Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phẫu thuật Chấn thương hàm mặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.15 KB, 19 trang )

PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG HÀM MẶT/ĐCT
Ts.Bs Nguyễn Hồng Hà, Ths.Bs Nguyễn Thị Thu Hằng, Ths.Bs Nguyễn Việt
Anh
1.TÌNH HÌNH CTHM VÀ ĐCT TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI
1.1. Tình hình CTHM
Chấn thương vùng hàm mặt do va đập chiếm một tỷ lệ khoảng 4 – 6% trong
tổng số các loại chấn thương trên toàn cơ thể. Gẫy xương vùng hàm mặt do chấn
thương chiếm 3 – 4% các loại gẫy xương. Chấn thương vùng hàm mặt hay gặp ở lứa
tuổi trẻ và tuổi trung niên (khoảng từ 18 – 50 tuổi). Đây là lứa tuổi tham gia nhiều
vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất và hoạt động giao thông. Tỷ lệ chấn
thương vùng hàm mặt của nam giới so với nữ giới vào khoảng 10 : 1.
Nghiên cứu của Goodisson D. bệnh viện Chrischurch trong 7 năm (19952002) có 2307 BN vào viện, trong đó 5% là CTHM, 3/4 BN là nam giới, tuổi trung
bình là 27, nguyên nhân chủ yếu là do TNGT và bạo lực. Tất cả đều được xử trí,
điều trị kịp thời không chậm trễ. [33]
Các nghiên cứu Zargar (Tehran 2004), Brasileiro, Martini (Brasil 2005),
Lebeau (Pháp 2006) cũng cho các nhận xét tương tự.[24, 40, 45, 61]
Ở VN theo thống kê của Lâm Ngọc ấn, tại Viện RHM TP Hồ Chí Minh trong
vòng 3 năm tỷ lệ CTHM tăng 78,56%. Tại Hà Nội Trần Văn Trường và Trương
Mạnh Dũng đã báo cáo tỷ lệ CTHM tăng 33%/1 năm. Tai viện RHM Hà nội, từ năm
1988-1998 đã tiếp nhận và điều trị cho 2149 trường hợp gãy xương hàm mặt, các tác
giả đã nhận thấy số lượng bệnh nhân tăng gấp 7 lần so với giai đoạn 1972-1982.
Còn tại viện RHM TPHCM thống kê trong 17 năm ( 1975-1993) có 2348 trường
hợp, trong đó 50,7% là do tai nạn xe máy. Theo thống kê của ủy ban an toàn quốc
gia trong vòng 10 năm ( 1991-2001) các phương tiện giao thông tăng đáng kể: ô tô
tăng 2 lần, xe máy 6 lần, số vụ tai nạn tăng 3,5 lần, số người bị thương tăng 7 lần, số
người tử vong tăng 5 lần. Điều đáng chú ý là do sự gia tăng của các phương tiện tốc
độ cao nên số lượng các chấn thương hàm mặt ngày càng tăng và mức độ ngày càng
trầm trọng.[5, 11, 17]
1.2. Tình hình CTHM phối hợp ĐCT
Cùng với sự phát triển của giao thông, xây dựng, công nghiệp hóa, tỷ lệ các
bệnh nhân chấn thương hàm mặt nói riêng cũng như đa chấn thương ngày càng tăng.


Các bệnh nhân có chấn thương hàm mặt phối hợp chấn thương sọ não (CTSN), chấn


thương bụng, ngực, gãy nhiều chi... chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Trong đó các vết
thương hàm mặt hở phức tạp, gãy xương hàm trên xương hàm dưới di lệch nhiều hay
gãy phức hợp cả hai xương là các chấn thương hàm mặt nặng nó đòi hỏi phải được
cấp cứu điều trị nhanh chóng kịp thời khẩn trương không kém gì các tổn thương khác
của ĐCT.
Alvi.A và Cs (2003) tổng kết 151 trường hợp gãy xương mặt có phối hợp với
chấn thương trong 4 năm. Kết quả 43,7% có máu tụ nội sọ, 31% chấn thương ngực.
Sự hiểu biết này chỉ ra sự cần thiết phối hợp liên chuyên khoa từ để kết quả tối ưu
trong điều trị CTHM nặng. [19]
Meningaud và Cs (2003)nghiên cứu trên các bệnh nhân ngã cao tại Pháp nhận
thấy hầu như các CTHM đều kèm các chấn thương phối hợp khác trong đó gãy
xương chi 89%, sọ não 67%, cột sống 40,6%, bụng 26,5%. [46]
Ngoài ra còn rất nhiều nghiên cứu về sự phối hợp CTHM với ĐCT. [40, 58]
Tại Việt Nam, Nguyễn Quang Hải nghiên cứu tình hình CTHM tại BV DH Y
Huế nhân thấy 79/184 bệnh nhân có chấn thương phối hợp, trong số đó 60% là
CTSN. Nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng trên 157 bệnh nhân gãy xương gò má
cung tiếp cho thấy 84 ca có dấu hiệu CTSN, chứng tỏ bệnh nhân bị chấn thương từ
bên ngoài rất mạnh.
Qua tìm hiểu y văn ta thấy CTHM là rất phổ biến, trong đó CTHM nặng
thường nằm trong bệnh cảnh ĐCT, cần được xử trí sớm tích cực trong sự phối hợp
của đa chuyên khoa. Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ trong tổ chức sơ cứu cấp cứu, kỹ
thuật mổ xẻ, gây mê hồi sức nhưng việc chọn lựa thời điểm can thiệp thích hợp, xử
lý thích hợp trong giai đoạn sớm vẫn là vấn đề thách thức lớn đối với các phẫu thuật
viên trên thế giới. [23, 38, 40, 42, 44, 58]
2. CÔNG TÁC SƠ CỨU CẤP CỨU CHẤN THƯƠNG BAN ĐẦU :
2.1. Sơ cứu cấp cứu ĐCT
Cấp cứu bệnh nhân hàm mặt là một phần của cấp cứu các bệnh nhân đa chấn

thương, trong tình hình chấn thương hàm mặt phối hợp với chấn thương sọ não, ngực
bụng, chi thể ngày càng tăng thì việc xử trí cũng phải tuân theo các quy tắc của cấp
cứu đa chấn thương.
Như chúng ta đã biết bệnh nhân đa chấn thương cần được đánh giá ban đầu và
sơ cứu theo 1 cách đầy đủ, chính xác, có hệ thống để nhanh chóng xác định ảnh
hưởng của chấn thương đến các cơ quan sống.
Các nghiên cứu quan trọng cho thấy tỉ lệ tử vong do chấn thương phân bố làm
ba đỉnh. Đỉnh thứ nhất liên quan đến các ca tử vong ngay sau vài giây vài phút ngay

