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
Công tác đối ngoại là quá trình triển khai những hoạt động, những quan
hệ để thực hiện đường lối, chính sách ngoại giao của một nhà nước, một tổ
chức xã hội đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhằm đạt được những mục
đích nhất định trong quan hệ ngoại giao.
Công tác đối ngoại của một nhà nước do nhiều cơ quan thực hiện. Đối với
Việt Nam, ở trong nước có cơ quan quan hệ đối ngoại chung (Nhà nước, Quốc
hội, Chính phủ, Bộ ngoại giao, Bộ trưởng Bộ ngoại giao) và cơ quan quan hệ
đối ngoại chuyên ngành như: Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng… Ở ngoài nước có cơ quan quan hệ đối ngoại chính
thức như: Đại sứ quán, Lãnh sự quán và cơ quan quan hệ đối ngoại lâm thời.
Công tác đối ngoại quốc phòng là một bộ phận quan trọng trong CTĐN
của Đảng và Nhà nước ta, là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của quân đội.
Công tác đối ngoại quốc phòng thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng góp phần duy trì hòa bình, ổn
định, đồng thời góp phần xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Công tác đối ngoại quốc phòng là nhiệm vụ của toàn quân. Hiện nay,
bên cạnh Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng là cơ quan chuyên trách đối ngoại và
nhiều cơ quan khác trong toàn quân cũng trực tiếp tham gia CTĐN quốc
phòng, như: Tổng cục II, Viện Chiến lược quân sự, lực lượng BĐBP…
Công tác đối ngoại biên phòng là một bộ phận quan trọng trong CTĐN
quốc phòng, CTĐN của Đảng và Nhà nước. Công tác đối ngoại biên phòng
16
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại và quan điểm, chủ trương giải quyết
các vấn đề biên giới, lãnh thổ của Đảng và Nhà nước góp phần bảo vệ vững
chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ANBG quốc gia và xây dựng biên giới hòa
bình, hữu nghị với các nước láng giềng.
Tiến hành CTĐN biên phòng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó thường xuyên và
trực tiếp là cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân, các
ngành và các lực lượng vũ trang ở KVBG; BĐBP làm nòng cốt trong tham
mưu, phối hợp hoạt động và tổ chức thực hiện CTĐN biên phòng.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong thực hiện
CTĐN biên phòng. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP;
trách nhiệm của BĐBP trong thực hiện CTĐN biên phòng, khái niệm CTĐN
của BĐBP được xác định là:
Công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng là những hoạt động của
Bộ đội Biên phòng các cấp, bằng các quan hệ tiếp xúc, làm việc với
đại diện biên phòng nước láng giềng, người nước ngoài ở khu vực
biên giới hoặc lực lượng biên phòng các nước có liên quan nhằm giữ
vững mối quan hệ hữu nghị, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền an
ninh biên giới quốc gia trên cơ sở đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước [36, tr44].
Công tác đối ngoại của BĐBP là một bộ phận của CTĐN biên phòng,
CTĐN quốc phòng và CTĐN của Đảng và Nhà nước. Công tác đối ngoại của
BĐBP giữ vị trí, vai trò quan trọng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG quốc
gia. Công tác đối ngoại của BĐBP đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung thống
nhất của Quân ủy Trung ương; chỉ đạo, quản lý của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
hướng dẫn của cơ quan đối ngoại Bộ Quốc phòng nhằm quản lý, bảo vệ vững
17
chắc chủ quyền ANBG quốc gia; phối hợp với lực lượng BVBG của nước tiếp
giáp duy trì việc thực hiện các hiệp ước, hiệp định, quy chế biên giới, xây dựng
biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
* Nhiệm vụ công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
Từ nghiên cứu nội dung hoạt động đối ngoại biên phòng và trách nhiệm
của BĐBP trong thực hiện hoạt động đối ngoại biên phòng được quy định ở
Nghị định 89/2009/NĐ - CP; từ tổng kết thực tiễn CTĐN của BĐBP trong thời
gian qua và dự báo sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, xác
định nhiệm vụ CTĐN của BĐBP là:
Tham mưu cho Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về biên giới
quốc gia, các chủ trương, chính sách về hoạt động đối ngoại biên phòng và tổ
chức thực hiện đối ngoại biên phòng theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, hướng dẫn của Bộ Ngoại giao để quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG
quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.
