Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Tăng cường quản lí nhà nước tại khu di tích đại thi hào nguyễn du xã tiên điền, huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 115 trang )

TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Di tích lịch sử là tài sản vô giá trong kho tàng di sản lâu đời của dân tộc đang
được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
đang đặc biệt quan tâm. Hơn nữa, trong những năm gần đây Kinh tế - Xã hội có nhiều
chuyển biến tích cực, đời sống vật chất tinh thần nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhu
cầu về văn hóa tâm linh ngày càng cao. Các di tích tồn tại qua thời gian lâu dài và chịu
tác động mạnh mẽ từ điều kiện tự nhiên, chịu sự quá tải với số lượng khách lớn đến
tham quan, còn tồn tại một số người dân địa phương ý thức kém làm ảnh hưởng xấu
đến khu di tích. Vì vậy, để bảo tồn và phát triển khu di tích tôi xin chọn đề tài “Tăng
cường quản lí nhà nước tại khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du xã Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Đề tài nhằm giải quyết
được 3 mục tiêu cụ thể: i) Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lí
di tích lịch sử văn hóa. ii, Đánh giá thực trạng quản lí di tích khu di tích Nguyễn Du xã
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
quản lý khu di tích. iii,Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lí nhà nước tại khu di
tích Nguyễn Du xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Đề tài tập trung nghiên cứu tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du, xã Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh, tổng hợp, đánh giá các nội dung nghiên cứu
trong khoảng thời gian 3 năm (2012, 2013, 2014) đề xuất các giải pháp tăng cường
quản lý đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Bên cạnh việc thu thập thông tin, các số liệu thứ cấp, đề tài đã tiến hành điều tra,
phóng vấn 16 cán bộ trong Ban quản lý khu di tích, 16 người dân địa phương, 24 khách
đến tham quan khu di tích và 20 hộ kinh doanh tại Khu di tích lịch sử Nguyễn Du.
Dưới đây là các nội dung chính của khóa luận:
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Trong nội dung này, đề tài đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến
việc quản lý di tích lịch sử: một số khái niệm liên quan đến quản lý di tích, di tích lịch
sử văn hóa, đặc điểm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý di tích lịch sử.
Nghiên cứu tham khảo những kinh nghiệm trong cách quản lý di tích một số địa
phương trong nước. Đây là những cơ sở cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với
công tác quản lý khu di tích lịch sử ở hiện tại và tương lai.


2. Thực trạng quản lý Khu di tích lịch sử Nguyễn Du.
iii


Trên cơ sở phân tích các thông tin, tài liệu, số liệu trên địa bàn nghiên cứu về
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức bộ máy thực hiện quản lý khu di tích,
công tác tuyên truyền nâng cao ý thức cho xã hội, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm qua các năm từ đó đánh giá chung về sự phát triển của Khu di tích lịch sử Đại
thi hào Nguyễn Du. Từ nghiên cứu và phân tích đó đã cho thấy:
Các chương trình bảo tồn và phát triển khu di tích sẽ phục vụ các tầng lớp nhân
dân, khách tham quan du lịch… Các dự án quy hoạch tại khu di tích bắt đầu tiến hành,
tôn tạo ngay từ khi thành lập Ban quản lý, nhằm khôi phục lại những công trình di tích
lịch sử, văn hóa trải qua nhiều năm tháng đã bị hư hỏng và xuống cấp. Xây dựng quy
hoạch các hạng mục công trình với tổng diện tích là 50 ha, nổi bật là có dự án quy
hoạch cụm di tích và xây dựng hạ tầng dịch vụ tổng hợp.
Việc quản lý nhà nước về khu di tích Nguyễn Du bao gồm:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hoá;
- Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hoá;
- Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chuyên môn về di sản văn hoá;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá;
- Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá;
- Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá.

3. Kết quả đạt được: Việc tăng cường quản lý Khu di tích lịch sử Nguyễn Du đã
đạt được những kết quả như: cảnh quan môi trường xanh – sạch – đẹp, huy động thêm
được nhiều nguồn lực đầu tư, nâng cao vật chất, cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cho
cán bộ, lượt khách tăng lên đáng kể, nâng cao ý thức và trách nhiệm của người dân.
Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý khu di tích chủ yếu là về điều kiện tự
nhiên, nhân lực, ý thức của người dân.
iv


Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả công tác quản lý:
Điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết tuy thuận lợi vào dịp lễ hội nhưng vào
khoảng tháng 8,9,10 thì mưa nhiều, có bão, lũ làm cho đường đi tham quan bị ảnh
hưởng, các hạng mục bị ảnh hưởng, thiệt hại nặng nề. Đây là yếu tố ảnh hưởng bất
ngờ khiến cho các cán bộ trong Ban quản lý phải tìm hiểu và đưa ra những kế hoạch
thường xuyên, liên tục thay đổi.
Số lượng cán bộ trong khu di tích đang còn ít, chưa đảm bảo xử lý được hết các
công việc trong khu di tích đặc biệt là đến dịp lễ hội. Hơn nữa, các cán bộ này lại chịu
trách nhiệm với công việc khác ngoài khu di tích làm cho hiệu quả quản lý có thể
không được tốt và bản thân cán bộ cũng phải chịu nhiều áp lực từ việc đảm nhiệm
công việc ở nhiều nơi.
Trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, nắm bắt tâm lý của khách tham quan của
một số cán bộ còn hạn chế làm mất đi sự hài lòng của khách khi đến với khu di tích.
Khu di tích hiện nay đang trong công cuộc đầu tư xây dựng đổi mới nên chắc
chắn không thể tránh được những thiếu sót và việc quản lý chưa được quen thuộc.
Ngoài ra, khi quy hoạch, xây dựng có làm ảnh hưởng đến ruộng lương, đường ngõ của
một số hộ nông dân mà Ban quản lý chưa có cách giải quyết thỏa đáng.
Còn tồn tại 1 bộ phận người dân địa phương, khách tham quan thiếu tôn trọng,
gây mất trật tự, phá hoại khu di tích.
4. Giải pháp
Các giải pháp như: Tăng cường công tác quản lý và thực hiện quy hoạch, đẩy

mạnh công tác tổ chức quản lý khu di tích lịch sử, tăng cường công tác giới thiệu,
quảng bá, huy động nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ
chuyên môn, bảo tồn và phát triển khu di tích, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân, làm tốt công tác an ninh trật tự, vệ sinh
môi trường.
5. Kết luận và kiến nghị. Đề tài kết luận lại những vấn đề đã nghiên cứu đồng
thời kiến nghị đối với Đối với Sở Văn hóa – Thể thao- Du lịch Hà Tĩnh và Ban quản lý
Khu di tích lịch sử Nguyễn Du.