2


sau khi chấn thương. nguyên nhân của các tử vong này co thể do chấn thương sọ não
cột sống , chấn thương ngực, đm chủ và các mạch máu lớn, một số ít bệnh nhân có
thể được cứu sống nếu có sơ cứu tốt và vận chuyển nhanh. Đỉnh thứ 2 xảy ra trong
vòng vài giờ ngay sau chấn thương . Giai đoạn này được gọi là “ những giờ vàng”
bởi vì các bệnh nhân này có thể được cứu sống nếu có sự đánh giá và xử trí kịp thời
nhanh chóng. Các nguyên nhân tử vong thường do chấn thương sọ não, hoặc mất
máu. Những phân tích gần đây của hệ thống chấn thương hiệu quả gợi ý rằng ít nhất
10% tỉ lệ tử vong có thể giảm do tổ chức hệ thống cấp cứu chấn thương tốt. Đỉnh tử
vong thứ 3 xảy ra vài ngày hay vài tuần sau khi chấn thương nguyên nhân là do
nhiễm khuẩn hay suy đa tạng hay tắc mạch phổi.[50]
Các kiểm tra đánh giá và điều trị ưu tiên được thiết lập dựa trên các chấn
thương của bệnh nhân và dấu hiệu chức năng sống. Trong tất cả các cấp cứu bệnh
nhân nặng những ưu tiên điều trị phải được xác định dựa trên đánh giá toàn diện
bệnh nhân. Các chấn thương về tổng thể được chia thành 3 nhóm chính: nặng (trầm
trọng), cấp cứu và không cấp. Nhóm nặng trầm trọng ngay lập tức đe dọa tính mạng
và ảnh hưởng đến các chức năng sống của bệnh nhân : ví dụ: chèn ép đường thở, hô
hấp đảo ngược, chảy máu , tổn thương hệ tuần hoàn hay sốc. Những chấn thương
này chỉ chiếm khoảng 5% tổng số nhưng lại chiếm 50% của các chấn thương gây tử

vong. Chấn thương cấp chiếm 10-15% tổng số thường không gây ảnh hưởng tính
mạng ngay lập tức, là các chấn thương bụng, hàm mặt, ngực và chi thể , đây là các
chấn thương yêu cầu phải được can thiệp và sửa chữa nhưng các dấu hiệu chức năng
sống ổn định. Những chấn thương không cấp chiếm khoảng 80% chấn thương và
không đe dọa tính mạng ngay lập tức. Những bệnh nhân này cũng yêu cầu được mổ
can thiệp y tế mặc khi các nguyên nhân rõ ràng được tìm ra sau khi thăm khám cẩn
thận và làm các thăm dò xét nghiệm đầy đủ.[39, 50, 52, 54]
Mục tiêu của chăm sóc cấp cứu ban đầu là nhận ra các chấn thương đe dọa
tính mạng. Với các trung tâm chấn thương vùng trong những hệ thống cấp cứu chấn
thương hiện đại mục tiêu phân loại là nhận ra chính xác nhanh chóng bệnh nhân có
chấn thương đe dọa tính mạng, và điều trị nó một cách thích hợp đồng thời tránh
được việc chuyển không cần thiết lên tuyến trên những bệnh nhân chưa đến mức
nặng lắm.
Các bước thăm khám cấp cứu đầu tiên bệnh nhân chấn thương : Quy tắc ABC
Trong thăm khám đầu tiên, các dấu hiệu đe dọa tính mạng được nhận ra và xử
trí nhanh chóng. Nguyên tắc abcde là chữ viết tắt đầy của các hành động cần làm. A
airway: đường thở thông thoáng, cần được duy trì cùng với kiểm soát cột sống.

3


Breathing: thở: và hỗ trợ thở tương ứng. C Circulation: tuần hoàn đảm bảo và kiểm
soát chảy máu. D Degree: xác định mức độ tỉnh táo tri giác, E Exposure bộc lộ bệnh
nhân toàn bộ tránh bỏ sót chấn thương bị che khuất do quần áo.
Nhìn chung các tác giả thống nhất quy trình sơ cứu ban đầu như sau:
Đảm bảo thông thoáng đường thở, đặt nội khí quản nếu cần, duy trì cố định
cột sống cổ. Xử lý các triệu chứng suy hô hấp, mảng sường di động, dẫn lưu màng
phổi nếu cần. Nếu có chèn ép tim cấp dẫn lưu màng tim, mở ngực. Trường hợp có
sốc: cầm máu các chảy máu lớn, đặt 2 đường truyền lớn, bù dịch..Trường hợp có
chấn thương sọ não, bệnh nhân mê, đồng tử không đều đặt nội khí quản, thông khí

tốt, manitol…Cởi bỏ hết quần áo, đặt sonde tiểu, cố định chi chấn thương, chụp xq
ngực thẳng khung chậu cột sống. Sau khi các chức năng sống quan trọng đã được
khống chế và theo dõi các nhân viên y tế sẽ tiếp tục các thăm khám và xử lý các tổn
thương theo từng bộ phận cơ quan: Tràn máu tràn khí màng phổi thì dẫn lưu, chèn ép
tim thi làm thêm siêu âm, điện tâm đồ, cần thiết mở ngực. Nghi ngờ chấn thương
bụng kín cần chụp CT bụng hoặc chọc rửa ổ bụng. chấn thương động mạch chủ cần
chụp mạch, siêu âm, CTSN, CTHM chụp CT sọ, CT hàm mặt. Xq chi thể nghi ngờ
có chấn thương gãy xương. Tóm lại các yếu tố chức năng sống cần được yêu tiên xử
trí hàng đầu như hô hấp, tuần hoàn, sau khi kiểm soát được các yếu tố này sẽ tiến
hành làm bilan cấp cứu các tổn thương và xử trí tùy theo mức độ nặng nhẹ câp cứu…

4


TÓM TẮT SƠ ĐỒ XỬ LÝ ĐCT
ĐCT

Đường thở thông

Đặt NKQ hoặc Khai thông đường
thở

Không



Thở oxy, cố định cột sống cổ, ktra HH
Mảng sườn di động, suy HH




Đặt NKQ, Dẫn lưu MP,
hỗ trợ HH

Không

Sốc, Mạch, HA, lạnh toát mồ hôi…

Cầm máu, Đặt vein to, máu
chéo, bù dịch, Theo dõi M, Ha



Không

CTSN mê, đồng tử ko đều

Đặt NKQ, Thông khí tốt,
Manitol



Không

Ktra các chức năng sống
Chụp phim ngực, khung chậu, CS cổ
Cởi quần áo, khám toàn diện
Đặt sonde đái, td nước tiểu

Tràn máu MF

Tràn khí MF

DL MF

Chèn ép tim
Tmach cổ nổi
PVC cao

CTBK
Bụng chướng
Đau, phản ứng

SÂ chẩn đoán
Chọc dò
Mở ngực

CT ổ bụng
Chọc dò
Nội soi

5

CT Đầu

CT sọ não
CT hàm mặt


2.2. Sơ cứu cấp cứu khẩn cấp trong chấn thương vùng hàm mặt
CTHM đặc biệt là CTHM nặng thường dễ xảy ra những biến chứng đe dọa

