Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 111 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN TH THY DNG

PHáP LUậT QUốC Tế Và KINH NGHIệM MộT Số NƯớC
Về BảO Hộ QUYềN TáC GIả ĐốI VớI TáC PHẩM ÂM NHạC

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN TH THY DNG

PHáP LUậT QUốC Tế Và KINH NGHIệM MộT Số NƯớC
Về BảO Hộ QUYềN TáC GIả ĐốI VớI TáC PHẩM ÂM NHạC
Chuyờn ngnh: Lut Quc t
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS ON NNG

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

TRẦN THỊ THÙY DƢƠNG


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC VÀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC
GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC ................................................... 4
1.1.

Khái niệm quyền tác giả .............................................................................. 4

1.2.


Khái niệm tác phẩm âm nhạc, tác giả âm nhạc ........................................ 6

1.2.1.

Tác phẩm âm nhạc ......................................................................................... 6

1.2.2.

Tác giả âm nhạc ............................................................................................. 7

1.3.

Khái niệm quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc ......................................................................................................... 8

1.3.1.

Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ...................................... 8

1.3.2.

Những đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ................... 10

1.3.3.

Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ........................ 11

1.4.


Cơ sở pháp lý bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ............ 12

1.5.

Vai trò và xu hƣớng phát triển việc bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm âm nhạc ...................................................................................... 17

1.5.1.

Vai trò của việc bảo hộ bản quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ................ 17

1.5.2.

Xu hướng phát triển việc bảo hộ bản quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc ........................................................................................................ 17

Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 20
Chƣơng 2: CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ
QUỐC GIA ................................................................................................. 21
2.1.

Thực trạng các quy định của các điều ƣớc quốc tế về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ................................................. 21


2.1.1.

Công ước Berne 1886 về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật .................. 21


2.1.2.

Công ước quyền tác giả toàn cầu ................................................................. 26

2.1.3.

Hiệp định TRIPS ......................................................................................... 27

2.1.4.

Hiệp ước WCT ............................................................................................ 29

2.1.5.

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ...................................... 31

2.2.

Kinh nghiệm một số quốc gia trong việc bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc ............................................................................... 32

2.2.1.

Kinh nghiệm của Hàn quốc ......................................................................... 32

2.2.2.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ ............................................................................ 46

Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 59

Chƣơng 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƢỚC ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............. 60
3.1.

Bài học kinh nghiệm từ các nƣớc với pháp luật Việt Nam .................... 60

3.1.1.

Bài học từ Hàn Quốc ................................................................................... 60

3.1.2.

Bài học từ Hoa Kỳ đối với Việt Nam .......................................................... 62

3.2.

Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ............................................................. 70

3.3.

Thực trạng hoạt động thực tiễn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc ở Việt Nam .................................................................................... 75

3.3.1.

Tình hình chung về xâm phạm quyền tác giả âm nhạc Việt Nam hiện nay .... 75

3.3.2.


Về công tác thụ lý hồ sơ đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ...... 78

3.3.3.

Về phát triển nguồn thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của nhân dân ......................... 79

3.3.4.

Về đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng và tổ chức thi
hành pháp luật ............................................................................................... 80

3.3.5.

Về hợp tác quốc tế ....................................................................................... 80

3.3.6.

Một số vụ việc cụ thể về hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc .............................................................................................. 81

3.4.

Một số bất cập hiện nay về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc ....................................................................................................... 87

3.5.

Nguyên nhân tác phẩm âm nhạc bị xâm phạm quyền tác giả ............... 89



3.6.

Giải pháp và kiến nghị về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc....................................................................................................... 92

3.6.1.

Một số giải pháp khắc phục tình trạng xâm phạm quyền tác giả đối với
tác phẩm âm nhạc ........................................................................................ 92

3.6.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả âm
nhạc nói riêng và pháp luật sở hữu trí tuệ nói chung .................................. 94

Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................... 99
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 102


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Từ/cụm từ được viết tắt

CƯ Berne:

Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học,

nghệ thuật

ĐƯQT:

Điều ước quốc tế

Hiệp định TPP:

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương

Hiệp định TRIPS:

Hiệp định TRIPS về những khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ

KMCA:

Hiệp hội Quyền tác giả âm nhạc Hàn Quốc

RIAV:

Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam

SHTT:

Sở hữu trí tuệ

UCC:

Công ước toàn cầu về bản quyền


VCPMC:

Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam

VIETRRO:

Hiệp hội quyền sao chép

VLCC:

Trung tâm quyền tác giả văn học Việt Nam

WCT:

Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả

WIPO:

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

WTO:

Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản quyền tác giả là một khái niệm xuất hiện từ thế kỉ 17 ở nước Anh với
luật bảo vệ những tác phẩm sáng tạo của văn sỹ, nghệ sỹ, ca sỹ, các nhà làm phim,