v


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5
2.2.2. Bài học kinh nghiệm 34
PHẦN III. 36
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN DỰ KIẾN 55
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 87
Đối với Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đại thi hào Nguyễn Du 89
PHỤ LỤC 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

PHỤ LỤC........................................................... Error: Reference source not found

vi


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1 : Phân bổ mẫu điều tra 51
Bảng 4.1. Một số công trình đã được trùng tu trong giai đoạn 2010-2015 58
Bảng 4.2. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch chính của di tích 60
Bảng 4.3. Danh mục các di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng 64
Bảng 4.4. Một số lễ hội truyền thống của xã Tiên Điền 65
Bảng 4.5. Thống kê du khách đến với khu di tích trong 3 năm 2012-2014 67
Bảng 4.6. Nguồn tài chính sử dụng cho Khu di tích lịch sử Nguyễn Du 72
Bảng 4.7. Đánh giá của cán bộ quản lý về chế độ làm việc trong khu di tích 76
Bảng 4.8: Đánh giá chất lượng dịch vụ của khách tham quan 78
ĐVT:% 78
Bảng 4.9. Đánh giá của người dân địa phương về sự thay đổi của khu di tích
Nguyễn Du 83

vii


DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1: Nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du 41
Hình 4.2: Nhà trưng bày 43
Hình 4.3: Mộ Đại thi hào Nguyễn Du 44
Hình 4.5. Đền thờ Lam khê hầu Nguyễn Trọng 47
Hình 4.1: Mô hình quản lí khu di tích đại thi hào Nguyễn Du 55
Hình 4.2. Sơ đồ cán bộ quản lý trong khu di tích Nguyễn Du 57

viii


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Thành phần du khách đến với khu di tích Nguyễn Du năm 2014 69
Biểu đồ 4.2. Mức độ hài lòng của du khách về chất lượng phục vụ của nhân viên

ban quản lý di tích Nguyễn Du năm 2014 70
Biểu đồ 4.2. Đánh giá của nhân viên về các lớp tập huấn đào tạo chuyên môn 76
Biểu đồ 4.3. Đánh giá của cán bộ về môi trường làm việc trong Ban quản lý 77
Biểu đồ 4.5. Số khách tham quan quay lại khu di tích Nguyễn Du tính 82

ix


PHẦN I: MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi mảnh đất, mỗi vùng quê khắp nơi trên đất nước Việt Nam nơi đâu cũng
có những di tích lịch sử, văn hóa, di tích cách mạng. Đó là tài sản vô giá, hợp thành
nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời đóng góp vào kho tàng di
sản văn hóa của nhân loại. Các di tích lịch sử là nơi chứa đựng các giá trị truyền
thống, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ và tín ngưỡng tâm linh, khơi gợi niềm tự
hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước. Do vậy, để phát triển đất nước theo
hướng bền vững, cần coi trọng và quan tâm việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa của dân tộc trong đó phải kể đến các di tích lịch sử - văn hóa.
Đến với Hà Tĩnh, một mảnh đất hữu tình- địa linh- nhân kiệt, với nền văn
hóa núi Hồng- sông La, là miền đất giàu truyền thống cách mạng, giàu truyền thống
hiếu học. Nơi đây mỗi tên đất tên người đều gắn với một chiến công lịch sử vang
dội. Là vùng đất của một kho tàng di sản khổng lồ, bao gồm cả văn hóa vật thể và
phi vật thể trong đó có một di tích cấp quốc gia đặc biệt là khu di tích đại thi hào
Nguyễn Du và nhiều di tích cấp tỉnh khác.
Trong những năm qua, công tác quản lý và phát huy giá trị của khu di tích
Nguyễn Du đã được các cấp, các ngành quan tâm và có sự phối, kết hợp chặt chẽ
trong quản lý và phát huy giá trị của khu di tích. Ban quản lý khu di tích đã xây
dựng quy chế phối hợp, đưa ra các nội dung về bảo tồn và phát huy các giá trị của
di tích vào quy ước để nhân dân cùng biết và thực hiện. Khu di tích ngày càng nổi

tiếng và được đông đảo khách tham quan biết đến.
Tuy nhiên bên cạnh đó, công tác quản lý và phát huy giá trị của khu di tích
còn một số hạn chế và vướng mắc nhất định, về công tác bảo quản, tu bổ và phục
hồi các di tích, nhìn về tổng thể vẫn được quan tâm thực hiện thường xuyên, nhưng
do nguồn kinh phí eo hẹp nên còn nhiều khó khăn, chưa tương xứng với tầm vóc
của một Danh nhân văn hóa thế giới, nó mới chỉ mang tính lưu giữ để giới thiệu
với du khách thân thế và sự nghiệp của Đại thi hào, xây dựng khu di tích chưa
có quy mô, chưa có khu nghỉ ngơi và ăn uống hợp lý phục vụ nhu cầu của khách
tham quan, các cửa hàng bán đồ lưu niệm tại khu di tích còn nghèo nàn sản
1


phẩm, ấn phẩm về khu di tích và đặc sản của quê hương. Mặc dù đã là một địa
chỉ văn hoá để tham quan và nghiên cứu, nhưng sức hút và quy mô còn khiêm
tốn so với tính chất của một Khu di tích quốc gia đặc biệt.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tăng cường
quản lí nhà nước tại khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du xã Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý
các hoạt động tại khu di tích Nguyễn Du để từ đó đề xuất những kiến nghị, giải
pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước tại khu di tích.
1.2.1. Mục tiêu cụ thể
• Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lí di tích lịch sử
văn hóa.
• Đánh giá thực trạng quản lí di tích khu di tích Nguyễn Du xã Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý
khu di tích.
• Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lí nhà nước tại khu di tích Nguyễn

Du xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiêu cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tại khu di tích và hoạt động quản lý nhà nước tại khu di tích Đại
thi hào Nguyễn Du.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi về nội dung
Thực trạng quản lí nhà nước tại khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du xã Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
1.3.2.2. Phạm vi về không gian
Đề tài tập trung nghiên cứu tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du, xã Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh.