trực tiếp tính mạng bệnh nhân nên cần được xử trí tích cực, kịp thời, Nó bao gồm:
chống ngạt thở, chống chảy máu, chống choáng, chống nhiễm trùng.
Đây là những cấp cứu sơ cứu ban đầu không đổi cho mọi CTHM nặng, có
hay không có kèm theo ĐCT. Các nhân viên y tế tham gia vào tiếp nhận sơ cứu các
bệnh nhân chấn thương cần được trang bị các kiến thức tối thiểu này để đưa bệnh
nhân về tình trạng ổn định hơn trước khi bắt tay vào chẩn đoán điều trị thực thụ các
tổn thương hàm mặt và phối hợp.
2.2.1. Nguyên nhân gây ngạt thở và phương pháp xử trí:
*/ Tụt lưỡi ra sau: gốc lưỡi che kín ngã ba thanh môn xảy ra trong những
trường hợp gẫy thân hàm dưới hai bên cằm có di lệnh mảnh gẫy ra sau, hoặc gẫy nát
vùng cằm kèm theo vết thương phần mềm sát miệng. Tụt lưỡi ra sau còn xảy ra trong
những trường hợp bệnh nhân có hôn mê do chấn thương sọ não.
Xử trí: Trước hết phải nhanh chóng dùng kẹp lưỡi ra phía trước để khai thông
đường thở, kết hợp với nâng và đưa góc hàm dưới ra trước đồng thời hút đờm dãi,
máu ứ đọng trong miệng. Nếu không có máy hút thì phải dùng bông gạc hoặc khăn
lau sạch dịch trong khoang miệng.
Sau khi kéo lưỡi khai thông đường thở, phải cố định lưỡi ở vị trí đã kéo ra,
không cho lưỡi tụt trở lại. Các biện pháp cố định lưỡi gồm: Khâu ngang qua hai rìa
lưỡi bằng chỉ số 1 – 2 và kéo 2 đầu chỉ ra cố định vào cằm cổ bằng băng dính hoặc
buộc vào vòng dây băng quanh cổ. Cũng có thể cố định lưỡi bằng kim băng tự tạo có
chiều dài vượt chiều ngang hai mép , kéo kim băng ra để ngáng qua hai bên mép
hoặc dùng dây kéo cố định lưỡi ra cổ.
Trong điều kiện cho phép, ta có thể đặt vào miệng người bệnh ống thông khí
kiểu Mayo hoặc đặt ống nội khí quản qua miệng hoặc qua mũi để đảm bảo thông khí
thường xuyên và có thể chèn gạch quanh ống và trong miệng để cầm máu. Sau khi
đã cấp cứu đảm bảo khí tốt mới tiến hành xử trí thương tổn phần mềm hoặc cố định
tạm thời các mảnh xương gãy để chuẩn bị cho xử trí cơ bản chuyên khoa.
*/ Do tắc đường hô hấp trên bởi nước bọt lẫn cục máu đông hoặc do các dị vật
như mảnh răng vỡ, thân răng, mảnh xương vụn, mảnh tổ chức phần mềm…Sự ùn tắc
này càng trở nên nguy hiểm khi bệnh nhân có chấn thương sọ não kết hợp đang ở

tình trạng hôn mê.
Xử trí: Nhanh chóng mở miệng , kéo lưỡi hút dịch, lau và lấy cục máu đông,
lấy dị vật để đảm bảo thông khí khẩn cấp. Trong trường hợp hút dịch lấy dị vật

6


không đạt kết quả, nhất là trong đương khí đạo có dịch mà bệnh nhân lại đang trong
tình trạng hôn mê cần phải mở khí quản cấp cứu khẩn cấp để vừa thông khí vừa hút
dịch đường khí đạo. ở các bệnh viện có khoa hồi sức cấp cứu, nếu điều kiện cho
phép có thể chủ động đặt nội khí quản thông khí và hút dịch, khi cần thiết có thể chủ
động cho hô hấp có điều khiển (thở máy hay bóp bóng).
Trong trường hợp có gãy nát hố xương, vết thương chảy máu từ mũi xuống
thành họng sau, có nghi ngờ dập vỡ nền sọ, sau khi đã đặt nội khí quản hoặc mở khí
quản để cấp cứu, cần phải chèn gạc chặt ở trong khoang miệng, chèn mạch chặt cho
hai mũi để cầm máu tại chỗ kịp thời.
*/ Ngạt do phù nề gốc lưỡi sàn miệng, tràn khí vùng cổ, chảy máu dưới da
vùng cổ tạo thành ổ máu tụ quanh đường khí đạo. Những nguyên nhân trên gây ngạt
thở từ từ và muộn hơn, có thể xảy ra trên đường chuyển thương.
Xử trí: chủ động cắm kim cho thoát khí, rạch da lấy ổ máu tụ và cầm máu tại
chỗ. Chủ động đặt ống nội khí quản hoặc mở khí quản để dự phòng ngạt trên đường
vận chuyển bệnh nhân về tuyến sau.
2.2.2. Cấp cứu chảy máu
*/ Chảy máu cấp tính trong chấn thương vùng hàm mặt có thể xảy trong
những trường hợp sau:
+ Có vết thương phần mềm gây đứt rách các mạch máu lớn ở vùng dưới hàm,
sàn miệng, vùng cổ.
+ Do vỡ nát xương hàm dưới gây chảy máu từ trong xương qua vết rách niêm
mạc vào khoang miệng hoặc tạo thành ổ máu tụ lớn ở vùng dưới lưỡi, sàn miệng.
+ Do gẫy xương tầng giữa mặt kết hợp vỡ dập nền sọ trước và nền sọ giữa gây

chảy máu vào xoang hàm, chảy máu từ xương bướm, xương đá xuống thành họng
sau hoặc chảy máu qua tai ngoài.
*/ Xử trí:
+ Đối với những trường hợp chảy máu do vết thương phần mềm đơn thuần:
tuỳ theo mức độ chảy máu, có thể tiến hành từ đơn giản là kẹp mạch khâu cầm máu,
chèn gạc băng ép. Khi tổn thương các mạch máu lớn ở vùng sâu khó cầm máu, cần
khẩn trương bộc lộ động mạch cảnh ngoài, tìm và thắt động mạch chọn lọc chi phối
vùng chảy máu. Nếu thắt động mạch chọn lọc khó khăn thì thắt động mạch cảnh
ngoài cùng bên.
+ Nếu chảy máu từ hai đầu xương gãy (dễ xảy ra trong trường hợp gẫy xương
hàm dưới): trước hết phải nắn chỉnh cho các mảnh gãy về đúng vị trí giải phẫu, liên
kết tạm thời một cung răng bất động tránh gây di lệch thứ phát và cầm máu tạm thời.

7


ở các cơ sở chuyên khoa phải phẫu thuật, bộc lộ kiểm tra lấy máu tụ, cầm máu đầu
xương gãy và phần mềm xung quanh, đồng thời chỉnh khớp kết hợp xương bằng
phương tiện như dây thép, nẹp vít.
+ Với những trường hợp gãy dập nền sọ chảy máu vào họng, cần đặt ống
nội khí quản hoặc mở khí quản, chèn nhét mèche vào mũi – họng – miệng mới có thế
hy vọng cầm máu tạm thời. Sau đó tuỳ theo vị trí tổn thương mà quyết định thắt
động mạch cảnh cùng bên để hỗ trợ cho các biện pháp cầm máu tạm thời.
2.2.3. Phòng và chống sốc
*/ Sốc chấn thương ít xảy ra ở bệnh nhân bị chấn thương vùng hàm mặt đơn
thuần. Sốc thường có thể xảy ra khi có tổn thương kết hợp như sau:
- Gãy các xương lớn: xương đùi, xương chậu, xương cẳng chân hai bên.
- Chấn thương sọ não nặng, có hôn mê.
- Chấn thương ngực, tràn dịch, tràn khí màng phổi.
- Vỡ các tạng đặc, chảy máu trong ổ bụng hay chảy máu trong đường tiết