Tham gia các đoàn của Nhà nước, các Bộ, ngành trung ương, ủy ban nhân
dân theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, kế hoạch của ủy ban nhân dân
cấp tỉnh để đàm phán, trao đổi giải quyết các vấn đề liên quan đến thực hiện
Hiệp ước, Hiệp định về biên giới. Thỏa thuận hợp tác biên phòng theo thẩm
quyền để bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ gìn ANTT, an toàn xã hội ở KVBG,
cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Phối hợp với lực lượng BVBG nước láng giềng thực hiện tuần tra, kiểm
soát, quản lý, bảo vệ đường biên giới, mốc quốc giới; phối hợp đấu tranh
chống tội phạm, ngăn chặn các hoạt động khủng bố, vượt biên, buôn bán vận
chuyển các chất ma túy, buôn lậu, buôn bán người qua biên giới, rửa tiền, truy
bắt tội phạm, cứu hộ, cứu nạn và tuyên truyền đối ngoại xây dựng biên giới
hòa bình, hữu nghị.
18
Thực hiện trao đổi tình hình liên quan định kỳ hoặc đột xuất với lực
lượng BVBG nước láng giềng nhằm thông báo, trao đổi tình hình thực hiện
Hiệp định về Quy chế biên giới, Thỏa thuận hợp tác biên phòng; tình hình vi
phạm chủ quyền lãnh thổ; công tác phối hợp đấu tranh, ngăn chặn các hành vi
vi phạm các quy định về quản lý, BVBG, giữ gìn ANTT, an toàn xã hội ở
KVBG, cửa khẩu liên quan đến hai bên biên giới; tiếp nhận và trao trả người,
tang vật, phương tiện vi phạm Hiệp định về Quy chế biên giới; gửi thư phản
kháng các hành vi vi phạm Hiệp định về Quy chế biên giới và các thỏa thuận
đã ký kết…
Mời và thăm xã giao theo lời mời; tổ chức đón tiếp lực lượng BVBG
nước láng giềng đến làm việc, thăm xã giao, chúc mừng nhân dịp ngày lễ, tết
và các hoạt động khác theo kế hoạch, chỉ đạo của trên.
* Nguyên tắc tiến hành công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
Khi tiến hành CTĐN của BĐBP cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
CTĐN trên các tuyến biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, không được
nhân nhượng, thoả hiệp vô nguyên tắc.
Thực hiện đúng thẩm quyền, nguyên tắc trong quan hệ, tiếp xúc, làm
việc, bảo đảm giữ bí mật quốc gia; trong đấu tranh cần quán triệt, vận dụng
năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, thực hiện phương châm "vừa hợp tác,
vừa đấu tranh" , xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị.
Tôn trọng độc lập, chủ quyền, an ninh của nước khác, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, tích cực xây dựng mối quan hệ hoà bình, hữu
nghị giữa lực lượng biên phòng và nhân dân hai bên biên giới, cùng nhau thực
hiện Hiệp ước, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới mà hai nước đã ký kết.
Đảm bảo an toàn nội bộ, giữ nghiêm kỷ luật, trong quan hệ đối ngoại
phải thận trọng chặt chẽ, vừa đảm bảo pháp lý, vừa đảm bảo hoà bình hữu
nghị. Luôn tỉnh táo, kiềm chế, không để sơ hở, làm lộ bí mật quốc gia.
19
Không được phép thoả thuận với nước ngoài làm thay đổi đường biên,
mốc giới. Chỉ được trao đổi những vấn đề thuộc thẩm quyền và được cấp trên
cho phép.
