Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

đề tài bình đẳng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.84 KB, 14 trang )

1 phần mở đầu
1.1 cơ sở lý luận
Khái niệm bình đẳng giới: là mọi thành viên trong gia đình,
trước mắt là vợ và chồng đều có vai trò, trách nhiệm và quyền lợi
ngang bằng nhau trong học tập lao động, nghỉ ngơi chăm sóc sức
khỏe hưởng thụ văn hóa và tham gia các hoạt động xã hội






Khoản 1 và khoản 3 điều 26 luật hiến pháp 2013 quy định
như sau:
Công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính
sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới
Nghiem cấm phân biệt đói xử về giới
Và quy đinh tại luật lao động như sau

điều 4
: Chính sách của Nhà nước về lao động, quy định: “7. Bảo đảm
nguyên tắc bình đẳng giới; quy định chế độ lao động và chính sách
xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ, lao động là người khuyết tật,
người lao động cao tuổi, lao động chưa thành niên”.
Trong các quyền của người lao động, quan trọng nhất là quyền
được làm việc. Sự bình đẳng nam nữ đối với quyền được làm việc
cũng được thể hiện rất rõ trong Bộ luật Lao động:
Điều 5.
Quyền và nghĩa vụ của người lao động: “1. Người lao động có các
quyền sau đây: a) Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp,
học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối


xử”;
Điều 153


Chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ: “1. Bảo đảm quyền
làm việc bình đẳng của lao động nữ”; và
Điều 154.
Nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với lao động nữ: “1. Bảo
đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác”

Tại bộ luật bình đẳng giới quy định rõ như sau
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Điều 3. Áp dụng điều ước quốc tế về bình đẳng giới
Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới
Điều 5. Giải thích từ ngữ
Điều 6. Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
Điều 7. Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới
Điều 8. Nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Điều 9. Cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Điều 10. Các hành vi bị nghiêm cấm
Chương II
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC LĨNH VỰC
CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ GIA ĐÌNH
Điều 11. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Điều 12. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Điều 13. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
Điều 14. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Điều 15. Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Điều 16. Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao
Điều 17. Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Điều 18. Bình đẳng giới trong gia đình
Chương III


CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI
Điều 19. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Điều 20. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
Điều 21. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật
Điều 22. Thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
Điều 23. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới
Điều 24. Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới
Chương IV
TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, GIA ĐÌNH VÀ CÁ NHÂN
TRONG VIỆC THỰC HIỆN VÀ BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI
Điều 25. Trách nhiệm của Chính phủ
Điều 26. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng
giới
Điều 27. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ
Điều 28. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp
.
Điều 29. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên
Điều 30. Trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Điều 31. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện bình đẳng giới tại cơ
quan, tổ chức mình
Điều 32. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác trong việc thực
hiện bình đẳng giới tại cơ quan, tổ chức mình
.
Điều 33. Trách nhiệm của gia đình
Điều 34. Trách nhiệm của công dân
Chương V
THANH TRA, GIÁM SÁTVÀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Điều 35. Thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
1
Điều 36. Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới


Điều 37. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành vi vi phạm pháp
luật về bình đẳng giới
Điều 38. Tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về
bình đẳng giới
Điều 39. Nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng
giới
Điều 40. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế
Điều 41. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia
đình
Điều 42. Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
1.2 cơ sở thực tiễn
Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau và
có cơ hội như nhau để làm việc và phát triển. Nói bình đẳng giới

không có nghĩa là chỉ đấu tranh quyền lợi cho phụ nữ mà là đấu
tranh cho sự bất bình đẳng của cả hai giới. Nhưng trong thời đại
ngày nay, nhìn chung sự bất bình đẳng xảy ra đối với phụ nữ là đa
số nên người ta nói nhiều đến việc đòi quyền lợi cho phụ nữ. Bình
đẳng giới trong gia đình là các thành viên trong gia đình có sự bình
đẳng với nhau. Cụ thể là mọi công việc trong gia đình đều được các
thanh viên, trước hết là vợ và chồng cùng nhau chia xẻ và cùng
nhau hưởng thụ thành quả từ những công việc đó mang lại. Vợ và
chồng cần phải bình đẳng bàn bạc, quyết định và thực hiện mọi
công việc. Đặc biệt việc nội trợ là hết sức vất vả, tiêu hao nhiều thời
gian và sức lực, đo đó không chỉ người phụ nữ làm mà đòi hỏi phải
có sự tham gia, chia sẻ của chồng và của các thành viên khác.
Trong lĩnh vực dân số - sức khỏe sinh sản, vợ chồng phải cùng
chia sẻ mọi vấn đề ; không nên hướng đối tượng vận động kế hoạch
hóa gia đình chỉ vào phụ nữ, hoặc chủ yếu vào phụ nữ mà làm sao
nhãng trách nhiệm của nam giới. Vợ và chồng phải có bổn phận
như nhau trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai, quyết đinh
sinh con, số con và khoảng cách sinh, trong đó cần hết sức quan tâm