các chuyên gia viết phần mềm và sau này còn được ghi trang trọng trong Hiến Pháp
Hoa kỳ. Ý tưởng cơ bản về bản quyền này rất đơn giản: Các nghệ sỹ và người sáng
tác cần phải được hưởng thành quả lao động của mình một cách xứng đáng. Điều
này nhằm khuyến khích sáng tạo và tạo ra những sản phẩm văn hóa phong phú, đa
dạng cho mọi người. Tại bản Thông điệp của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) nhân ngày sở hữu trí tuệ thế giới năm 2006, Ngài Tổng Giám đốc đã nói:
“Ý tưởng tạo các di sản trong quá khứ cũng đồng thời là chất liệu để chúng ta xây
dựng nên tương lai thịnh vượng. Điều này lý giải vai trò quan trọng trong việc tạo
ra môi trường để khuyến khích và bảo vệ các ý tưởng mới. Đó là lí do mà sở hữu trí
tuệ tồn tại”. Nhưng nếu việc bảo hộ bản quyền là quan trọng trong việc đạt được
những thành quả văn hóa thì đương nhiên việc ăn cắp những sản phẩm được bảo hộ
bản quyền - tức là việc sao chép trái phép các sản phẩm văn hóa - là mối nguy hại
cho lĩnh vực sáng tác trong xã hội chúng ta đặc biệt là đối với các tác phẩm âm
nhạc. Hiện nay, tình trạng tải nhạc trên mạng, sử dụng các bài hát mà không trả tiền
thù lao cho tác giả đang diễn ra ngày một nhiều ảnh hưởng đến tâm lý những người
sáng tác trở nên dè đặt, không còn động lực để tiếp tục sáng tạo bởi những đứa con
tinh thần của họ vừa ra đời ngay lập tức bị sao chép, ăn cắp và họ không đủ tiền bạc
để phát triển tài năng của mình. Rất nhiều các Điều ước quốc tế ra đời nhằm hạn
chế vấn đề về vi phạm Bản quyền đối với tác phẩm âm nhạc: Công ước Berne bảo
hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật; Hiệp định TRIPS về những khía cạnh liên
quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; Công ước toàn cầu về bản quyền
(UCC)… Các quốc gia trên thế giới cũng tạo ra một hành lang pháp lý chặt chẽ
nhằm bảo về quyền lợi của những người tạo ra các tác phẩm âm nhạc. Vấn đề vi
phạm bản quyền đối với tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam cũng đang trở nên nhức
nhối trong xã hội. Chính vì lý do nêu trên khiến em chọn đề tài “Pháp luật quốc tế
và kinh nghiệm một số quốc gia về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc” một đề tài mang tính cấp thiết làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật.
1



2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã có một số bài báo và công trình
nghiên cứu đề cập đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ, bảo hộ
quyền tác giả âm nhạc theo pháp luật hàn quốc nói riêng, pháp luật nước ngoài nói
chung ở một số khía cạnh hoặc đối với một số đối tượng cụ thê như: Bản ghi, băng
đĩa, tác phẩm nghe nhìn, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm dịch v.v...
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách công phu và đầy đủ ở cấp độ một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ về đề tài
“Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc”. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc mới chỉ được nghiên
cứu bằng các bài viết, tranh luận, trong các Hội thảo khoa học hoặc trên một số tạp chí
khoa học pháp lý chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo
hay sách tham khảo; hay được đề cập với tư cách là một khía cạnh của các chế định
quyền tác giả, các bài báo bình luận về tình hình vi phạm nổi cộm. Do đó, các vấn đề lý
luận và thực tiễn xung quanh đề tài “Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước
về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc” đòi hỏi các nhà khoa học cần phải
được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên khảo và sâu sắc hơn.
Vì vậy, tác giả hy vọng với sự đầu tư và nghiên cứu thích đáng vào luận văn
thạc sĩ về đề tài “Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm âm nhạc”, sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị cả về mặt
lý thuyết cũng như thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm nổi bật ý nghĩa quan trọng
của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong phạm vi quốc gia
và phạm vi quốc tế. Khóa luận nghiên cứu các văn kiện quốc tế, pháp luật một số
quốc gia là Hoa Kỳ và Hàn Quốc nhằm đánh giá sự tương đồng và khác biệt
cũng như những ưu nhược điểm giữa hệ thống pháp luật Việt Nam so với quốc tế
và một số quốc gia trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.
Đồng thời, qua những bài học kinh nghiệm được rút ra từ pháp luật quốc tế cũng


2


như một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, khóa luận
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về
bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, không bao gồm các quyền liên quan
của các nhà tổ chức sản xuất băng, đĩa, các tổ chức phát sóng, truyền hình và người
biểu diễn. Bên cạnh đó khóa luận còn nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam có đối chiếu nội dung này với thực
trạng và kinh nghiệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tại một số
quốc gia và Liên hiệp Quốc tế các nhà soạn nhạc và soạn lời (CISAC). Từ đó đưa ra
một vài kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn và hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đáng và nhà nước
về xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và chính sách bảo hộ sở
hữu trí tuệ, trong đó có vấn đề bảo hộ quyền tác giả.
Phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành được sử dụng bao gồm
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, Luận văn được chia thành 03 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.
Chương 2: Các Điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc và kinh nghiệm một số quốc gia.

Chương 3: Bài học kinh nghiệm từ các nước đối với pháp luật Việt Nam và
phương hướng hoàn thiện và tăng cường thực thi pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam.

3


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM ÂM NHẠC VÀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM ÂM NHẠC
1.1. Khái niệm quyền tác giả
Những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là những sản phẩm sáng tạo
của trí tuệ có thể mang nhiều điểm khác nhau về địa lý, lịch sử, dân tộc, ngôn ngữ
nhưng đều mang đặc điểm chung đó là tính phi vật thể và khả năng dễ phổ biến,
khai thác ở nhiều quốc gia. Do đó, cần thiết lập một hệ thống bảo hộ quyền tác giả
đối với các tác phẩm của sáng tạo trí tuệ. Xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau,
quyền tác giả có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do
chính mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Đó chính là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Như vậy, quyền tác giả được trao cho
hai loại chủ thể, Tác giả và chủ sở hữu. Từ cách xem xét quyền tác giả như trên, dẫn
đến việc chủ thể của quyền tác giả có thể là một trong hai loại, hoặc chủ thể bao
gồm hai tư cách, Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Cụ thể hơn, nếu chủ thể là cá nhân
thì có thể đóng vai trò là chủ sở hữu hoặc tác giả, hoặc cả hai. Còn chủ thể là tổ
chức thì có quyền tác giả với tư cách là chủ sở hữu [18, tr.18].
Quyền tác giả hay tác quyền (copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác
phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có
tính chất văn hóa không bị vi phạm bản quyền, như các bài viết về khoa học hay

văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình
truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả
trong mối liên quan với tác phẩm, quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận
khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có
tính chất duy nhất [35]. Hiểu một cách đơn giản, quyền tác giả cho phép tác giả và