niệu.
*/ Các biện pháp phòng chống sốc:
- Khám kiểm tra kỹ toàn thân trước khi xử trí chấn thương vùng hàm mặt
không bỏ sót thương tổn.
- Trong mọi trường hợp phải đảm bảo thông khí cho người bệnh, đặc biệt
chú trọng phòng chống ngạt cho những bệnh nhân bị chấn thương sọ não kết hợp khi
bệnh nhân bị sốc chấn thương, nếu có rối loạn thông khí càng làm cho sốc nặng thêm
và sẽ trở thành cái vòng luẩn quẩn xấu trong việc cung cấp máu và oxy cho não, cuối
cùng dẫn đến mất não do thiếu máu, thiếu oxy ngày càng nặng.
- Phòng chống chảy máu, kết hợp với truyền dịch, truyền máu (nếu có thể)
để nâng và duy trì huyết áp.
- Dùng các loại thuốc giảm đau, an thần, thuốc cầm máu (nếu cần), chống
phù nề tại chỗ, kháng sinh chống nhiễm trùng, kết hợp điều trị tốt những tổn thương
các cơ quan theo từng chuyên khoa.
3. TÌNH HÌNH CHẨN ĐOÁN, ĐIỀU TRỊ THỰC THỤ CẤP CỨU CTHM
TRÊN ĐCT
3.1. Thăm khám, chẩn đoán bệnh nhân chấn thương hàm mặt.
3.1.1. Chẩn đoán lâm sàng:
Sau khi các yếu tố chức năng sống như hô hấp, tuần hoàn, được yêu tiên xử trí
, kiểm soát các nhân viên y tế có thể tiến hành làm bilan cấp cứu các tổn thương sọ

8


não, ngực bụng chi thể cũng như hàm mặt để có chần đoán đầy đủ chính xác và có
thái độ xử trí tùy theo mức độ nặng nhẹ câp cứu…trong khuôn khổ của chuyên đề
này chúng tôI xin phép chỉ trình bày chi tiết về tình hình chẩn đoán, điều trị thực thụ
cấp cứu CTHM trên ĐCT
Thăm khám lâm sàng nên bắt đầu từ đánh giá các vết thương phần mềm. Các
vết thương này cần được làm sạch và kiểm tra kỹ phát hiện các tổn thương các cấu

trúc quan trọng như dây thần kinh số VII, hoặc ống tuyến mang tai. Cần vén mi mắt
lên thăm khám mắt đánh tổn thương nhẵn cầu và phản xạ đồng tử. Đánh giá sự cân
đối của mặt, màu sắc, mức độ phù nề, biến dạng, là các dấu hiệu chỉ điểm của gãy
xương hay đụng dập phần mềm. Sờ dọc theo các bờ xương , bắt đầu từ bờ trên ổ mắt,
xuống bờ ngoài , bờ dưới ổ mắt, phần nhô của gò má, cung tiếp, và xương chính mũi.
Bất kỳ một sự không liên tục, bậc thang đều là những gợi ý gãy xương . Cũng cần
thăm khám cảm giác của các vùng chi phối của dây V, hay bị trong gãy xương hàm
mặt . Khám trong miệng để đánh giá phát hiện gãy răng, các vết thương , sự thay đổi
của khớp cắn. Cần ghi rõ số răng mất trong chấn thương đề phòng nuốt hoặc hit vào
phổi.
Vùng cổ cũng cần được thăm khám cẩn thận phát hiện chấn thương . tràn khí
dưới da nhiều có thể nhìn thấy khi chấn thương nặng, nếu ít thì chỉ phát hiện được
khi sờ nắn. Có khí dưới da là có thể là dấu hiệu của vỡ khí quản. Bất kỳ sự tụ máu ,
phù nề lan rộng nào cũng cần được theo dõi chàn ép đường thở. Kiểm tra mạch cảnh
đập hay không?. Cần sờ nắn phát hiện sự bất thường của sụn giáp, khí quản vùng
hõm ức.
Đối với các CTHM nặng, mặt thường biến dạng sưng to phù nề tụ máu, bệnh
nhân có khi hôn mê do tổn thương phối hợp ĐCT, CTSN không hợp tác như vậy rất
cần có sự trợ giúp của chẩn đoán hình ảnh.
3.1.2. Chẩn đoán hình ảnh: CĐHA:
Thế chụp thẳng mặt: cho phép nhìn toàn cảnh xương hàm dưới, có thể thấy
gãy xương vùng cằm, gãy góc hàm, gãy cổ lồi cầu thấp, giúp xác định tổn thương
trong gẫy le Fort II, gẫy vỡ di lệch xương gò má.
- Thế chụp chếch hàm hai bên (P – T): cho phép xác định tổn thương từng nửa
hàm (trừ vùng cằm) và so sánh bên tổn thương với bên lành.
- Thể Schuller: cho phép kiểm tra gãy lồi cầu cao (trong khớp) và tình trạng
tràn dịch khớp sau chấn thương.
- Chụp film toàn cảnh hàm dưới (panoramma): cho phép đánh giá toàn bộ hàm
dưới từ tổn thương xương đối với mối tương quan giữa các đầu xương gãy đến tình


9


trạng cung răng. Trên cơ sở nhận định tổn thương trên film toàn cảnh cho phép xây
dựng kế hoạch xử trí điều trị chính xác hơn.
- Thế Blondeau: Xác định được tổn thương xương quanh ổ mắt, thành trước
xoang hàm và bờ sau dưới xương hàm trên.
- Thế Hirtz: Chủ yếu nhìn thấy các đường gẫy xương gò má, cung tiếp và so
sánh độ cao thấp của xương gò hai bên. có thể còn thấy những đường gẫy ngang
hoặc dọc xương khẩu cái.
- Thế chụp toàn cảnh hai hàm: cho thấy mối tương quan giữa hai cung răng, sự
di lệch sệ thấp của xương hàm trên, bờ dưới ổ mắt và xoang hàm.
- Thế chụp nghiêng sống mũi: thấy xương mũi gẫy sập đường yên ngựa, các
mảnh xương mũi di lệch.
Các loại tư thế chụp XQ đơn giản, rẻ tiền nhưng không phải lúc nào cũng cho
phép phát hiện được tất cả các tổn thương và nhiều khi trên bệnh nhân ĐCT không
thể cho phép kê đặt tư thế như mong muốn.
Việc sử dụng CT Scanner đã giúp ích chẩn đoán chính xác vị trí gãy xương
hàm dưới, hàm trên, xương gò má, cung tiếp… Ngoài ra, còn thấy tình trạng gẫy vỡ
xương đá, xương bướm, bờ ổ mắt và thành xoang mũi.
3.1.3. Phân loại đánh giá mức độ nặng của chấn thương hàm mặt đơn thuần
hoặc trong bệnh cảnh ĐCT.
Hiện nay, trong chấn thương nói chung và hàm mặt nói riêng xu hướng trên
thế giới đã và đang xây dựng thang điểm chấn thương. Qua đó để có được tiếng nói
chung đồng nhất trong từng chuyên ngành, cũng như là công cụ để quyết định thái độ
xử trí tiên lượng mức độ bệnh tật, biến chứng, tử vong của từng loại chấn thương.
Thang điểm đầu tiên được áp dụng là AIS (Abbreviated Injury scale) năm
1971 do hiệp hội Y học an toàn giao thông Hoa kỳ (American Association
Automotive Medecine) đề nghị, nó là tổng các giá trị của từ 1 - 9 cơ quan hoặc bộ
phận bị tổn thương. Đây là cơ sở căn bản cho mọi sửa đổi bổ xung sau này. Hiện nay

sau một số lần chỉnh sửa AIS lưu hành phổ biến trên thế giới là phiên bản 1990
(Revision AIS-90). Thang điểm này rất tốt trong việc cho biết mức độ nặng của chấn
thương . Nhưng khi áp dụng cho các cơ quan vận động AIS-90 nó không cho phép
đánh giá mức độ mất chức năng của cơ quan bị tổn thương. Điều này là lý do tại sao
trong chấn thương bàn tay, người ta đã phải đưa ra thang điểm riêng HISS (Hand
Injury Severity Score). [20, 41, 62]
Hàm mặt nếu nhìn rộng cũng được coi như cơ quan vận động vẫn tổn thương
gây nguy hiểm tính mạng mà còn ảnh hưởng lâu dài đến chức năng của bệnh nhân.