Những nguyên tắc trên có mối quan hệ biện chứng, quy định chặt chẽ lẫn
nhau; nội dung của từng nguyên tắc giữ vị trí, vai trò quan trọng, là những
quy định mang tính bắt buộc, đòi hỏi người chỉ huy, cán bộ, chiến sỹ BĐBP
phải luôn nắm vững và thực hiện đúng trong quá trình tổ chức thực hiện
CTĐN.
* Phương thức tiến hành công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng
Phương thức tiến hành CTĐN của BĐBP là tổng hợp các hình thức,
phương pháp hoạt động để thực hiện nội dung CTĐN phù hợp với chức năng,
thẩm quyền và đặc điểm hoạt động của BĐBP.
Hình thức CTĐN của BĐBP là cách thức tiến hành quan hệ tiếp xúc, làm
việc của BĐBP với các đối tượng quan hệ đối ngoại trên biên giới, nhằm quản
lý, bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị
và ổn định lâu dài. Hình thức CTĐN của BĐBP thường thể hiện trong các
trường hợp: tiếp xúc làm việc, thăm xã giao, thông báo, phản kháng và hội
đàm giữa lực lượng BĐBP Việt Nam với lực lượng BVBG, chính quyền địa
phương nước tiếp giáp và lực lượng biên phòng các nước có liên quan để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ quản lý, BVBG và xây dựng biên giới hoà bình, hữu
nghị. Công tác đối ngoại của BĐBP tiến hành qua các hình thức cơ bản sau:
Hình thức quan hệ trực tiếp
Là hình thức quan hệ tiếp xúc, làm việc giữa đoàn đại biểu BĐBP Việt
Nam với đoàn đại biểu lực lượng BVBG nước tiếp giáp nhằm mục đích thăm
xã giao, trao đổi tình hình hoặc giải quyết những vụ việc xảy ra trên biên giới
liên quan đến chủ quyền ANBG quốc gia. Hình thức này được áp dụng trong
20
các trường hợp: thăm xã giao; gặp gỡ hội đàm trao đổi định kỳ gặp gỡ hội
đàm đột xuất; gặp gỡ trực tiếp để phản kháng…
Hình thức quan hệ gián tiếp
Là hình thức thực hiện CTĐN thông qua khâu trung gian như: gửi thư
mời, thư thông báo, thư phản kháng giữa lực lượng BĐBP Việt Nam với lực
lượng BVBG nước tiếp giáp để thực hiện nội dung CTĐN của BĐBP theo
phạm vi thẩm quyền và quy định của pháp luật.
Phương pháp tiến hành CTĐN của BĐBP là cách thức, quy trình tổ
chức thực hiện các nội dung, hình thức đối ngoại thuộc trách nhiệm và
thẩm quyền của BĐBP. Phương pháp tiến hành CTĐN được áp dụng trong
các trường hợp: bạn sang ta làm việc; ta sang bạn làm việc; tham gia đoàn
địa phương. Đồng thời phải được thể hiện cụ thể ở các khâu như: công tác
chuẩn bị trước khi làm việc; tổ chức làm việc; kết thúc làm việc.
1.1.2. Quan niệm, vai trò và nội dung tiến hành công tác đối ngoại
của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn hiện nay
* Đặc điểm tình hình tỉnh Lạng Sơn
Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc của Tổ quốc, phía Tây
giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp tỉnh
Bắc Giang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Địa hình hiểm trở
chủ yếu là đồi núi cao, rừng rậm, bị chia cắt bởi khe sâu, sông suối. Đất đai
cằn cỗi nên gây nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp ở địa phương.
Hệ thống giao thông phát triển, quốc lộ 1A, 1B và tuyến đường sắt quốc tế
Việt - Trung là những tuyến thuận lợi nhất từ Hà Nội đến biên giới phía
Bắc. Tỉnh Lạng Sơn có các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính, cửa khẩu
phụ, và nhiều lối mòn, đường tắt qua lại biên giới, rất thuận tiện cho việc
lưu thông hàng hoá và ra vào KVBG. Vì vậy, Lạng Sơn là tỉnh trọng điểm
21
trên tuyến biên giới phía Bắc về lưu thông biên giới, buôn bán, trong đó
hoạt động xuất, nhập cảnh, buôn lậu qua biên giới, với số lượng người,
hàng hoá, phương tiện ngày càng gia tăng.