2


1.3.2.3. Phạm vi về thời gian
Đề tài tổng hợp, đánh giá các nội dung nghiên cứu trong khoảng thời gian 3
năm (2012, 2013, 2014) đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030.

3


PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa
Theo Luật di sản văn hóa Việt Nam (2001) và Luật Di sản văn hóa bổ sung
và sửa đổi của Việt Nam (2009) thì DTLSVH là công trình xây dựng, địa điểm và

các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học. DTLSVH phải có một trong các tiêu chí sau:1) Công trình xây
dựng địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa
phương; 2) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến phát triển của
quốc gia hoặc cuả địa phương trong các thời kỳ lịch sử; 3) Địa chỉ khảo cổ học có
giá trị tiêu biểu; 4) Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể
kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn
phát triển kiến trúc, nghệ thuật.
Giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa của Trường Đại học Văn hóa đưa ra
một khái niệm khoa học về di tích như sau: “Là những không gian vật chất cụ thể,
khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử; do tập thể hoặc cá nhân
con người hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để lại” [49, tr.17].
Qua những khái niệm trên về di tích lịch sử văn hóa, ta có thể rút ra đặc điểm
chung của DSLSVH như sau:
Thứ nhất, di tích là một không gian cụ thể, khách quan như công trình, địa
điểm, các di vật, bảo vât quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó và cảnh quan thiên
nhiên có sự kết hợp với các công trình kiến trúc hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của
con người nằm trong khu vực cảnh quan thiên nhiên đó. Di tích tồn tại cụ thể trong
một không gian và thời gian.
Thứ hai, di tích không chỉ kết tinh những giá trị lao động xã hội của con người
trong lịch sử sáng tạo mà còn kết tinh những giá trị điển hình về lịch sử, văn hóa, khoa
học. Điều này hết sức quan trọng, khẳng định trước hết nó thuộc về sở hữu của người
lao động sáng tạo ra nó, nhưng nó là tài sản của quốc gia vì bản thân nó đã chứa đựng
những giá trị điển hình của xã hội.
5


Thứ ba, di tích gồm những bộ phận cấu thành: môi trường, cảnh quan thiên
nhiên xen kẽ, hoặc bao quanh di tích; những công trình, địa điểm liên quan tới sự kiện

lịch sử, hoặc nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa và những giá trị văn hóa tinh thần
hay còn gọi là văn hóa phi vật thể gắn với công trình, địa điểm đó.
Với các đặc điểm này, khái niệm DSLSVH theo Luật di sản Việt Nam phản
ánh đầy đủ nhất đặc điểm, nội dung giá trị của DSLSVH và được lựa chọn phục vụ
nghiên cứu.
Phân loại DSLSVH nhằm thống kê, đánh giá đúng hiện trạng, giá trị kho
tàng di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể góp phần nghiên cứu khoa học, bảo
tồn, tôn tạo, khai thác và phát huy các giá trị của di tích lịch sử văn hóa.
Theo Luật Di sản văn hóa, di tích được phân loại như sau:
Thứ nhất, nếu căn cứ vào giá trị tiêu biểu nhất mà di tích chứa đựng thì di tích
được chia thành các dạng sau: di tích khảo cổ, di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ
thuật, danh lam thắng cảnh, các công trình đương đại.
• Các di tích khảo cổ:
-Di: là những gì của quá khứ còn để lại, lưu lại.
Di tích khảo cổ: các loại dấu vết, vết tích của quá khứ con người còn lưu lại
được khảo cổ học nghiên cứu.
Di tích khảo cổ học bao gồm:
-Di tích trên mặt đất: rất dễ quan sát nhưng có số lượng không nhiều, như di
tích đống vỏ sò, di tích thành lũy, đền tháp, chùa chiền cổ, các di tích cự thạch…
-Di tích dưới mặt đất: có số lượng nhiều nhưng khó nhìn thấy do phần lớn còn
nằm trong các tầng văn hóa của di tích nơi cư trú hoặc mộ táng.
-Di tích dưới mặt nước: các con tàu đắm…
• Di tích lịch sử
Bao gồm:
-Di tích ghi dấu về dân tộc học : những giá trị văn hóa lịch sử gắn với việc ăn,
ở,sinh hoạt của các tộc người.
-Di tích ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng, tiêu biểu,có ý nghĩa quyết định cho
việc xây dựng, phát triển, bảo vệ của một đất nước, một địa phương.
-Di tích ghi dấu chiến công chống xâm lược.
- Di tích ghi dấu cuộc đời, sự nghiệp của các danh nhân, các vị anh hùng dân tộc.

- Di tích ghi dấu những kết quả lao động sáng tạo vinh quang của quốc gia
- Di tích ghi dấu tội ác của thực dân, đế quốc.