4


chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao
chép, trình diễn bất hợp pháp. Ví dụ: Tác giả một tác phẩm âm nhạc được làm chủ
thành quả lao động trí tuệ của mình, được độc quyền công bố, hoặc cho người khác
công bố tác phẩm âm nhạc của mình. Việc sao chép, phổ biến nội dung tác phẩm
mà không có sự đồng ý của tác giả là xâm phạm quyền tác giả.
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 1886
(Công ước Berne) quy định rằng quyền tác giả được bảo hộ bao gồm quyền kinh tế
và quyền tinh thần. Quyền kinh tế mà Công ước Berne dành cho tác giả bao gồm:
Quyền sao chép và những quyền thuộc quyền này (Điều 9);
Quyền trình diễn và truyền phát tới công chúng một cuộc trình diễn tác phẩm
kịch và âm nhạc (Điều 11);
Quyền phát sóng hoặc truyền phát tới công chúng bằng bất cứ phương tiện
vô tuyến khác (Điều 11 Bis);
Quyền đọc trước công chúng, truyền phát bản đọc tác phẩm văn học tới công
chúng (Điều 11 Ending);
Quyền phóng tác, cải biên, chuyển thể (Điều 12);
Quyền đối với tác phẩm điện ảnh; quyền hưởng lợi ích vật chất trong việc
bán lại tác phẩm (Điều 14 ter);
Quyền tác giả nói chung được hiểu là quyền mà pháp luật trao cho các tác
giả là người sáng tạo ra tác phẩm, bao gồm quyền bộc lộ tác phẩm, quyền sao chép
tác phẩm và phân phối hoặc phổ biến tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ phương

thức hoặc phương tiện nào, và quyền cho phép người khác sử dụng tác phẩm theo
những cách thức cụ thể. Hầu hết luật quyền tác giả của các nước đều phân biệt rõ
giữa quyền tài sản và quyền nhân thân. Các ngoại lệ nhất định cũng được đặt ra đối
với các loại hình tác phẩm đủ tiêu chuẩn bảo hộ, và đối với việc thực thi các quyền
đó. Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam cũng trao
cho tác giả các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do chính tác giả
trực tiếp sáng tạo ra.
Từ khái niệm quyền tác giả, có thể suy ra được quyền tác giả là một quyền

5


dân sự. Trong quan hệ pháp luật dân sự này, chủ thể là tác giả và chủ sở hữu quyền
tác giả. Khách thể hay đối tượng của quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả là
các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Nội dung là các quyền nhân thân và
quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Tóm lại, Quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được pháp luật quy định đối với các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học do chính mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
1.2. Khái niệm tác phẩm âm nhạc, tác giả âm nhạc
1.2.1. Tác phẩm âm nhạc
Từ điển Luật học có đưa ra khái niệm “tác phẩm” là “sản phẩm sáng tạo
trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới hình thức và
bằng phương tiện nào đó, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào
bất kỳ thủ tục nào” [1, tr.682]. Đại từ điển Tiếng Việt có ghi lại khái niệm “Tác
phẩm” là “công trình do nghệ sĩ, các nhà văn hóa, khoa học tạo nên” [34, tr.1480].
Khoản 7 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi, bổ sung năm
2009 có định nghĩa: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”.
Từ đây ta có thể rút ra rằng trước hết “tác phẩm âm nhạc” là “Sản phẩm

sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật” [26, Điều 4].
Từ điển thuật ngữ quyền tác giả, quyền liên quan có đề cập: “Tác phẩm âm
nhạc được hiểu chung là một loại hình tác phẩm nghệ thuật, được bảo hộ quyền tác
giả. Tác phẩm âm nhạc bao gồm tất cả các kết hợp âm thanh (tổ hợp) có hoặc không
có lời (lời thơ hoặc lời nhạc kịch), được trình diễn bằng các nhạc cụ có hoặc không
có giọng hát.
Theo giải nghĩa về tác phẩm âm nhạc – “musical work” trong từ điển tiếng
anh thì có thể hiểu tác phẩm được coi là tác phẩm âm nhạc nếu chứa đựng nốt nhạc
và lời hát (nếu có) trong một tác phẩm âm nhạc. Tác phẩm âm nhạc có thể thể hiện
dưới nhiều dạng khác nhau, có thể là một phần hoặc toàn bộ bản nhạc hay được ghi
lại trong đĩa nhạc.