10


Gần đây các tác giả trên thế giới đã đưa ra thang điểm MFISS (MaxilloFacial
Injury Severity Score) vừa đánh giá được độ nặng vừa tiên lượng được chức năng.
MFISS = (A1+A2+A3) x (MO + LMO + FD)
A1 A2 A3 là 3 điểm cao nhất AIS cho chấn thương Hàm mặt của bệnh nhân.
Còn MO. LMO. FD là 3 chỉ số của thang điểm chức năng hàm mặt MO:
MalOcclusion, LMO: Limited Mouth Opening, FD: Facial Deformity.
AIS -90 cho CTHM
Thang điểm chức năng Hàm mặt
1đ: VT, lóc da < 25cm2 da niêm mạc, TT LMO: 1đ: mở miệng 2 - 3,7cm
nhánh đm cảnh ngoài, gãy răng…
2đ: mở miệng < 2cm
2đ: VT > 10cm, lóc da > 25cm2
MO
1đ: Lệch khớp cắn < 6R/1hàm
Lefort I, II
2đ: Lệch khớp cắn > 6R/1hàm
TK VII…
3đ: Lệch khớp cắn 2 hàm

3đ: Lefort III mất <20% máu.
FD:
1đ: VT < 4cm không mặt T/c
Vỡ xương ổ mắt.
Gãy xương không di lệch
2đ: VT > 4cm, mất da< 2cm2
4đ: Gãy XHT mất ≥ 20% máu
tổn thương nhánh TK VII
3đ: VT > 4cm, mất da > 2cm2
tổn thương thần kinh VII,
gãy xương mất đoạn.
3.2. Điều trị thực thụ CTHM trên ĐCT
3.2.1. Các quan điểm cũ và mới trong thái độ xử trí CTHM trên ĐCT
Về thời điểm và mức độ của phẫu thuật xử lý, theo kinh điển trên một bệnh
nhân ĐCT các CTHM sẽ được phẫu thuật theo nhiều thì.[5, 8, 17, 21, 26]
- Thì 1: Ưu tiên xử trí các cấp cứu sọ não, xương, ngực bụng. Còn CTHM, nếu
có vết thương rộng hàm mặt thì cắt lọc làm sạch, khâu thắt cầm máu,khâu da định
hướng. Các ổ xương gãy cố định tạm thời bẵng băng bất động hoặc buộc chỉ thép cố
định tạm thời các răng 2 bên ổ gãy.
- Thì 2 thưòng 7-10 ngày sau: khi tình trạng toàn thân thật sự ổn định, mổ hàm
mặt xử trí kết hợp xương bằng chỉ thép hoặc nẹp vis, xử trí các thương tổn thần kinh
VII, ống tuyến nước bọt nếu thấy.
- Thì 3: ghép xương nếu cần và sửa chữu các di chứng , biến chứng do thì đầu
không phát hiện được hoặc không có điều kiện xử lý. tạo hình thẩm mỹ.
Ngoài việc bệnh nhân phải nằm viện chờ đợi, đau đớn, mổ nhiều lần thì việc
mổ xẻ thì 2, 3 thường gặp nhiều khó khăn nguy hiểm. Ví dụ: kết hợp xương thì 2 sẽ
khó khăn hơn nhiều do ổ gãy bắt đầu có cal sơ, mất đoạn xương do bỏ đi ở thì đầu.

11



Vết thương đm mạch lớn không được phát hiện dẫn đến phình mạch…khi vỡ gây
chảy máu chết người. Thần kinh VII không phục hồi ngay sau đó sẽ phải ghép đoạn,
kết quả hồi phục kém. Vết thương ống Stenon nếu không được phát hiện, sẽ gây dò
nước bọt… Hậu quả là tỉ lệ biến chứng và di chứng cao, bệnh nhân phải chịu mổ
nhiều lần, tốn kém cho bản thân, gia đình và toàn xã hội. [34, 48]
Từ khoảng 20 năm trở lại đây, nhờ vào sự phát triển gây mê hồi sức ngoại
khoa, chẩn đoán hình ảnh, ứng dụng nẹp vis cứng vào kết hợp xương bên trong, các
hiểu biết về diễn biến bệnh lý sau chấn thương, sự phát triển, phối hợp đồng bộ của
các chuyên khoa nên chiến lược điều trị các CTHM nói riêng và ĐCT nói chung đã
có nhiều thay đổi.
Có rất nhiều tác giả áp dụng xu thế xử lý chấn thương : “ sớm , tất cả” early
total care vd: hồi sức tích cực, đưa ngay bệnh nhân vào phòng mổ từ phòng khám
cấp cứu tiến hành xử lý toàn bộ triệt để các tổn thương trong khi đó một số tác giả
vẫn tiếp tục khuynh hướng xử lý: “ khống chế các tổn thương”” damage control : hồi
sức bệnh nhân, bình ổn huyết động,( tai nhà mổ nếu cần) sau đó chuyển vào đơn vị
hồi sức tích cực càng nhanh càng tốt, với quan điểm xử lý thương tổn triệt để khi
điều kiện toàn thân ổn định hơn.
Trong y văn riêng về chấn thương hàm mặt người ta đã chuyển hướng đến xu
thế “ sớm và triệt để thường là trong vòng một vài ngày và một số trường hợp ngay
trong một vài giờ đầu để có kết quả tốt hơn nhiều về mặt chức năng, thẩm mỹ so với
việc chờ đợi một vài tuần trước khi sửa chữa các tổn thương sọ mặt. Chắc chắn là
các trường hợp vết thương hở, nhiễm khuẩn, chảy máu dai dẳng, cần được can thiệp
cấp cứu trong những giờ đầu. Và rất nhiều tác giả cho rằng các gãy xương hàm mặt
phức tạp, cần được bộc lộ rộng rãi, nắn chỉnh chính xác các về giải phẫu, nếu cần có
thể ghép xương ngay thì đầu để đạt được kết quả tối ưu về chức năng và thẩm mỹ. ( a
one stop shop ). [21, 23, 29, 38, 43, 44, 47]
Ngoài ra nó còn tránh được việc để các bệnh nhân phải chờ đợi một vài tuần
trước khi phẫu thuật khi các biến chứng hô hấp, nhiễm khuẩn…sẽ làm cho bệnh nhân
trở nên quá yếu cho một ca mổ dài dẫn đến chúng ta đã bỏ mất cơ hội điều trị bệnh

nhân một cách tối đa. theo thông kê có tới 1/3 số bệnh nhân có chấn thương ngực có
biến chứng hô hấp trong quá trình nằm viện, đây chính là nhóm rất khó khăn khi
phẫu thuật. Những nguy cơ này tăng rất cao trên người già, hoặc khi có từ bốn xương
sường gãy trở lên.
Quan điểm mới về điều trị CTHM đã được sự ủng hộ chấp thuận của nhiều
PTV đó là : Sớm, một thì, điều trị triệt để tổn thương hàm mặt + phối hợp chặt chẽ