6


- Các kỷ vật kỷ niệm, cổ vật, bảo vật gắn liền với tên tuổi các danh nhân, các
anh hùng dân tộc và các thời kỳ lịch sử, các tượng đài kỷ niệm.
• Các di tích kiến trúc nghệ thuật
Bao gồm: các công trình kiến trúc có giá trị cao về kỹ thuật xây dựng cũng như
về mỹ thuật trang trí, hoặc các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, các bức bích họa, các
công trình kiến trúc, ngoài ra trong các di tích này còn chứa đựng nhiều cổvật, bảo vật
quốc gia, vật kỷ niệm và những giá trị văn hóa phi vật thể như truyền thống văn hóa,
truyền thuyết, các giá trị lịch sử, tâm linh, tôn giáo...
Thứ hai, theo đầu mối quản lí và giá trị của di tích, danh thắng thì di tích danh
thắng được chia làm 3 loại:
• Di tích quốc gia đặc biệt
Là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia. Các di tích này được địa
phương lập hồ sơ xếp hạng và trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thể
thao- Du lịch, Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và
quyết định các tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)
xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới như : Phong
Nha – Kẻ Bàng, Cố Đô Huế, Vịnh Hạ Long, Thánh địa Mỹ Sơn.
• Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia.
Các di tích này được địa phương lập hồ sơ, trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch
UBND tỉnh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa thể thao du lịch ra quyết định xếp hạng di tích
quốc gia.
• Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương.
Địa phương lập hồ sơ, trên cơ sở đề nghị của Gíam đốc Sở Văn hóa-Thể thao
và Du lịch, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xếp hạng di tích

cấp tỉnh.
Thứ ba, dựa vào hình thức quản lý, di tích được chia thành 3 loại:
- Do nhà nước trực tiếp quản lý;
- Di tích di cộng đồng dân cư (dưới hình thức tập thể) trực tiếp quản lý;
- Di tích do cá nhân, gia đình trực tiếp quản lý.
Trong đó:
• Di tích do Nhà nước trực tiếp quản lý: Đó là các di tích quốc gia đặc biệt và di
tích quốc gia do các ban quản ly di tích được nhà nước thành lập trực tiếp quản lý.
Nhà nước cấp lương, chi phí cho hoạt động thường xuyên, các chi phí sửa chữa… trực
tiếp cho Ban quản lý di tích.

7


• Di tích do cộng đồng dân cư (hình thức tập thể quản lý) trực tiếp quản lý: Đó
là các di tích quốc gia, di tích địa phương cấp tỉnh được giao cho tổ chức nhân dân
trực tiếp quản lý như đình làng, các chùa, đền thờ…
• Di tích do cá nhân, gia đình trực tiếp quản lý như: nhà thờ dòng họ, nhà ở dân
cư trong các khu phố cổ, sắc phong, bảo vật của dòng họ…
Ngoài ra, các di sản văn hóa còn được phân chia thành 2 dạng, bao gồm: giá trị
văn hóa vật thể và phi vật thể.
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia.
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề trình diễn và các hình thức lưu
giữ, lưu truyền khác bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật khoa
học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống nếp sống, lễ hội, bí quyết về
nghề thủ công truyền thống, tri thức về y học, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực,
về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.

2.1.1.2. Khái niệm quản lí nhà nước trong lĩnh vực di tích lịch sử văn hóa
a. Khái niệm quản lý nhà nước
• Quản lý là một hoạt động có hướng đích của chủ thể quản lý tác động đến đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
• Quản lý là phương thức làm cho những hoạt động hoàn thành với hiệu quả
cao, bằng và thông qua những người khác.
Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay một nhóm người, một tổ chức. Đối
tượng quản lý cũng c ó thể là một cá nhân hay một nhóm người, cộng đồng hay một tổ
chức nhất định.
Quản lý phải là một quá trình liên tục; có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý, sao cho sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội, nhằm
đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ hiện hành.
(Quản lý di tích danh thắng gắn với phát triển du lịch ở Quảng Bình)
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội, là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật của nhà nước đối với các quá trình xã hội, các

8


hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội cũng
như trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiểu theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy
nhà nước từ hoạt động luật pháp, hành pháp đến tư pháp. Hoạt động quản lý nhà nước
được thực hiện bởi các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị kinh tế xã hội
và đoàn thể quần chúng, các đơn vị địa phương, công dân chấp hành pháp luật theo
quy định của Nhà nước.
Hiểu theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là hoạt động của quyền hành pháp, tức
là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động
quản lý nhà nước chủ yếu thực hiện bởi các cơ quan hành chính Nhà nước bao gồm:
Chính Phủ, Bộ, các cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân. (Vũ Thị Hồng Luyến, 2015).

Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm quản lý như sau: “Quản lý
nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có
tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công
cuộc chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.(Hoàng Thị Uyên, 2013).
b. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử là một bộ phận của di sản văn hóa Việt Nam, là bằng chứng sinh
động, quý báu về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Một đất nước mà
không có di tích thì mất hết đi ý nghĩa, chính vì vậy các di tích cần được quản lý, bảo
vệ và phát huy giá trị để phục vụ cho lợi ích xã hội, đáp ứng nhu cầu của người dân
muốn tìm hiểu về lịch sử dân tộc, khẳng định niềm tự hào dân tộc, góp phần ổn định
chính trị, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển kinh tế xã hội vì mục tiêu tiến tới xây
dựng đất nước dân chủ, văn minh.
Trong hoạt động quản lý di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử nói riêng
thì việc ban hành các văn bản pháp luật sẽ tạo cơ sơ pháp lý cho việc quản lý là việc
làm tối cần thiết. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước do nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa trong đó có di sản văn hóa đối với
sự phát triển bền vững của đất nước, Đảng và Chính phủ đã có nhiều quyết sách, ban