6


Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO đã định nghĩa về “tác phẩm âm nhạc”
như sau: “Bất kỳ tác phẩm nào bao gồm âm thanh hoặc chỉ chứa các ký tự âm nhạc
ngay cả khi không bao gồm lời hay bất kỳ hành động nào nhằm mục đích được hát,
nói hay biểu diễn với âm nhạc thì được coi là tác phẩm âm nhạc. “Tác phẩm âm
nhạc” đã được mô tả như là “một tác phẩm âm thanh được sáng tạo một cách trừu
tượng để có thể biểu diễn qua âm thanh ngay cả khi không có lời”.
Tác phẩm âm nhạc là một trong những đối tượng bảo hộ của Công ước
Berne, tại Điều 2 Công ước Berne đã quy định thuật ngữ: “Các tác phẩm văn học
nghệ thuật bao gồm (…) các bản nhạc có lời hay không lời, (…)
Tại Điều 12 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan có định nghĩa tác phẩm âm nhạc là “
tác phẩm được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác
có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn”.
Tuy nhiên, tác phẩm âm nhạc thường phải thông qua giọng hát, hay nhạc cụ thì mới

có thể truyền trước công chúng, vẫn được xem là tác phẩm âm nhạc và bảo hộ theo
nguyên tắc luật định.
1.2.2. Tác giả âm nhạc
Tác giả âm nhạc là người trực tiếp tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm âm
nhạc, được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có
hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Hay
có thể nói rằng nếu tác phẩm âm nhạc là kết quả sáng tạo trực tiếp của cá nhân nào
đó thì cá nhân đó được coi là tác giả của tác phẩm âm nhạc đó. Những người đề
xuất ý kiến, làm công việc hỗ trợ, đóng góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người
khác sáng tạo ra một tác phẩm âm nhạc thì không được công nhận là tác giả của tác
phẩm âm nhạc. Tác phẩm âm nhạc được sáng tác phải là kết quả sáng tạo trực tiếp
của tác giả tạo ra tác phẩm âm nhạc đó.
Tại từ điển Luật học Việt Nam có định nghĩa “tác giả” là người trực tiếp
sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Bên

7


cạnh đó, Điều 8 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở
hữu trí tuệ vê quyền tác giả và quyền liên quan có quy định:
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học bao gồm:
a) Cá nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả;
b) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức
vật chất nhất định tại Việt Nam;
c) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam;
d) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước
quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
….

1.3. Khái niệm quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc
1.3.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Xét về mặt lý luận pháp lý cũng như trên thực tế, quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc là những quyền mà một người được hưởng đối với một tác phẩm mà
mình đã sáng tạo ra. Người đó có thể là người sáng tạo ra tác phẩm hay chỉ đơn
thuần là người sở hữu tác phẩm. Các quyền này hướng tới mục đích nhằm đem lại
cho người sáng tác những lợi ích vật chất và tinh thần tương xứng với công sức lao
động trí tuệ mà họ đã bỏ ra thông qua việc cho phép họ được độc quyền kiểm soát
việc khai thác và sử dụng tác phẩm của mình. Tuy nhiên, độc quyền trao cho tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm sẽ không bao gồm việc ngăn cản người khác sử dụng hợp
lý tác phẩm đó.
Như vậy, Quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc (hay còn gọi là tác quyền
âm nhạc) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm âm nhạc do mình sáng tác
hoặc được sở hữu hợp pháp. Quyền này còn được hiểu là quyền cho phép và quyền
nhận thù lao. Quyền cho phép có nghĩa là quyền tự quyết định cho phép người khác
khai thác, sử dụng tác phẩm của mình và quyền nhận thù lao là quyền yêu cầu

8


người khác trả thù lao cho việc khai thác, sử dụng tác phẩm. Theo quy định của
pháp luật, quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân
thân bảo vệ sự toàn vẹn về sáng tạo và danh tiếng của tác giả sáng tạo được thể hiện
thông qua tác phẩm. Quyền tài sản bảo vệ các lợi ích kinh tế của tác giả và cho phép
tác giả thu lợi bằng cách khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp tác phẩm.
Quyền nhân thân: Quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân gắn với tài sản
và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Quyền nhân thân không gắn với tài sản là
những quyền gắn liền với giá trị nhân thân của tác giả như danh dự, uy tín, tiếng
tăm của tác giả và không thể chuyển giao, bao gồm quyền đặt tên tác phẩm, quyền

đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn nội dung tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào. Quyền này
gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm đã được chuyển
giao và được bảo hộ vô thời hạn. Quyền nhân thân gắn với tài sản là các quyền cho
hay không cho người khác sử dụng tác phẩm, quyền này có thể chuyển giao và gắn
liền với các chế định về quyền tài sản trong quyền tác giả.
Quyền tài sản: hiện nay các hoạt động âm nhạc diễn ra khá sôi động, nhiều
cuộc thi tìm kiếm tài năng âm nhạc được tổ chức như Việt Nam Idol, Sao Mai điểm
hẹn… nhiều dịch vụ âm nhạc phát triển mạnh (mạng 3G, nhạc chuông, nhạc chờ
điện thoại…) Có thể nói đời sống âm nhạc phát triển là điều kiện tất yếu để bản
quyền tác giả phát triển và tiền sử dụng tác phẩm, cũng như quyền tài sản của các
tác giả được nâng cao hơn. Quá trình hình thành ý tưởng đến khi một tác phẩm âm
nhạc đến tai người nghe, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đã tốn không ít công sức
và tiền bạc, bởi thế nên quyền tài sản là một phần đền đáp công sức và nhằm
khuyến khích sự sáng tạo của tác giả.
Ngày nay trên khắp thế giới, các quyền của những người sáng tạo như nhà
văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ đã được pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế bảo hộ.
Đề điều chỉnh mối quan hệ toàn cầu, các nội dung cơ bản về quyền nhân thân và
quyền tài sản của tác giả đã được luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế quy định
thống nhất. Các quyền của tác giả được pháp luật thừa nhận, mỗi cá nhân tác giả