Khu vực biên giới tỉnh Lạng Sơn gồm 05 huyện (Tràng Định, Văn
Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình và Đình Lập) với 20 xã và 01 thị trấn, là nơi cư trú,
sinh sống của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao và Hoa (trong đó
dân tộc Tày, Nùng chiếm đa số). Đồng bào các dân tộc có mối quan hệ thân
tộc, dòng tộc sâu sắc. Chủ yếu đồng bào theo tín ngưỡng truyền thống của
từng dân tộc, ngoài ra ở KVBG còn có một số hộ theo đạo Thiên chúa, tập
trung ở thị trấn Đồng Đăng, xã Tân Mỹ và xã Tân Thanh. Các dân tộc, tôn
giáo sinh sống bình đẳng, đoàn kết, đan xen nhau cùng lao động sản xuất xây
dựng các thôn, bản văn hoá ở KVBG.
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội ở KVBG tỉnh Lạng
Sơn cơ bản phát triển, đời sống của nhân dân đã từng bước được cải thiện và
nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hộ gia đình đời sống còn
gặp rất nhiều khó khăn cùng với tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
nên đã có người vì lợi ích vật chất đơn thuần, bất chấp quy định của pháp luật
lén lút vượt biên làm ăn, buôn bán, làm cửu vạn, thậm chí có những trường
hợp tiếp tay cho bọn tội phạm. Phần đông nhận thức về pháp luật, hiểu biết về
quốc gia, quốc giới còn rất hạn chế. Đây là vấn đề khó khăn đặt ra cho BĐBP
tỉnh Lạng Sơn trong công tác quản lý, BVBG nói chung và CTĐN nói riêng.
Hệ thống chính trị cơ sở ở KVBG tỉnh Lạng Sơn luôn được cấp uỷ
đảng, chính quyền địa phương, các ngành, các cấp đặc biệt quan tâm xây
dựng, củng cố và kiện toàn. Nhìn chung các tổ chức đảng, chính quyền cơ sở
đã phát huy được vai trò lãnh đạo, quản lý nhà nước ở địa phương, thực hiện
đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; lãnh
đạo, chỉ đạo các đoàn thể, tổ chức quần chúng, tuyên truyền, vận động nhân
dân tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn ANTT thôn, bản.
22
Tình hình hoạt động của các loại đối tượng
Lạng Sơn là một địa bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Là tỉnh có nhiều cửa khẩu và nhiều điểm
du lịch hấp dẫn. Do đó, có nhiều dân lao động tập trung làm ăn, buôn bán
và khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch, vì vậy tình
hình ANTT ở KVBG tỉnh Lạng Sơn hết sức phức tạp và thường diễn ra các
loại tội phạm như: vận chuyển tài liệu trái phép ra nước ngoài; vận chuyển,
mua bán, tàng trữ, sử dụng các chất ma túy; vận chuyển, mua bán tiền giả,
vũ khí; mua bán phụ nữ, trẻ em; xuất, nhập cảnh trái phép; buôn lậu … có
chiều hướng gia tăng.
Thực trạng tình hình hoạt động của các loại đối tượng đang diễn ra
hàng ngày ở KVBG tỉnh Lạng Sơn đã có tác động, ảnh hưởng không nhỏ
tới công tác quản lý, BVBG nói chung cũng như CTĐN biên phòng nói
riêng. Gây khó khăn, phức tạp cho các lực lượng BVBG và mối quan hệ
đối ngoại giữa chính quyền địa phương hai tỉnh biên giới Lạng Sơn của
Việt Nam và Quảng Tây của Trung Quốc.
Tình hình ngoại biên
Đối diện với tỉnh Lạng Sơn có 03 huyện biên giới: huyện Ninh Minh;
huyện Bằng Tường và huyện Long Châu. Lực lượng BVBG phía đối diện bố trí
11 đại đội BĐBP đóng dọc theo biên giới và 04 chốt, đài quan sát gần sát biên
giới. Tại các cửa khẩu có lực lượng Công an Biên phòng làm nhiệm vụ kiểm
soát cửa khẩu. Phía đối diện tiếp tục xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
thương mại; mở cửa và đầu nối đường tại các cửa khẩu phụ; nâng cấp đường
hành lang, đường tuần tra biên giới.