9


hành các văn bản pháp luật về quản lý di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử nói
riêng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Từ những giải thích trên có thể rút ra rằng: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử
là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong việc
sử dụng nguồn lực nhà nước để xây dựng, ban hành pháp luật. Đồng thời sử dụng
phương tiện pháp luật để quản lý, tuyên truyền giáo dục, kiểm tra, giám sát việc chấp
hành pháp luật; xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về di

tích lịch sử nói riêng, di sản văn hóa nói chung để ngày càng bảo vệ, phát huy một
cách tối đa giá trị thực sự của nó. (Vũ Thị Hồng Luyến, 2015).
2.1.2. Giá trị của di tích lịch sử văn hóa
Phân tích, đánh giá các giá trị của di tích một cách khoa học là điều kiện tiền đề
để bảo tồn và phát huy đúng các giá trị của DTLSVH trong các mục tiên kinh tế, xã
hội, môi trường. Các giá trị cụ thể của DTLSVH bao gồm: Giá trị lịch sử, giá trị văn
hóa, giá trị khoa học và giá trị kiến trúc - nghệ thuật.
Giá trị lịch sử của di tích là giá trị gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu cả
quốc gia hoặc của địa phương, gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hung dân tộc.
danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc
địa phương trong các thời kỳ lịch sử.
Giá trị văn hóa của di tích là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần gắn với di tích do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực
tiễn, sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Trong mỗi di tích
đều chứa đựng trong đó những giá trị vật chất và tinh thần nhất định. Giá trị vật chất
có thể là một công trình kiến trúc, một di vật…, giá trị tinh thần có thể là biểu hiện về
một ngôn ngữ, tư tưởng, truyền thống tốt đẹp, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội
liên quan đến di tích.
Giá trị khoa học của di tích là giá trị phục vụ cho con người nghiên cứu, khảo
sát, thu thập dữ liệu, phân tích mối quan hệ, các yếu tố tác động, sự tồn tại và phát
triển của sự vật hiện tượng liên quan đến DTLSVH. Các giá trị của DTLSVH có thể
phục vụ cho nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Giá trị khoa học sẽ phụ
thuộc vào các số liệu có liên quan, vào tính hiếm hoi, chất lượng hay tính đại diện, và
vào mức độ mà DTLSVH có thể đóng góp them những thông tin quan trọng.
10


Giá trị kiến trúc nghệ thuật của di tích là những giá trị nghệ thuật tổ chức, thiết
kế không gian, môi trường, vật liệu, kết cấu, trang trí của các công trình xây dựng, địa
điểm, giá trị lớn về tư tưởng, thẩm mỹ, văn hóa để con người thưởng thức bằng các

giác quan từ đó ngưỡng mộ trình độ, kỹ năng, kỹ xảo vượt lên trên mức thông thường
phổ biến.
Ngoài ra, DTLSVH còn có thể là các giá trị về đa dạng sinh học, các giá trị về
hệ sinh thái, các gía trị về địa chất, địa mạo…
2.1.3. Đặc điểm của quản lý về di tích lịch sử văn hóa
Để làm rõ hơn bản chất của quản lý di tích lịch sử cần phải luận giải về đặc
điểm của hoạt động của nó. Quản lý di tích lịch sử có những đặc điểm cơ bản sau:
a. Quản lý di tích lịch sử là hoạt động mang tính tất yếu và phổ biến.
Tính tất yếu và phổ biến của hoạt động quản lý di tích lịch sử biểu hiện ở chỗ:
Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Điều đó có nghĩa là con
người không thể tồn tại và phát triển nếu không quan hệ hoạt động với người khác.
Khi con người cùng tham gia hoạt động với nhau thì tất yếu phải có một “ý chí điều
khiển” hay là phải có tác nhân quản lý nếu muốn đạt tới trật tự và hiệu quả. Mặt khác,
con người thông qua hoạt động để bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích, thỏa mãn
nhu cầu mà thỏa mãn nhu cầu này lại phát sinh nhu cầu khác. Chính vì vậy, hoạt động
quản lý di tích lịch sử tồn tại như một tất yếu ở trong khu di tích.
b. Hoạt động quản lý di tích lịch sử biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể quản
lý và đối tượng quản lý.
Thực chất của mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý là mối
quan hệ giữa con người với con người. Thông qua mối quan hệ giữa con người với
con người để tác động làm phát triển khu di tích.
c. Quản lý di tích lịch sử là tác động có ý thức.
Chủ thể quản lý di tích lịch sử tác động tới đối tượng quản lý là những con
người hiện thực để điều khiển hành vi, phát huy cao nhất tiềm năng và năng lực của họ
nhằm hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Chính vì vậy, tác động quản lý của chủ thể
quản lý di tích lịch sử tới đối tượng quản lý phải là tác động có ý thức, nghĩa là tác
động bằng tình cảm (tâm lý), dựa trên cơ sở tri thức khoa học (khách quan, đúng đắn)
11



và bằng ý chí (thể hiện bản lĩnh). Có như vậy chủ thể quản lý di tích mới gây ảnh
hưởng tích cực tới đối tượng quản lý để từ đó bảo vệ, phát huy và không làm xâm hại
đến giá trị của khu di tích.
d. Quản lý di tích lịch sử là tác động bằng quyền lực.
Hoạt động quản lý di tích lịch sử được tiến hành trên cơ sở các công cụ, phương
tiện và cách thức tác động nhất định.Tuy nhiên, khác với các hoạt động khác, hoạt
động quản lý di tích lịch sử chỉ có thể tồn tại nhờ ở yếu tố quyền lực (có thể coi quyền
lực là một công cụ, phương tiện đặc biệt). Với tư cách là sức mạnh được thừa nhận,
quyền lực là nhân tố giúp cho chủ thể quản lý di tích lịch sử tác động tới đối tượng
quản lý để điều khiển hành vi của họ. Quyền lực được biểu hiện thông qua các quyết
định quản lý, các nguyên tắc quản lý, các chế độ, chính sách, vv… Nhờ có quyền lực
mà chủ thể quản lý di tích lịch sử mới đảm trách được vai trò của mình là duy trì kỷ
cương, kỷ luật và xác lập sự phát triển ổn định, bền vững trong khu di tích. Điều đáng
lưu ý là cách thức sử dụng quyền lực của chủ thể quản lý di tích lịch sử có ý nghĩa
quyết định tính chất, đặc điểm của hoạt động quản lý, của văn hóa quản lý, đặc biệt là
của phong cách quản lý.
e. Quản lý di tích lịch sử là tác động theo quy trình.
Các hoạt động quản lý di tích lịch sử thường được tiến hành trên cơ sở những
kiến thức chuyên môn, những kỹ năng tác nghiệp và được tiến hành theo một quy
trình bao gồm: Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Đó là quy trình chung cho
mọi nhà quản lý và mọi lĩnh vực quản lý. Nó được gọi là các chức năng cơ bản của
quản lý và mang tính “kỹ thuật học” của hoạt động quản lý. Với quy trình như vậy,
hoạt động quản lý di tích được coi là một dạng lao động mang tính gián tiếp và tổng
hợp. Nghĩa là nó không trực tiếp tạo ra sản phẩm mà nhờ thực hiện các vai trò định
hướng, thiết kế, duy trì, thúc đẩy và điều chỉnh để từ đó gián tiếp tạo ra nhiều sản
phẩm hơn và mang lại hiệu lực và hiệu quả cho khu di tích lịch sử.
g. Quản lý di tích lịch sử là hoạt động để phối hợp các nguồn lực.
Thông qua tác động có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình mà hoạt động
quản lý mới có thể phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài khu di tích lịch sử.
Các nguồn lực được phối hợp bao gồm: nhân lực, vật lực, tài lực và tín lực. Nhờ phối