9


phải tự quản lý lấy các quyền của mình, khai thác nó để đạt được lợi ích kinh tế, bù
đắp các tiêu hao trong quá trình sáng tạo, đồng thời tiếp tục đầu tư cho hoạt động
sáng tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật, khoa học mới phục vụ được nhu cầu đa
dạng và phong phú của xã hội.
1.3.2. Những đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Một là, tác phẩm âm nhạc được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không

sao chép, bắt chước tác phẩm khác. Điều đó không có nghĩa là ý tưởng của tác
phẩm phải mới, mà là hình thức thể hiện của ý tưởng phải do chính tác giả sáng tạo
ra. Tác phẩm đó phải do chính sức lao động trí óc của tác giả tạo ra. Tính nguyên
gốc không có nghĩa là không có kế thừa [21, tr.50]. Bài thơ “Bài học đầu cho con”
của tác giả Đỗ Trung Quân sau đó được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài
hát thì cả 2 tác giả đều là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
Hai là, pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc chỉ bảo hộ hình
thức thể hiện của ý tưởng sáng tạo trong tác phẩm âm nhạc, mà không bảo hộ
những ý tưởng sáng tạo chứa đựng trong tác phẩm, được thể hiện ra từ tác phẩm âm
nhạc. Hình thức thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong một tác phẩm âm nhạc là việc
sắp xếp lời trong tác phẩm âm nhạc có lời, cấu trúc của tác phẩm âm nhạc và các
nốt nhạc trong tác phẩm không lời. Ý tưởng của tác phẩm được truyền tải bằng sự
sắp xếp, cấu trúc của lời tác phẩm hay những nốt nhạc của bản nhạc.
Ba là, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ mà không phụ
thuộc vào nôi dung hay giá trị nghệ thuật của tác phẩm âm nhạc. Các công ước quốc
tế về quyền tác giả và pháp luật sở hữu trí tuệ đều có quy định thống nhất rằng sự
sáng tạo trí tuệ trong việc tạo ra các tác phẩm âm nhạc mang tính nguyên gốc và
được vật chất hóa, được công nhận là tác phẩm và được bảo hộ theo pháp luật về
quyền tác giả. Theo đó, không đặt ra bất kỳ điều kiện về nội dung và giá trị nghệ
thuật đối với một tác phẩm âm nhạc để tác phẩm âm nhạc đó được bảo hộ.
Các tác phẩm âm nhạc khi được người này sử dụng thì mức hữu ích của tác
phẩm đối với người khác không suy giảm. Đây cũng là một điểm khác biệt giữa sản
phẩm trí tuệ và sản phẩm hiện vật. Do vậy, pháp luật quy định thời hạn bảo hộ

10


quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nhằm đảm bảo hai mục đích là bảo vệ
quyền lợi của tác giả, khuyến khích sự tự do sáng tạo nghệ thuật đồng thời đảm bảo
tối đa hóa lợi ích công cộng trong việc sử dụng tác phẩm đó.

Bốn là, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ tự động. Kết
quả của hoạt động sáng tạo ra tác phẩm âm nhạc mang tính nguyên gốc và được thể
hiện dưới hình thức vật chất nhất định sẽ được công nhận là tác phẩm âm nhạc và
được pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc thừa nhận và bảo vệ.
Như vậy, thủ tục đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc không phải là yêu
cầu bắt buộc. Tuy nhiên thủ tục này giúp giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh cho tác giả
của tác phẩm âm nhạc, chủ sở hữu quyền tác giả âm nhạc khi có tranh chấp hay
xâm phạm quyền tác giả xảy ra.
1.3.3. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Việc bảo hộ quyền tác giả càng ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt ngày
nay mạng truyền thông số hóa như mạng internet và máy tính cá nhân hoặc những
phát minh khác, bên cạnh nhiều lợi ích cũng tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho những ai
sử dụng và khai thác quyền tác giả bản nhạc. Khi tốc độ lan truyền của mạng số hóa
tính trên từng giây thì việc sao chép trái phép các tác phẩm âm nhạc chưa bao giờ
lại dễ dàng đến thế. Vì vậy, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
mang ý nghĩa vô cùng quan trọng:
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích của tác giả đối với tác phẩm âm nhạc do mình tạo ra.
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc đồng thời mang ý nghĩa
bảo vệ giá trị của các tác phẩm âm nhạc.
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là nhằm loại trừ các hành
vi khai thác, sử dụng bất hợp pháp các tác phẩm của người khác mà không có sự
cho phép của tác giả hoặc người đại diện hợp pháp của tác giả.
- Góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật nói riêng và sự phát triển
của nền văn hóa nói chung.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến các tác phẩm âm nhạc