Trước khi Nghị định thư phân giới cắm mốc và các văn kiện quản lý
biên giới mới có hiệu lực. Trên tuyến biên giới tỉnh Lạng Sơn - Việt Nam
và tỉnh Quảng tây - Trung Quốc, hai bên vẫn quản lý biên giới theo ranh
giới của Hiệp định tạm thời. Phía Trung Quốc thường xuyên có các hoạt
23
động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, xâm nhập vũ trang, ngăn cản Bộ đội
Công binh của ta rà phá vật cản, hành hung đe dọa, phá hoại hoa màu, thu
dụng cụ sản xuất của nhân dân ta đang canh tác ở sát biên giới. Trung Quốc
tiếp tục tiến hành các hoạt động tạo hiện trường mới trên biên giới nhằm
tạo thế có lợi trong phân giới cắm mốc trên thực địa.
Sau khi Chính phủ hai nước Việt Nam - Trung Quốc công bố Nghị định
thư phân giới cắm mốc và các văn kiện về biên giới mới có hiệu lực (ngày
14/7/2010), các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ nước ta của lực lượng vũ
trang nước đối diện giảm hơn so với thời gian trước nhưng vẫn còn rất phức tạp.
Đặc biệt là hoạt động đẩy người từ Trung Quốc qua biên giới về Việt Nam đã
tạo thêm sự phức tạp về an ninh, gây rối địa bàn, trật tự an toàn xã hội ở
KVBG. Công tác đối ngoại của BĐBP tỉnh Lạng Sơn hiện nay chủ yếu tập
trung vào giải quyết các vụ việc về biên giới như giải quyết về hoa màu, cây
kinh tế; chuyển giao đất quy thuộc về mỗi bên; giữ gìn ANTT; đấu tranh
chống tội phạm ở KVBG.
Tình hình Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn
Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ
chủ quyền ANBG trên tuyến biên giới tỉnh Lạng Sơn. Tổ chức, biên chế của
BĐBP tỉnh Lạng Sơn hiện nay gồm có: Bộ Chỉ huy và 07 phòng, ban trực
thuộc (Tham mưu, Chính trị, Trinh sát, Hậu cần, Kỹ thuật, phòng chống tội
phạm về ma túy, Văn phòng). Các đơn vị cơ sở gồm có 11 đồn biên phòng, 01
đại đội cơ động (c1), 01 tiểu đoàn huấn luyện (d19). Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy
các cấp được đào tạo cơ bản qua các trường trong và ngoài quân đội, năng lực
lãnh đạo, chỉ huy tác chiến phòng thủ cao. Cán bộ, chiến sỹ BĐBP tỉnh Lạng
Sơn cơ bản được đào tạo qua các trường, lớp trong và ngoài lực lượng hoặc đã
trải qua huấn luyện; được trang bị những kiến thức về quân sự, nghiệp vụ, pháp
luật; có bề dày kinh nghiệm công tác ở địa bàn; am hiểu thực tiễn công tác
quản lý, BVBG nói chung và CTĐN của BĐBP nói riêng. Đây chính là những
24
thuận lợi cơ bản đối với quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý, BVBG quốc gia
trong đó có CTĐN của BĐBP. Tuy nhiên, trước sự tác động của cơ chế thị
trường và những diễn biến phức tạp của tình hình ANTT trong KVBG tỉnh
Lạng Sơn, một số cán bộ, chiến sỹ do thiếu tinh thần trách nhiệm trong khi
thực hiện nhiệm vụ, tha hoá, biến chất chạy theo lợi ích vật chất nên vi phạm
pháp luật. Quá trình thực hiện nhiệm vụ kết quả đạt được chưa cao, do vậy
chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia cũng
như những đòi hỏi của CTĐN của BĐBP trong tình hình mới.