12


với các CK khác để xử lý các thương tổn phối hợp. (Early single stage and definitive
treatement).
3.2.2. Tình hình điều trị CTHM nặng, phối hợp ĐCT ở Việt Nam
Với các CTHM nặng hoặc các vết thương phức hợp có thể do điều kiện
phương tiện máy móc gây mê hồi sức chưa đầy đủ, sự phối hợp chuyên khoa chưa
tốt nên phương pháp điều trị còn chưa rõ ràng. nhiều nơi vẫn còn áp dụng theo giải
pháp tình huống.
Đối với các chấn thương hàm mặt nặng phối hợp ĐCT, ưu tiên xử lý sọ,
bụng, chi thể trước sau đó khi ổn định mới điều trị hàm mặt. Trong khi đó nhiều khi
các tổn thương hàm mặt cũng là các tổn thương có thể gây biến chứng đe doạ đến
tính mạng như mất máu, ngạt thở. Ví dụ ở bệnh nhân CTSN hôn mê, chảy máu từ
CTHM bệnh nhân hít vào phổi gây suy hô hấp phù não  mê sâu thêm  suy hô
hấp tạo vòng xoắn bệnh lý. Xử lý sớm CTHM sẽ tạo điều kiện tốt cho hồi sức
bệnh nhân.
Tuy nhiên tại một số bệnh viện đa khoa lớn nơi có đầy đủ các chuyên khoa
ngoại, gây mê hồi sức, hoạt động phối hợp chặt chẽ với các trang thiết bị máy móc
chẩn đoán hình ảnh, gây mê, thiết bị mổ xẻ… đã và đang tiến hành xử lý các CTHM
nặng trên bệnh nhân ĐCT theo quan niệm mới sớm, triệt để, một thì toàn bộ các tổn
thương. Có điều qua tìm hiểu y văn hiện chúng tôi chưa tìm thấy một tài liệu nào báo
cáo về đề tài này.

Như vậy ở Việt Nam mặc dù các CTHM nặng trên bệnh nhân ĐCT ngày càng
tăng nhưng việc xử lý loại tổn thương này vẫn chưa được thống kê một cách có hệ
thống , xử trí một cách đầy đủ. Trong khi đó tai nạn giao thông, bạo lực ngày càng
nhiều do đó rất cần có một nghiên cứu đánh giá tình hình, phân loại mức độ, xây
dựng kế hoạch quy trình sơ cứu, chẩn đoán, điều trị cho loại thương tổn nặng nề này.
4. QUY TRÌNH PHỐI HỢP PHẪU THUẬT TRÊN BN ĐCT
Trong quy trình cấp cứu bệnh nhân ĐCT các yếu tố chức năng sống sẽ được
yêu tiên xử trí khẩn cấp ngay lập tức như hô hấp tuần hoàn, sau khi kiểm soát được
các yếu tố này sẽ tiến hành làm bilan cấp cứu các tổn thương và xử trí phẫu thuật tùy
theo mức độ nặng nhẹ cấp cứu …
Các tổn thương tùy mức độ trầm trọng sẽ được sắp sếp thứ tự can thiệp, sau
đây là một số gợi ý về thứ tự ưu tiên
Ưu tiên 1 : Vết thương tim, các mạch máu lớn. Các tổn thương chèn ép đường thở do
các tổn thương cổ mặt, khí phế quản nặng, , mở khí quản

13


Ưu tiên 2: Máu tụ ngoài màng cứng CTSN. Vỡ tạng đặc trong CTBK. Tổn thương
một số tạng ngực, thành ngực. Gãy xương hở, vết thương có tổn thương các mạch
máu lớn.Vết thương nhãn cầu
Ưu tiên 3: Gãy không vững cột sống.Thương tổn mặt không chảy máu nhiều. Gãy
kín xương chi
Xem xét các mục tiêu ưu tiên trên, ta thấy các CTHM nặng như gẫy xương hở,
có vết thương rộng, chảy máu nhiều, gãy xương phức tạp di lệch nhiều có nguy cơ
chèn ép suy hô hấp là một trong những ưu tiên hàng đầu. Chỉ có các CTHM ít di
lệch, ít chảy máu thuộc nhóm ưu tiên thứ 3.
Về quan điểm thực hành của Hội phẫu thuật hàm mặt quốc tế, chấn thương
hàm mặt sẽ được sắp sếp theo một trong bốn nhóm dựa vào mức độ yêu cầu can
thiệp cấp cứu:

1. Điều trị ngay lập tức: những can thiệp hồi sức cấp cứu ( chức năng sinh
tồn : suy hô hấp, mất máu ) như mở khí quản, kiểm soát đường truyền…mặc dù
không nhất thiết là các can thiệp vĩnh viễn
2. Điều trị trong những giờ đầu: những can thiệp trong những điều tình trạng
cấp cứu: ví dụ: vết thương bẩn, nhiễm khuẩn, gãy xương hở, gãy xương có nguy cơ
suy hô hấp.
3. Điều trị có thể đợi 24h nếu cần thiết: gãy xương hay vết thương sạch
4. Điều trị sau 24h nếu cần thiết: một vài dạng gãy xương
Tuy nhiên rất khó quy định trước một lược đồ về chỉ định mổ, vì mỗi bệnh
nhân ĐCT có những tổn thương khác nhau và phản ứng khác nhau trước sang chấn.
Từ khoảng 20 năm trở lại đây một quan điểm mà rất nhiều các phẫu thuật viên cùng
nhất trí : nếu có điều kiện về kỹ thuật, về gây mê hồi sức và phương tiện dụng cụ, cố
gắng mổ một thì các tổn thương trên một bệnh nhân ĐCT. Do đó cần có kế hoạch
can thiệp phẫu thuật, có một phẫu thuật viên có kinh nghiệm chỉ huy kíp mổ. Thường
tiến hành nhiều kíp mổ song song với sự hợp tác chặt chẽ với các Bs Gây mê hồi sức.
[14, 15, 48, 55]

KẾT LUẬN
Chấn thương vùng đầu - mặt là một cấp cứu hay gặp trong cuộc sống hàng
ngày. Cùng với sự phát triển của giao thông, xây dựng, công nghiệp hóa, tỷ lệ các
bệnh nhân CTHM nói riêng cũng như đa ĐCT, phối hợp CTSN, CTBK, CTN, gãy

14


nhiều chi... ngày càng tăng . Trong đó các vết thương hàm mặt hở phức tạp, gãy
xương hàm trên xương hàm dưới di lệch nhiều hay gãy phức hợp cả hai xương là các
chấn thương hàm mặt nặng nó đòi hỏi phải được cấp cứu điều trị nhanh chóng kịp
thời khẩn trương không kém gì các tổn thương khác của ĐCT.
Việc điều trị các CTHM nặng nói riêng và ĐCT nói chung đã thay đổi căn bản