11



- Đảm bảo cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ngày càng
hoàn thiện, hiệu quả hơn.
1.4. Cơ sở pháp lý bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Chính vì việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc vô cùng quan
trọng nên việc thiết lập một hành lang pháp lý vững chắc để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của các tác giả là rất cần thiết, trong đó bao gồm cả pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế.
Quyền tác giả trên thế giới phát sinh cùng với sự phát triển của công nghệ in
ấn. Trước khi công nghệ in ra đời, các quyền sách thường được chép tay, vì thế khả
năng sao chép tác phẩm gốc là không nhiều. Khi công nghệ in ra đời, một quyền
sách có thể được nhân thành nhiều bản. Tác giả không thể kiểm soát, quản lý được
bao nhiêu người đang đọc quyển sách của mình, và trong số đó bao nhiêu người đã
bỏ tiền ra mua sách do mình in, còn bao nhiêu người đã mua từ những nhà in lậu.
Chính vì vậy mà các tác giả và các nhà in đã kiến nghị nhà nước của mình bảo hộ
quyền được in ấn và quản lý việc xuất bản, in ấn. Nước đầu tiên ban hành luật về
quyền tác giả là Anh, nơi khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp (Theo Luật của nữ
hoàng Anne năm 1709). Sau đó đến lượt Mỹ (1790), Pháp (1791) và Đức.
Cùng với hệ thống luật án lệ, hệ thống luật thành văn với nhiều xuất xứ,
nhưng mốc lịch sử quan trọng nhất nảy sinh ra vấn đề bản quyền bắt nguồn từ cuộc
Cách mạng Pháp năm 1789. Với cách tiếp cận từ các quyền tự nhiên, quyền đối với
tác phẩm được coi là loại quyền “đặc biệt” của các cá nhân là tác giả của tác phẩm
được sáng tạo từ lao động của tư duy. Nó là quyền sở hữu riêng tư và thiêng liêng
đối với tác phẩm. Như vậy, quyền tác giả phát sinh tại những nước theo hệ thống
luật Anh – Mỹ trước, rồi mới đến các nước theo hệ thống luật lục địa.
Ngay từ bản hiến pháp đầu tiên vào năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã ghi
nhận những quyền cơ bản của công dân liên quan đến quyền tác giả, thể hiện tư
tưởng tiến bộ nhân văn về quyền con người. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do
xuất bản của công dân, là việc Nhà nước cam kết bảo vệ quyền lợi của trí thức, tôn
trọng quyền tư hữu về tài sản. Tư tưởng lập pháp đó đã tiếp tục được thể hiện tại


12


Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp 2013 đang
có hiệu lực thi hành.
Năm 1986 với Nghị định 142/HĐBT, lần đầu tiên ở Việt Nam một văn bản
riêng biệt về quyền tác giả đã được ban hành với những quy định cơ bản, ban đầu
với sự giúp đỡ của hãng VAB (Hãng bảo hộ quyền tác giả của Liên Xô cũ). Trước
yêu cầu của sự phát triển, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về
quyền tác giả vào tháng 10-1994.
Năm 1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền
tác giả và năm 1995 Quốc hội ban hành Bộ luật dân sự trong đó có chương I phần
thứ 6 điều chỉnh về quyền tác giả, trong đó đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ dân
sự về quyền tác giả, trong điều kiện đất nước chuyển đổi cơ chế quản lí từ tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường.. Về tổng thể, các nguyên tắc và quy định cơ
bản về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự đã thiết lập hoặc làm cơ sở để thiết lập
một hệ thống phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, dựa trên công ước
Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật, Công ước Rome về bảo hộ
người biểu diễn, người ghi âm và tổ chức phát sóng. Tuy nhiên, cũng cần nhận
thấy rằng, có không ít vấn đề, khiếm khuyết đã bộc lộ trong quá trình thực hiện
các quy định của Bộ luật dân sự về quyền tác giả. Một mặt, đó là sự chưa phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế hiện tại, mặt khác chưa cập nhật những bước quan
trọng trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan. Vì vậy, trước năm 2005
chưa có Luật chuyên ngành, pháp luật về sở hữu trí tuệ về quyền tác giả chủ yếu
được điều chỉnh bởi Bộ Luật Dân Sự 1995 và các văn bản dưới luật. Nghị định
76/CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 của Chính phủ thi hành một số quy định về
quyền tác giả trong Bộ luật dân sự. Nghị định này ra đời chỉ đề cập đến quyền tác
giả dưới góc độ dân sự. Các vấn đề khác có liên quan đến quyền quản lý nhà nước
như việc xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tác giả, Nghị định
31/CP của Chính phủ ngày 26 tháng 6 năm 2001 về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực văn hoá thông tin. Để khắc phục và xử lý nghiêm minh tình trạng
xâm phạm quyền tác giả, đồng thời đưa ra các thủ tục đăng ký, chế độ lệ phí đăng

13


ký quyền tác giả nhằm bảo đảm quyền của tổ chức, cá nhân khi có tranh chấp xảy
ra, Thông tư 166/1998/TT-BTC ngày 19 tháng 12 năm 1998 của Bộ tài chính
hướng dẫn chế độ thu lệ phí đăng ký quyền tác giả.
Luật sở hữu trí tuệ 2005(có hiệu lực ngày 01/07/2006) ra đời là bước ngoặt
mới trên đường phát triển trong hoạt động bảo hộ quyền tác giả và quyền liên
quan tại Việt Nam. Luật sở hữu trí tuệ trong đó phần quyền tác giả và quyền liên
quan đã tiếp thu được các giá trị của nhiều quy phạm pháp luật trong hệ thống
pháp luật Việt Nam về quyền tác giả, đã được thẩm định trong thực tiễn. Cùng với
16 điều quy định tại Bộ luật dân sự 2005, chỉ 2 văn bản luật này, các quy định
pháp luật riêng về quyền tác giả và quyền liên quan của Việt Nam đã có tới 59
điều. Nếu tính cả các quy định chung tại phần 1, phần 5 và phần 6 của luật sở hữu
trí tuệ thì các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan Việt Nam có tới 99
điều. Việc cùng lúc ra đời Luật sở hữu trí tuệ 2005 và Bộ luật dân sự 2005 đã pháp
điển hóa những quy định về quyền tác giả trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, khoa học công nghệ, sản phẩm trí tuệ... Trong đó lĩnh vực văn học, nghệ thuật
bảo đảm tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo, tạo điều kiện để phát huy hiệu
quả lao động nghệ thuật, làm tăng giá trị tư tưởng, giá trị lịch sử hoặc các giá trị
văn hóa khoa học khác. Chỉ gồm những quy định ở mức độ nguyên tắc về quyền
tác giả và dành các quy định chi tiết hơn cho Luật sở hữu trí tuệ với ý nghĩa là văn
bản pháp luật chuyên biệt về sở hữu trí tuệ.
Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản Văn hoá, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh
Quảng cáo cũng có một số điều khoản quy định về quyền tác giả, nhằm tăng cường
quản lí ở các lĩnh vực đặc biệt quan trọng này. Luật Hải quan đã có quy định các
biện pháp bảo hộ tại biên giới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến sở