Tình hình các lực lượng vũ trang địa phương
Bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn gồm có: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và
Ban Chỉ huy Quân sự các huyện biên giới. Bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn
là những đơn vị vũ trang tập trung, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các
đơn vị BĐBP tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia và thực
hiện CTĐN biên phòng. Đây là lực lượng cơ động mạnh, có sức chiến đấu
cao, sẵn sàng hỗ trợ cho BĐBP trong giải quyết các vụ việc xảy ra trên biên
giới.
Lực lượng dân quân tự vệ là những tổ chức vũ trang quần chúng trong các
ngành, các đơn vị, cơ sở sản xuất, cơ quan hành chính sự nghiệp và ở các xã được
phát triển rộng khắp. Đây là lực lượng tham gia phối hợp với BĐBP thực hiện
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia, giữ gìn ANTT ở KVBG.
Hệ thống tổ chức của Công an tỉnh Lạng Sơn gồm: Sở Công an, công
an các huyện, thị trấn và các xã biên giới. Theo quy chế, các lực lượng này
thường xuyên phối hợp với BĐBP nhằm trao đổi thông tin, nắm bắt tình
hình về mọi mặt và xử lý các tình huống xảy ra trong KVBG, bảo vệ vững
chắc chủ quyền ANBG quốc gia.
Ngoài các lực lượng trên, quá trình thực hiện CTĐN, BĐBP tỉnh Lạng
Sơn còn thường xuyên phối hợp với lực lượng Hải Quan trong lĩnh vực phòng
25
chống các hoạt động buôn lậu như tuần tra ngăn chặn, bắt giữ và xử lý các
loại hàng lậu qua các đường mòn, đường tắt vào nước ta.
Những đặc điểm trên có tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến CTĐN
của BĐBP tỉnh Lạng Sơn. Do vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện, đòi hỏi
cấp ủy, chỉ huy các đơn vị BĐBP tỉnh Lạng Sơn phải nắm chắc đặc điểm tình
hình có liên quan để đề ra nghị quyết, kế hoạch sát đúng và tổ chức thực hiện
luôn đảm bảo chủ động, linh hoạt.
* Quan niệm về công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng
Sơn hiện nay
Từ những vấn đề lý luận về CTĐN của BĐBP nói chung, CTĐN của
BĐBP tỉnh Lạng Sơn được xác định như sau: Công tác đối ngoại của Bộ đội
Biên phòng tỉnh Lạng Sơn là tổng thể các hoạt động của Bộ đội Biên phòng
tỉnh Lạng Sơn trong tham mưu, phối hợp và tổ chức thực hiện công tác đối
ngoại biên phòng theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao, góp
phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, xây dựng biên
giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Công tác đối ngoại của BĐBP tỉnh Lạng Sơn được tiến hành với mục
đích nhằm quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách
đối ngoại và quan điểm, chủ trương giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh
thổ của Đảng và Nhà nước trong công tác biên phòng, góp phần bảo vệ vững
chắc chủ quyền ANBG quốc gia, xây dựng đoạn biên giới Việt Nam - Trung
Quốc hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác cùng phát triển.
Chủ thể tiến hành CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn là lãnh đạo, chỉ huy,
cán bộ, chiến sỹ BĐBP tỉnh Lạng Sơn, trong đó trực tiếp và thường xuyên là các
đồn biên phòng, do cấp uỷ, chỉ huy các đồn tổ chức thực hiện.
Nhiệm vụ CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn là làm tham mưu cho Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Bộ Tư lệnh BĐBP về thực hiện CTĐN
theo quy định của Bộ Quốc phòng; tham gia cùng các đoàn thể, chính quyền
26
địa phương giải quyết các vấn đề có liên quan đến quan hệ biên giới giữa hai
nước và phối hợp với các lực lượng liên quan trên địa bàn đấu tranh, ngăn
chặn các hành vi vi phạm các hiệp ước, hiệp định và thỏa thuận cấp cao đã
được ký kết giữa hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc; thăm và làm việc
theo lời mời của Công an Biên phòng, BĐBP tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc;
mời và tổ chức đón tiếp bạn theo biên bản ghi nhớ định kỳ hàng năm hoặc
tham gia các hoạt động khác theo chỉ đạo của Tư lệnh BĐBP.