hợp các nguồn lực đó mà quản lý trở thành tác nhân đặc biệt quan trọng trong việc tạo
12


nên hợp lực chung trên cơ sở những lực riêng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trên cơ sở
những sức mạnh của các bộ phận nhằm hoàn thành mục tiêu chung một cách hiệu quả
mà từng cá nhân riêng lẻ hay các bộ phận đơn phương không thể đạt tới.
h. Quản lý di tích lịch sử nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu chung.
Hiệu quả của các hoạt động cụ thể được đo bằng kết quả cuối cùng mà nó mang
lại nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể đến mức độ nào đó, còn hoạt động quản lý di
tích lịch sử ngoài việc thỏa mãn nhu cầu riêng của chủ thể thì điều đặc biệt quan trọng
là phải đáp ứng lợi ích của đối tượng. Ví dụ như, quản lý khu di tích lịch sử phải làm
thỏa mãn nhu cầu của khách tham quan, người dân địa phương. Nó là hoạt động vừa
phải đạt được hiệu lực, vừa phải đạt được hiệu quả.
Trong thực tiễn quản lý khu di tích lịch sử, không phải bao giờ mục tiêu chung
cũng được thực hiện một cách triệt để. Điều đó tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
của những giai đoạn lịch sử nhất định.Những xung đột về lợi ích giữa chủ thể quản lý
di tích lịch sử với đối tượng quản lý thường xuyên tồn tại vì vậy, hoạt động quản lý di
tích lịch sử xét đến cùng là phải đưa ra các tác động để khắc phục những xung đột
ấy.Mức độ giải quyết xung đột và thiết lập sự thống nhất về lợi ích là tiêu chí đặc biệt
quan trọng để đánh giá mức độ ưu việt của các mô hình quản lý các di tích lịch sử
trong thực tế.
i. Quản lý di tích lịch sử là hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính
nghệ thuật.
Tính khoa học của hoạt động quản lý di tích lịch sử thể hiện ở chỗ các
nguyên tắc quản lý, phương pháp quản lý, các chức năng của quy trình quản lý và
các quyết định quản lý phải được xây dựng trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm mà nhà
quản lý có được thông qua quá trình nhận thức và trải nghiệm trong thực tiễn. Điều
đó có nghĩa là, nội dung của các tác động quản lý phải phù hợp với điều kiện khách
quan của môi trường và năng lực hiện có của khu di tích cũng như xu hướng phát

triển tất yếu của nó.
Tính nghệ thuật của hoạt động quản lý di tích lịch sử thể hiện ở quá trình thực
thi các quyết định quản lý trong thực tiễn và được biểu hiện rõ nét trong vận
dụng các phương pháp quản lý, việc lựa chọn các phong cách và nghệ thuật lãnh đạo.

13


Tính khoa học và nghệ thuật trong quản lý di tích lịch sử không loại trừ nhau
mà chúng có mối quan hệ tương tác, tương sinh và được biểu hiện ở tất cả các nội
dung của tác động quản lý. Điều đó tạo nên đặc trưng nổi bật của hoạt động quản lý di
tích lịch sử so với những hoạt động khác.
k. Mối quan hệ giữa quản lý di tích lịch sử và tự quản.
Quản lý di tích lịch sử và tự quản là hai mặt đối lập của một chính thể. Điều đó
thể hiện ở chỗ, nếu hoạt động quản lý di tích lịch sử được thực hiện một cách khoa học
nghĩa là không áp đặt quyền lực một chiều từ phía chủ thể mà là sự tác động qua lại
giữa chủ thể và đối tượng thì quản lý và tự quản lý có sự thống nhất với nhau. Như
vậy, quản lý theo nghĩa đích thực đã bao hàm trong nó cả yếu tố tự quản.
Tuy nhiên, trong quá trình hướng tới tự do của con người, không phải khi nào
và ở đâu cũng có thể đạt tới sự thống nhất giữa quản lý và tự quản mà nó là một mâu
thuẫn cần phải được giải quyết trong từng nấc thang của sự phát triển. Quá trình đó có
thể được gọi là quản lý di tích lịch sử tiệm cận tới tự quản.(Bùi Đức Thành, 2014).
2.1.4. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Để bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa không có công cụ nào hơn là phải sử dụng
pháp luật. Nhìn lại hệ thống pháp luật về di sản văn hóa nói chung và về di tích lịch sử
văn hóa nói riêng chúng ta nhận thấy nhà nước ta đã xây dựng và ban hành từ rất sớm
và ngày càng được hoàn thiện.
Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sức lệnh số 65/ SL – sắc lệnh
đầu tiên về công tác bảo tồn, bảo tàng. Sắc lệnh gồm 6 điều trong đó nội dung chính
ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác Cổ học viện. Sắc lệnh đã nhấn mạnh đến việc

bảo tồn cổ tích là việc làm cần thiết của nhà nước Việc Nam. Sắc lệnh quy định nhà
nước chi ngân sách cho việc bảo vệ, tu sửa di tích và công nhận các khoản trợ cấp cho
Viện Đông phương Bác cổ học viện.
Ngày 28/6/1956 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra
Thông tư số 38-TT/TW gửi tới các cấp bộ Đảng về việc bảo vệ những di tích lịch sử
văn hóa, vừa uốn nắn những sai sót gây tổn hại cho kho tàng di sản văn hóa dân tộc,
vừa đề ra một số việc phải làm là: nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ di tích lịch sử,
danh lam thắng cảnh trong các cấp các ngành, các tổ chức xã hội và toàn dân; Đình chỉ