hữu trí tuệ.
Hệ thống các chế tài về hành chính, dân sự và hình sự đã được hình thành,
đảm bảo cho các quy định pháp luật về quyền tác giả được thi hành với bộ máy
cưỡng chế của Nhà nước. Tại Bộ luật Hình sự sửa đổi tháng 6 năm 2009 (điều
170a) có quy định mức phạt tối đa là 200 triệu đồng và 3 năm tù giam, đối với các

14


hành vi thuộc tội phạm quyền tác giả; Luật Hải quan 2005, Luật xử lý phạt vi phạm
hành chính 2012; Luật Điện ảnh 2006, Luật công nghệ thông tin 2006; Luật chuyển
giao công nghệ 2006; Luật Đầu tư 2005…
Nghị định số 131/2013/NĐ-CP đã được chính phủ ký ban hành ngày
16/10/2013. Nghị định gồm 4 chương, 43 điều sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi
phạm; điều chỉnh mức phạt tiền, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục
hậu quả để phù hợp với thực tiễn và các quy định mới của Luật Xử lý vi phạm hành
chính 2012. Mức xử phạt, hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục
hậu quả được quy định tại Nghị định đủ sức giáo dục và răn đe. Điều quan trọng
tiếp theo là việc thực thi với tinh thần trách nhiệm cao và nghiêm minh của các cơ
quan có thẩm quyền từ trung ương tới địa phương.
Đồng thời với hệ thống pháp luật quốc gia đã được định hình như trên, Hiệp
định song phương về thiết lập quan hệ quyền tác giả, Hiệp định Thương mại giữa
Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kì, Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
giữa Việt Nam và Liên bang Thụy Sỹ cũng đang có hiệu lực thi hành.
Cùng với các điều ước quốc tế song phương trên, Việt Nam đã là thành viên
của 5 điều ước quốc tế đa phương gồm Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học; Công ước Rome bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản
ghi âm, tổ chức phát sóng; Công ước Brussels bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương
trình truyền qua vệ tinh đã mã hóa; Công ước Geneva bảo hộ nhà sản xuất bản ghi
âm chống lại việc sao chép bất hợp pháp bản ghi âm của họ. Hiệp định TRIPS về

các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn có các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương trong đó có nội dung về quyền
tác giả, quyền liên quan thế hệ mới như Hiệp định thương mại tự do ASEAN
(AFTA), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP), Hiệp định thương mại tự
do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á - Âu (VCU), Hiệp định Thương mại tự do
Việt Nam Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam với
Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP), v.v…

15


Tại Hàn quốc, quyền tác giả âm nhạc được bảo hộ bởi Luật quyền tác giả Hàn
quốc, lần đầu tiên được ban hành năm 1957, đã trải qua 14 lần bổ sung, và hai lần
trong số đó được sửa đổi, bổ sung toàn diện, lần thứ nhất năm 1986 và lần thứ hai
năm 2006, có hiệu lực năm 2007. Luật này bao gồm các quy phạm pháp luật điều
chỉnh về quyền tác giả, quyền liên quan nhằm thúc đẩy việc sử dụng công bằng các
sản phẩm sở hữu trí tuệ và đóng góp vào việc cải thiện và phát triển nền văn hóa.
Tại Hoa kỳ, việc ghi nhận quyền tác giả và các biện pháp bảo hộ quyền
tác giả đã được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ tại Điều 1 Mục 8
Khoản 8 “Quốc Hội có quyền… nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học và nghệ thuật
bằng các đảm bảo quyền tối cao của tác giả và nhà phát minh trong một khoảng
thời gian nhất định đối với những tác phẩm và phát minh của họ”. Luật Quyền
tác giả đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thông qua và ban hành ngày
31 tháng 05 năm 1790. Năm 1976, Thượng nghi sĩ Mc Clellan đưa ra dự thảo
Luật Quyền tác giả mới trình Thượng nghị viện Hoa Kỳ thay thế cho Luật Quyền
tác giả cũ. Với 100% số phiếu thông qua (97 phiếu thuận/ 0 phiếu chống),
Thượng nghị viện thông qua Luật Quyền tác giả vào ngày 19/02/1976. Ngày
22/09/1976, cả Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đều chập thuận thông quan
Luật Quyền tác giả. Ngày 19/10/1976, Tổng thống Ford ký lệnh ban hành Luật
Quyền tác giả, có hiệu lực từ ngày 01/01/1978. Sau đó, Luật quyền tác giả năm

1976 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 [9].
Tháng 6 năm 1926, Liên đoàn quốc tế các nhà soạn nhạc và soạn lời (CISAC)
được thành lập bao gồm đại biểu từ 18 hiệp hội quyền tác giả trên toàn thế giới và
ngày nay thành viên của CISAC ngày một tăng lên và mở rộng hơn. Mục tiêu cơ bản
của các hiệp hội thành viên CISAC – cơ sở và lý do tồn tại cơ bản của họ - là đảm
bảo một cách hiệu quả, thúc đẩy quyền lợi tinh thần của tác giả và bảo vệ các quyền
lợi vật chất của họ; đồng thời là một bộ máy hiệu quả dể thu và phân phối tiền bản
quyền các tác phẩm âm nhạc và đảm đương toàn bộ trách nhiệm về các hoạt động
gắn liền với việc quản trị các quyền đã được giao phó cho tổ chức [19].
Quyền tác giả phát sinh theo pháp luật của quốc gia nào thì chỉ có hiệu lực