Đối tượng mà CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn tác động là các lực lượng
vũ trang, nhân dân, các cơ quan hữu quan làm nhiệm vụ ở KVBG của tỉnh
Quảng Tây - Trung Quốc. Trong đó, trực tiếp, thường xuyên là lực lượng Công
an Biên phòng, BĐBP, nhân dân và chính quyền địa phương ở KVBG tỉnh
Quảng Tây - Trung Quốc.
* Vai trò của công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn
hiện nay
Công tác đối ngoại của BĐBP tỉnh Lạng Sơn là một trong sáu biện pháp
công tác biên phòng, góp phần trực tiếp quản lý, BVBG và thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Trong tình hình
hiện nay, CTĐN của BĐBP tỉnh Lạng Sơn càng có ý nghĩa quan trọng trong
giải quyết các vấn đề về chủ quyền ANBG quốc gia, phát triển kinh tế, hợp
tác biên giới và đẩy lùi các nhân tố gây mất ổn định trên biên giới, giữ cho
biên giới quốc gia luôn ổn định và phát triển.
Công tác đối ngoại của BĐBP tỉnh Lạng Sơn góp phần tăng cường mối
quan hệ giữa chính quyền và nhân dân hai tỉnh Lạng Sơn - Việt Nam và
Quảng Tây - Trung Quốc. Từ đó, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh
Lạng Sơn ngày càng phát triển thông qua mở rộng sự giao lưu, hợp tác về
kinh tế, văn hóa...với chính quyền, các tổ chức kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng
Tây - Trung Quốc.
27
Công tác đối ngoại của BĐBP tỉnh Lạng Sơn góp phần xây dựng và
củng cố tình đoàn kết gắn bó giữa BĐBP tỉnh Lạng Sơn với các lực lượng
BVBG phía Trung Quốc. Từ đó, đưa mối quan hệ giữa BĐBP tỉnh Lạng Sơn
với các lực lượng BVBG phía Trung Quốc ngày càng đi vào chiều sâu và tăng
niềm tin trong xử lý các vấn đề nảy sinh trên biên giới trên cơ sở tôn trọng
đường biên giới và các hiệp định, quy chế quản lý biên giới.
* Nội dung tiến hành công tác đối ngoại của Bộ đội Biên phòng tỉnh
Lạng Sơn hiện nay
Lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại
Trên cơ sở quan điểm, đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước, nhiệm vụ cấp trên giao, cấp uỷ, chỉ huy các cấp BĐBP tỉnh Lạng Sơn
tiến hành trao đổi, bàn bạc xác định nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng công
tác để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị thuộc quyền thực hiện
CTĐN của BĐBP. Lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết dứt điểm và có hiệu quả
những vấn đề nổi lên hay những công việc cần phải làm ngay để phục vụ
cho CTĐN. Các nghị quyết lãnh đạo, chương trình, kế hoạch, hướng dẫn
thực hiện CTĐN phải đảm bảo tính lôgíc, biện chứng, theo đúng nhiệm vụ
được giao và những yêu cầu đặt ra của CTĐN. Công tác đối ngoại phải
được xác định rõ trong nghị quyết lãnh đạo của Đảng ủy BĐBP tỉnh và cấp
ủy thuộc chi bộ các đồn biên phòng.
Việc quán triệt nhiệm vụ là bước quan trọng giúp cho cấp ủy, người chỉ
huy các cấp BĐBP tỉnh Lạng Sơn nhận thức đúng ý định của cấp trên và của
địa phương, làm cơ sở để xác định nội dung, xây dựng kế hoạch CTĐN.
Nghiên cứu đánh giá tình hình có liên quan đến CTĐN, trong đó cần tập
trung nghiên cứu đánh giá các yếu tố tình hình như: lực lượng, phương tiện,
công tác quản lý, BVBG; quan điểm, động thái của lực lượng BVBG phía