từ 20 năm trở lại đây. cùng với sự phát triển của y học. Các trang thiết bị hiện đại
Máy CT scaner, MRI… cho phép chẩn đoán nhanh chóng chính xác vị trí, số lượng
thương tổn của các cơ quan.[28, 56] Sự phát triển của gây mê hồi sức cho phép tiến
hành các ca mổ nặng kéo dài, nhiều loại kháng sinh tốt làm giảm nhiễm trùng, nhiều
loại phương tiện kết hợp xương bên trong ra đời. Chính nhờ nhưng tiến bộ đó cộng
với sự phối hợp tốt của các chuyên khoa ngoại, ngay từ đầu cùng với các chấn
thương sọ não, ngực, bụng, chi thể, các CTHM có thể được xử lý phẫu thuật sớm
triệt để: khâu tạo hình sớm, kết hợp sớm các ổ gãy xương.
Tuy nhiên do tính phức tạp nặng nề của bệnh nhân ĐCT nhất là ĐCT có
CTHM nặng đôi khi các phẫu thuật viên hàm mặt phải cân nhắc xem xét giữa yêu
cầu toàn thân của bệnh nhân cần nâng cao khả năng sống sót, phòng ngừa những
biến chứng thứ phát và yêu cầu có được kết quả tốt nhất vùng sọ mặt cả về chức
năng và thẩm mỹ. Do đó tại các nước tiên tiến xu hướng các phẫu thuật viên hàm
mặt cũng phải tham gia vào thành phần đội cấp cứu chấn thương, tham gia vào xử trí
các vấn đề: về đường thở, mất máu giảm, sốc giảm thể tích do chảy máu từ hàm mặt,
đánh giá phát hiện sớm tổn thương mắt, thần kinh VII…. Tại các trung tâm chấn
thương nếu có điều kiện về con người, trang thiết bị kỹ thuật CĐHA, Gây mê hồi sức
và phương tiện dụng cụ, cố gắng mổ : sớm một thì triệt để các tổn thương trên
một bệnh nhân ĐCT trong đó có cả CTHM. Với sự hiểu biết nhiều hơn của cơ chế
chấn thương, sự phối hợp của nhiều chuyên khoa, sự tiến bộ về mặt kỹ thuật rất
nhiều vấn đề liên quan ngày nay có thể tiên lượng trước và can thiệp vào thời điểm
thích hợp, cho phép đạt hiệu quả điều trị cao nhất.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.

1Ấn, L.n., Chấn thương vựng đầu mặt cổ do hỏa khớ ở miền nam Việt nam.
Kỷ yếu cụng trỡnh nghiờn cứu khoa học 1975-1993, Viện RHM thành phố Hồ
Chớ Minh, 1994: p. 144-151.
1Ấn, L.N., Chấn thương hàm mặt do nguyờn nhõn thụng thường. Kỷ yếu
cụng trỡnh nghiờn cứu khoa học 1975-1993, Viện RHM thành phố Hồ Chớ
Minh, 1994: p. 128-131.
1Bớnh Trần Cao, T.V.T., Nhận xột đặc điểm lõm sàng và đỏnh giỏ kết quả
điều trị 108 bệnh nhõn góy xương hàm trờn tại viện Răng Hàm Mặt Hà nội. Y
học Việt nam, 2001. 10: p. 43-66.
1Đức, N.Q., Nghiờn cứu hỡnh thỏi lõm sàng góy xương hàm trờn và kết quả
điều trị của phương phỏp khõu kết hợp xương. Luận ỏn tiến sỹ Y học - Đại
học Y khoa Hà nội, 2005.
1Dũng Trương Mạnh, T.V.T., Nhận xột kết quả điều trị góy xương hàm mặt
tại Viện Răng Hàm Mặt Hà nội từ 1988-1998. Y học Việt nam, 1999.
1Dũng Trương Mạnh, T.V.T., Nhận xột lõm sàng và điều trị 157 bệnh nhõn
góy xương gũ mỏ cung tiếp. Y học Việt nam, 1999. 10,11: p. 131-140.

1Hải Nguyễn Quang, N.T., Tỡnh hỡnh chấn thương hàm mặt điều trị tại khoa
Răng Hàm Mặt Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Huế ( từ 11/2003 11/2005). 2006.
1Hồng, N.D., Chấn thương vựng hàm mặt. Răng Hàm Mặt tập II - NXB Y
học, 1970: p. 239-284.
1Hựng, N.B., Chấn thương hàm mặt. Phẫu thuật tạo hỡnh, Nhà xuất bản Y
học, 2005: p. 154-169.
1Long, N.V., Nhận xột hỡnh ảnh lõm sàng phương phỏp điều trị chấn thương
phần mềm vựng hàm mặt. Luận văn Thạc sỹ Y học - Đại học Y khoa Hà nội,
2000.
1Mỹ Trịnh Hồng, N.B.H., Tỡnh hỡnh chấn thương hàm mặt do tai nạn giao
thụng được điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt bệnh viện Bạch Mai trong hai
năm 2002-2003. Tạp chớ Y học Việt Nam, 2004: p. 47-55.
1Ngõn, N.D., Gúp phần nhận xột, điều trị chấn thương phần mềm hàm mặt
qua 590 trường hợp tại khoa RHM bệnh viện Bạch Mai. Luận văn tốt nghiệp
bỏc sỹ chuyờn khoa cấp II - Trường Đại học Y khoa Hà nội, 1994.
1Phương, L.H., Di chứng chấn thương khối mặt. Kỷ yếu cụng trỡnh nghiờn
cứu khoa học 1975-1993, Viện RHM thành phố Hồ Chớ Minh, 1994: p. 167173.
1Quyết, H.V., Sốc chấn thương. Bệnh học ngoại - Bộ mụn Ngoại - Trường
Đại học Y Hà nội - NXB Y học, 2003: p. 235-242.
1Quyết, H.V., Đa chấn thương. Bệnh học ngoại - Bộ mụn Ngoại - Trường Đại
học Y Hà nội - NXB Y học, 2003: p. 223-234.
1Suất, N.C., Nhận xột đặc điểm lõm sàng và kết quả điều trị góy phức hợp
xương hàm dưới và xương hàm trờn tại bệnh viện Việt nam - Cu ba Hà nội
(2006-2008). Luận văn tốt nghiệp bỏc sỹ chuyờn khoa cấp II - Trường Đại
học Y khoa Hà nội, 2008.

16


17.


18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.

1Trường Trần Văn, T.M.D., Tỡnh hỡnh chấn thương hàm mặt tại viện Răng
Hàm Mặt Hà nội trong 11 năm (từ 1988-1998) trờn 2149 trường hợp. Y học
Việt Nam - Chuyờn đề Răng Hàm Mặt - Tổng Hội Y học Việt Nam, 1999.
10,11: p. 71-80.
Al-Khateeb, T. and F.M. Abdullah, Craniomaxillofacial injuries in the United
Arab Emirates: a retrospective study. J Oral Maxillofac Surg, 2007. 65(6): p.
1094-101.
Alvi, A., T. Doherty, and G. Lewen, Facial fractures and concomitant injuries
in trauma patients. Laryngoscope, 2003. 113(1): p. 102-6.
Bagheri, S.C., et al., Application of a facial injury severity scale in
craniomaxillofacial trauma. J Oral Maxillofac Surg, 2006. 64(3): p. 408-14.