16


trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Để bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc được phát sinh trên cơ sở nước này được tiếp tục bảo hộ ở nước khác thì
cần có sự ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế giữa các nước hữu quan.
Nhằm bảo hộ các quyền lợi chính đáng của tác giả, nhiều quốc gia đã tham
gia vào việc ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế đa phương quan trọng về bảo
hộ quyền tác giả như Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật
(được sửa đổi, bổ sung nhiều lần); Công ước toàn cầu về bản quyền năm 1952;
Hiệp định TRIPS 1994 về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ trong khuôn khổ các văn kiện của Tổ chức Thương mại thế giới WTO;
Hiệp định TPP v.v…
1.5. Vai trò và xu hƣớng phát triển việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc
1.5.1.Vai trò của việc bảo hộ bản quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Âm nhạc có lẽ có tầm ảnh hưởng lớn nhất, được sử dụng rộng rãi nhất trong
số tất cả những sáng tạo dựa trên quyền tác giả. Âm nhạc được sử dụng ở nhiều môi
trường khác nhau như điện ảnh, video, sân khấu, được trình diễn qua đài phát thanh

và truyền hình, các bản ghi kỹ thuật số được truyền qua internet. Âm nhạc được
phát khắp nơi- nhà hàng, quán bar, các trung tâm thương mại. Mỗi quốc gia đều có
một số loại hình âm nhạc bản địa. Ngày nay, môi trường số phát triển dẫn đến việc
vi phạm bản quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ngày càng trở nên dễ dàng.
Hơn nữa việc các tác giả theo dõi các tác phẩm của mình trên internet, trên truyền
hình hay phát thanh là cực kỳ khó khăn. Tình trạng vi phạm bản quyền âm nhạc
không còn giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia, mà đã trở thành vấn đề mang
tính quốc tế. Từ nhận thức đó, cả thế giới đã có nhiều nỗ lực trong cuộc chiến chống
lại tình trạng vi phạm bản quyền âm nhạc [7, tr.133].
1.5.2. Xu hướng phát triển việc bảo hộ bản quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc
Ngày nay, trên khắp thế giới, các quyền của những người sáng tạo như nhà
văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ đã được luật pháp quốc gia bảo hộ. Để điều chỉnh mối quan hệ

17


toàn cầu, các nội dung cơ bản về quyền tinh thần và quyền kinh tế của tác giả đều
đã được luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế quy định.
Các quyền của tác giả được pháp luật thừa nhận, mỗi cá nhân tác giả phải tự
quản lí lấy các quyền của mình, khai thác nó để đạt được các lợi ích kinh tế, bù đắp
các chi phí trong quá trình sáng tạo; đồng thời tiếp tục đầu tư cho hoạt động sáng
tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học mới phục vụ được nhu cầu đa
dạng, phong phú của xã hội loài người.
Tuy nhiên lịch sử đã tìm ra “lối đi” cho việc quản lí quyền. Điều này được
xác nhận từ kinh nghiệm lịch sử, kể cả trong điều kiện các sáng tạo là sản phẩm đa
phương tiện, cùng những tiến bộ mới đang được áp dụng rộng rãi là công nghệ số.
Thay vì tác giả tự quản lí quyền của mình – quản lí cá nhân – trong nhiều trường
hợp không hiệu quả bằng quản lí tập thể. Nhu cầu nhanh chóng tiếp cận tác phẩm để
sử dụng, nhu cầu sử dụng tác phẩm ở nhiều hình thức khác nhau là đòi hỏi thực tế.

Trong khi việc tiếp cận với tác giả không phải là bất kì thời gian và địa điểm nào.
Mặt khác, với tư cách là người sáng tạo, tác giả cần ưu tiên đầu tư thời gian, vật
chất, kể cả địa điểm thuận lợi cho lao động tư duy của mình. Vì vậy, sự khai thông
và thay thế cho quản lí cá nhân bằng quản lí tập thể là cách thức thỏa đáng. Sự xuất
hiện của giải pháp có lợi – quản lí tập thể - cho cả người sáng tạo và nhà sử dụng,
cũng như nhu cầu của công chúng về việc được hưởng thụ sớm các tác phẩm là lời
giải của những mâu thuẫn. “Quản lí tập thể” là kinh nghiệm lịch sử của nhân loại,
bắt nguồn từ các nước có nền công nghiệp bản quyền phát triển, đã mở đường để
đạt được sự hài hòa về lợi ích trong quan hệ giữa Người sáng tạo – Nhà sử dụng –
Công chúng hưởng thụ [6].
Các Hiệp hội quyền tác giả đầu tiên được thành lập tại Pháp. Thoạt đầu, chức
năng của các hội nghề nghiệp – đấu tranh, chưa kể đến các chức năng khác, để được
công nhận và tôn trọng một cách đầy đủ các quyền của tác giả - được kết hợp với
những nhân tố đang nổi lên của quản lý tập thể.
Sự thành lập của hiệp hội đầu tiên thuộc dạng này có liên quan mật thiết tới
tên tuổi Beaumarchais. Ông dẫn dắt các “trận chiến” pháp lý chống lại những nhà
hát miễn cưỡng thừa nhận và tôn trọng các quyền nhân thân và quyền kinh tế của

18


×