14


ngay những hoạt động kinh tế đang phương hại trực tiếp đến một số di tích cụ thể;
Tiến hành phân loại các di tích, cần có kế hoạch để tu bổ các di tích.
Ngày 29/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 519/TTg, quy định về
thể lệ bảo tồn cổ tích. Đây là văn bản pháp lý có giá trị thiết thực của Chính phủ trong
việc bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hóa trong hai thập kỷ chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta. Nghị định là kim chỉ nam cho mọi hoạt động công tác quản lý di sản văn hóa từ
năm 1957- 1984. Nghị định này gồm 7 mục, 32 điều trong đó đề cập đến công tác
quản lý di tích lịch sử, văn hóa ở các góc độ như liệt hạng di tích lịch sử, văn hóa, việc
trùng tu, tôn tạo di tích, chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với các tổ chức và cá nhân
có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Ngày 31/3/1984, Hội đồng nhà nước đã ban hành và công bố pháp lệnh 14
LCT/HĐND về việc “ Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng
cảnh”. Pháp lệnh gồm 5 chương và 27 điều, đã xác định biện pháp quản lý nhà
nước đối với di sản văn hóa bao gồm: Kiểm kê, đăng ký và xác định loại hình di
tích; Quy định chế độ bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh; Thanh tra thi hành những quy định của pháp luật về bảo vệ, sử dụng di tích
và danh lam thắng cảnh.
Hiến pháp năm 1992 ra đời tiếp tục là một dấu ấn quan trọng khẳng định sự

quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với những giá trị to lớn của di tích lịch sử - văn
hóa và danh lam thắng cảnh. Tại điều 34 Hiến pháp xác định: “Nhà nước và xã hội
bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu
bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản
văn hóa, các công trình nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh; Nghiêm cấm các hành
động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các
Ngày 11/11/2002 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành nghị định số 92/2002/NĐ-CP quy định chị tiết thi hành một số điều của Luật di
sản văn hóa.
Ngày 24/7/2001Ngày 24/7/2001 Bộ trưởng Bộ văn hóa Thông tin (nay là
Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch) ra quyết định số 1709/2001/QĐ – BVHTT phê
duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hoá và danh
lam thắng cảnh.

15


Ngày 06/02/2002 Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch) ban hành quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử, văn hoá và
danh lam thắng cảnh.
Ngày 18/02/2002, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 05/2002/ CT – TTg về
việc tăng cường các biện pháp pháp lý, bảo vệ cổ vật trong di tích và ngăn chặn đào
bới trái phép các di chỉ khảo cổ học.
Ngày 19/5/2009 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Chỉ thị 73 về
việc tăng cường các biện pháp quản lý di tích và các hoạt động bảo quản, tu bổ và
phục hồi di tích. Chỉ thị 73 đã tạo một hành lang pháp lý chặt chẽ để các đơn vị liên
quan cùng vào cuộc thực hiện kiểm tra, giám sát việc trung tu di tích từ giai đoạn đầu
đến khi hoàn thiện, tránh những sai lầm làm mất đi tính nguyên bản của di tích.
Như vậy, qua sự trình bày ở trên chúng ta có thể thấy rằng sự ra đời của các văn
bản pháp lý từ trước cho đến nay là không hề ít, nhưng trong giới hạn của luận văn

không thể nêu hết cụ thể tất cả các văn bản mà ở đây chỉ nêu điển hình các văn bản đó.
Bởi về cơ bản các văn bản pháp lý ra đời đều là những công cụ trợ giúp đắc lực giúp
nhà nước ta ngày càng hoàn thiện những chính sách nhằm bảo tồn và phát huy những
giá trị của di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử nói riêng.
2.1.5. Nguyên tắc quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Như đã đề cập ở trên quản lý nhà nước về di tích lịch sử là một trong những nội
dung của quản lý nhà nước về văn hóa. Vì vậy quản lý nhà nước về di tích lịch sử
được bao hàm trong quản lý nhà nước về văn hóa nói chung, nó dựa trên nguyên tắc
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo là đề ra đường
lối chính sách, chiến lược, xác định các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ và
các giải pháp lớn để định hướng cho sự phát triển của nền văn hóa thông qua các Nghị
quyết của Đảng, công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng. Đảng không làm
thay nhà nước, nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, thể chế, thiết chế hoạt động
quản lý. Mặt khác, phải phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội, các cộng
đồng dân cư trong việc thực hiện các nhiệm vụ văn hóa.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: Nguyên tắc này được thể hiện trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số khía cạnh cơ bản như sau:

16


- Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước do nhân dân xây dựng
nên. Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc này. Nhân dân bầu ra đại diện cho mình trong cơ quan quyền lực
nhà nước là Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Cơ quan quyền lực nhà nước lại
bầu ra các thành viên của Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp là những cơ quan hành
chính nhà nước, xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trên
nguyên tắc tập trung – dân chủ. Như vậy, nguyên tắc này được tuân thủ trong toàn bộ
máy nhà nước.
- Thứ hai, quyết định của cấp trên, của trung ương buộc cấp dưới, địa phương

phải thực hiện. Đây là biểu hiện của sự tập trung quyền lực vào cơ quan cấp trung
ương, đồng thời dân chủ trong việc huy động sự chủ động, sáng tạo trong thực hiện
quyết định của các cấp địa phương.
- Thứ ba, những vấn đề quan trọng của cơ quan nhà nước phải được đưa ra thảo
luận tập thể và quyết định theo đa số. Đây là biểu hiện của sự tập trung trong việc
thống nhất ý kiến, dân chủ trong việc đóng góp ý kiến và quyết định cuối cùng.
- Thứ tư, mọi vấn đề quan trọng của đất nước phải được Quốc hội thông qua,
trước khi Quốc hội thảo luận và thông qua phải được đưa ra trưng cầu ý kiến của nhân
dân. Biểu hiện của tập trung thông qua quyết định tối cao của Quốc hội, đồng thời dân
chủ thể hiện trong việc lấy ý kiến của nhân dân.
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động của bộ máy nhà nước.
Yêu cầu của nguyên tắc này là nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân
và vì dân, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước nắm quyền thống nhất
quản lý những vấn đề cơ bản, đồng thời giao quyền và trách nhiệm cho địa phương.
Mỗi địa phương hay các đoàn thể có những phương thức lãnh đạo riêng của mình
nhưng không được rời xa các phương hướng chỉ đạo, lãnh đạo của Nhà nước mà đều
dựa trên cơ sở sự quản lý của Nhà nước.
Nguyên tắc quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ: Ở nguyên
tắc này Nhà nước là một thể thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động theo cấp hành
chính nhà nước, thực hiện theo quy định, cấp dưới phục tùng cấp trên. Địa phương
phải phục tùng Trung ương. Hệ thống các di tích lịch sử địa phương vừa chịu sự quản
lý của ngành, vừa chịu sự quản lý về lãnh thổ. Hệ thống hành chính gồm 4 cấp: Trung
17


ương (Quốc hội, Chính phủ, Tỉnh, thành phố, Quận huyện, xã phường. Nguyên tắc này
là sự kết hợp một cách khách quan từ xu hướng chuyên môn hóa theo ngành và phân
bổ sản xuất theo vùng lãnh thổ. Cụ thể là bất cứ hoạt động của đơn vị nào đều chịu sự
quản lý của cơ quan chủ quản và địa phương:
-Địa phương: Quản lý về mặt hành chính và xã hội đối với mọi đối tượng nằm

tại địa phương cũng như quản lý nhà nước về kinh tế đối với tất cả các hoạt động diễn
ra tại địa phương theo mức độ được nhà nước cho phép.
-Bộ, ngành: Chịu trách nhiệm quản lý kỹ thuật của ngành mình.
Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện như sau:
-Thực hiện quản lý đồng thời cả hai chiều: Quản lý theo ngành và quản lý theo
lãnh thổ. Có nghĩa là, các đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời nó
cũng phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số nội
dung theo chế độ quy định.
- Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ, không trùng lặp, bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
-Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ
quản lý theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản hiệp quản, tham quản với cơ
quan nhà nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước. Đồng quản là
cùng có quyền và cùng nhau ra quyết định quản lý theo thể thức liên tịch. Hiệp quản là
cùng nhau ra quyết định quản lý theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của mình
nhưng có sự thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên tương
đắc với nhau. Tham quản là việc quản lý, ra quyết định của mỗi bên phải trên cơ sở
được lấy ý kiến của bên kia.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn
trọng và thực hiện pháp luật xã hội chủ nghĩa một cách tự giác, nghiêm minh, đầy đủ,
thống nhất thông qua những hành vi tích cực của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, chính trị, xã hội, chính trị- xã hội…cũng như mọi công dân với kết quả thực hiện là
sự tôn trọng và thực hiện pháp luật ấy trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội.
Đòi hỏi mọi tổ chức, mọi cơ quan quản lý và cá nhân quản lý phải dựa trên
pháp luật cuả nhà nước đã quy định, tránh sự tùy tiện, đứng ngoài và đứng trên pháp
luật. Nhà nước XHCN là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, pháp luật

18



thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, tuân thủ pháp luật là đòi hỏi bắt
buộc đối với nhà nước. Mặt khác việc thực hiện nguyên tắc này cũng sẽ góp phần
kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước một cách hữu hiệu, ngăn chặn tình trạng tha
hóa quyền lực nhà nước, xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Ở khía
cạnh khác, việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế sẽ tạo ra sự thống nhất, đồng bộ, tránh
sự chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong quá trình tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước là một trong những hoạt động chủ yếu trong bộ
máy nhà nước ta, được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà
nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành pháp luật, nhằm tổ chức và chỉ đạo trực tiếp
và thường xuyên các công việc, nhiệm vụ và chức năng của nhà nước. Trong đó, các
chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng pháp luật với tính chất là phương tiện
quan trọng để đảm bảo thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, phương tiện
này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng và thực hiện nghiêm
chỉnh trên thực tế, tức là phải tôn trọng và thực hiện triệt để và nghiêm chỉnh nguyên tắc
pháp chế XHCN trong quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc này cũng đã được thể
hiện tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quản lý nhà nước về di tích bằng pháp luật và tăng cường pháp chế: Quản lý
nhà nước về di tích lịch sử bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là một nguyên tắc
quan trọng, là nền tảng, căn cứ để quản lý nhà nước về di tích. Mọi người dân đều phải
tuân theo pháp luật, các vấn đề liên quan đến di tích đã được luật định nếu vi phạm thì
xử lý theo pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và hoạt động quản lý nhà
nước về di tích đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Điều đó có nghĩa là hệ thống hành
chính nhà nước phải chấp hành pháp luật. Các cơ quan chức năng về di tích khi ban
hành các quyết định quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của
luật và các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. ( Nguyễn Quốc Việt, 2013).
Để thực hiện nguyên tắc này cần làm tốt những nội dung sau: Tổ chức thực
hiện tốt pháp luật đã ban hành, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về di tích
và tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.

2.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về di tích lịch sử
19


×