Baig, M.A., Current trends in the management of maxillofacial trauma. Ann R
Australas Coll Dent Surg, 2002. 16: p. 123-7.
Becelli, R., et al., Craniofacial traumas: immediate and delayed treatment. J
Craniofac Surg, 2000. 11(3): p. 265-9.
Benzil, D.L., et al., Early single-stage repair of complex craniofacial trauma.
Neurosurgery, 1992. 30(2): p. 166-71; discussion 171-2.
Brasileiro, B.F. and L.A. Passeri, Epidemiological analysis of maxillofacial
fractures in Brazil: a 5-year prospective study. Oral Surg Oral Med Oral
Pathol Oral Radiol Endod, 2006. 102(1): p. 28-34.
Brignol, L., et al., [Long-term functional and aesthetic sequelae after complex
facial trauma associated with a mild brain injury]. Rev Stomatol Chir
Maxillofac, 2006. 107(4): p. 233-43.
Bussieres, M. and S.A. Tatum, Secondary craniofacial surgery for trauma.
Facial Plast Surg, 2000. 16(2): p. 135-52.
Cogbill, T.H., et al., Management of maxillofacial injuries with severe
oronasal hemorrhage: a multicenter perspective. J Trauma, 2008. 65(5): p.
994-9.
Czerwinski, M., W.L. Parker, and H.B. Williams, Algorithm for head
computed tomography imaging in patients with mandible fractures. J Oral
Maxillofac Surg, 2008. 66(10): p. 2093-7.
Denny, A.D., M.W. Rosenberg, and D.L. Larson, Immediate reconstruction of
complex cranioorbital fractures in children. J Craniofac Surg, 1993. 4(1): p. 820.
Fischer, K., et al., Injuries associated with mandible fractures sustained in
motor vehicle collisions. Plast Reconstr Surg, 2001. 108(2): p. 328-31.
Gassner, R., et al., Craniomaxillofacial trauma in children: a review of 3,385
cases with 6,060 injuries in 10 years. J Oral Maxillofac Surg, 2004. 62(4): p.
399-407.
Gassner, R., et al., Cranio-maxillofacial trauma: a 10 year review of 9,543
cases with 21,067 injuries. J Craniomaxillofac Surg, 2003. 31(1): p. 51-61.
Goodisson, D., et al., Head injury and associated maxillofacial injuries. N Z

Med J, 2004. 117(1201): p. U1045.
Gruss, J.S., et al., Lessons learnt from the management of 1500 complex
facial fractures. Ann Acad Med Singapore, 1999. 28(5): p. 677-86.

17


35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.

49.
50.

51.

He, D., Y. Zhang, and E. Ellis, 3rd, Panfacial fractures: analysis of 33 cases
treated late. J Oral Maxillofac Surg, 2007. 65(12): p. 2459-65.
Holmes, S., Facial trauma--who should provide care? Br J Oral Maxillofac

Surg, 2009. 47(3): p. 179-81.
Holmgren, E.P., et al., Utilization of tracheostomy in craniomaxillofacial
trauma at a level-1 trauma center. J Oral Maxillofac Surg, 2007. 65(10): p.
2005-10.
Jack, J.M., et al., Modern surgical treatment of complex facial fractures: a 6year review. J Craniofac Surg, 2005. 16(4): p. 726-31.
Larsen, P., Maxillofacial trauma. Principles of Oral and Maxillofacial
surgery.BC Decker Inc, 2004: p. 327-562.
Lebeau, J., et al., [Facial injuries treated in the Grenoble University Hospital.
Epidemiological analysis of 961 patients managed in one year]. Rev Stomatol
Chir Maxillofac, 2006. 107(1): p. 23-9.
Lee, R.H., et al., The MCFONTZL classification system for soft-tissue
injuries to the face. Plast Reconstr Surg, 1999. 103(4): p. 1150-7.
Lopez, M.A. and J.L. Arnholt, Safety of definitive in-theater repair of facial
fractures. Arch Facial Plast Surg, 2007. 9(6): p. 400-5.
Luhr, H.G., [The development of modern osteosynthesis]. Mund Kiefer
Gesichtschir, 2000. 4 Suppl 1: p. S84-90.
Marciani, R.D. and A.A. Gonty, Principles of management of complex
craniofacial trauma. J Oral Maxillofac Surg, 1993. 51(5): p. 535-42.
Martini, M.Z., et al., Epidemiology of mandibular fractures treated in a
Brazilian level I trauma public hospital in the city of Sao Paulo, Brazil. Braz
Dent J, 2006. 17(3): p. 243-8.
Meningaud, J.P., J.C. Bertrand, and D. Batista, [Maxillofacial trauma by
defenestration: 64 cases]. Rev Stomatol Chir Maxillofac, 2003. 104(5): p.
260-4.
Motamedi, M.H. and H. Behnia, Experience with regional flaps in the
comprehensive treatment of maxillofacial soft-tissue injuries in war victims. J
Craniomaxillofac Surg, 1999. 27(4): p. 256-65.
Nicholoff, T.J., Jr., C.B. Del Castillo, and M.X. Velmonte, Reconstructive
surgery for complex midface trauma using titanium miniplates: Le Fort I
fracture of the maxilla, zygomatico-maxillary complex fracture and

nasomaxillary complex fracture, resulting from a motor vehicle accident. J
Philipp Dent Assoc, 1998. 50(3): p. 5-13.
Oginni, F.O., et al., Motorcycle-related maxillofacial injuries among Nigerian
intracity road users. J Oral Maxillofac Surg, 2006. 64(1): p. 56-62.
Perry, M., Advanced Trauma Life Support (ATLS) and facial trauma: can one
size fit all? Part 1: dilemmas in the management of the multiply injured
patient with coexisting facial injuries. Int J Oral Maxillofac Surg, 2008. 37(3):
p. 209-14.
Perry, M., et al., Emergency care in facial trauma--a maxillofacial and
ophthalmic perspective. Injury, 2005. 36(8): p. 875-96.

18


52.
53.

54.

55.
56.
57.
58.
59.
60.
61.
62.

Perry, M. and C. Morris, Advanced trauma life support (ATLS) and facial
trauma: can one size fit all? Part 2: ATLS, maxillofacial injuries and airway

management dilemmas. Int J Oral Maxillofac Surg, 2008. 37(4): p. 309-20.
Perry, M. and T. Moutray, Advanced Trauma Life Support (ATLS) and facial
trauma: can one size fit all? Part 4: 'can the patient see?' Timely diagnosis,
dilemmas and pitfalls in the multiply injured, poorly responsive/unresponsive
patient. Int J Oral Maxillofac Surg, 2008. 37(6): p. 505-14.
Perry, M., J. O'Hare, and G. Porter, Advanced Trauma Life Support (ATLS)
and facial trauma: can one size fit all? Part 3: Hypovolaemia and facial
injuries in the multiply injured patient. Int J Oral Maxillofac Surg, 2008.
37(5): p. 405-14.
Powers, M., Initial Management of the Trauma patient. Peterson's Principles
of Oral and Maxillofacial surgery.BC Decker Inc, 2004: p. 327-356.
Saigal, K., et al., Use of three-dimensional computerized tomography
reconstruction in complex facial trauma. Facial Plast Surg, 2005. 21(3): p.
214-20.
Shibuya, T.Y., et al., Facial fracture repair in the traumatic brain injury
patient. J Oral Maxillofac Surg, 2007. 65(9): p. 1693-9.
Weider, L., et al., Early versus delayed repair of facial fractures in the
multiply injured patient. Am Surg, 1999. 65(8): p. 790-3.
Whitaker, L.A., L. Schut, and P. Randall, Craniofacial surgery: present and
future. Ann Surg, 1976. 184(5): p. 558-64.
Yang, W.G., et al., Life-threatening bleeding in a facial fracture. Ann Plast
Surg, 2001. 46(2): p. 159-62.
Zargar, M., et al., Epidemiology study of facial injuries during a 13 month of
trauma registry in Tehran. Indian J Med Sci, 2004. 58(3): p. 109-14.
Zhang, J., et al., Maxillofacial Injury Severity Score: proposal of a new
scoring system. Int J Oral Maxillofac Surg, 2006. 35(2): p. 109-14.

19




×