chăm sóc phụ nữ khi mang thai và nuôi con nhỏ. Trong gia đình,
tuyệt đối không phân biệt đối xử giữa con trai và con gái. Con trai
và con gái đều có quyền và trách nhiệm như nhau đối với gia đình
và xã hội. Con gái cũng phải bình đẳng như, không cho tham gia các
hoạt động xã hội. Bạo lực về tình dục như cưỡng ép giao hợp, đòi
hỏi quan hệ khi vợ không muốn, buộc vợ đẻ thêm con, ngăn cản vợ
thực hiện các biện pháp tránh thai...

Phần 2:nguyên nhân và thực trạng
2.1nguyên nhân:


2.1.1 Quan niệm và cách ứng xử của xã hội
Tư tưởng trọng nam khinh nữ còn phổ biến trong xã hội. Giá trị văn
hóa, đạo đức truyền thống mai một. Tình trạng các sản phẩm văn
hóa độc hại không được kiểm soát chặt chẽ, bạo lực gia đình, buôn
bán, xâm hại nhân phẩm, sức khỏe, tình dục phụ nữ - trẻ em, vẫn
đang là vấn đề nổi cộm.
ảnh hưởng khá rõ rệt của chế độ phụ hệ.
Nếp gia trưởng vẫn còn giữ vai trò chủ đạo trong các quan hệ gia
đình, đặc biệt là ở nông thôn. Nói chung đa số phụ nữ giữ một vai
trò thứ yếu so với nam giới trong gia đình suốt cuộc đời của họ.
Thái độ của xã hội muốn phụ nữ đóng một vai trò “thích đáng”
trong gia đình gây rất nhiều khó khăn cho việc giải quyết những
vấn đề phức tạp như bạo lực đối với phụ nữ, ly hôn và nhu cầu của


những người mẹ đơn thân. Do chưa có những nghiên cứu sâu về
các biến động của hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là các hộ gia đình
thuộc các dân tộc thiểu số nên những cố gắng nhằm tăng cường
bình đẳng giới trong quá trình ra quyết định và củng cố vị thế của
phụ
nữ
còn
bị
hạn
chế.
ảnh hưởng của những định hướng giá trị theo lối cổ và rập khuôn.
Những quan niệm xã hội thiên lệch này lại thường bị tác động thêm
bởi những khác biệt về kỹ năng và mức độ tự tin của phụ nữ và
nam giới, kết quả là tình trạng chênh lệch kéo dài nhiều năm giữa

hai giới trong các cơ hội giáo dục, đào tạo, đề bạt vào các cương vị
lãnh
đạo.
Mặc dù phụ nữ thường phải chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới do
các chuẩn mực và các khuôn mẫu về giới, song điều này không có
nghĩa là nam giới không phải chịu và ảnh hưởng. Trên thực tế, thái
độ, cách ứng xử và vai trò của nam giới trong hộ gia đình, trong
cộng đồng và xã hội cũng như thiên hướng nghề nghiệp và tình
trạng thể chất, tinh thần của họ, tất cả đều bị tác động bởi các
chuẩn
mực

định
kiến
về
giới.
Thay đổi quan niệm và cách ứng xử của xã hội là một quá trình lâu
dài và phức tạp, song nó là quá trình mang tính chất nền tảng để
tạo ra và duy trì sự thay đổi thái độ của cá nhân, các tổ chức và
trong toàn cộng đồng.
2.1.2 Nhận thức các vấn đề về giới còn thấp và chưa đầy đủ
Nhận thức giới. Cấp Bộ vẫn chưa có tổ chức chuyên trách về giới để
giải quyết một cách đầy đủ các vấn đề giới trong quá trình lập kế
hoạch tại các đơn vị, thiếu hệ thống giám sát và đánh giá mang tính
nhạy cảm giới. Trong một cuộc điều tra nhận thức và kiến thức về
giới, hầu như tất cả (97%) cán bộ được điều tra đều không biết
hoặc biết rất ít về các khái niệm cơ bản về giới. Ban Vì sự tiến bộ
phụ nữ hoạt động nhưng chỉ là kiêm nhiệm.



2.1.3. Đại diện của phụ nữ ở các cấp ra quyết định trong toàn ngành
còn rất ít
Công tác cán bộ nữ còn nhiều khó khăn, bất cập. Một số chỉ tiêu về
tỷ lệ lãnh đạo nhiều nhiệm kỳ không đạt và có xu hướng giảm. Hiện
có quá ít cán bộ chủ chốt là nữ trong toàn ngành nông nghiệp. Tính
chung tất cả các Cục, Vụ, Viện, Tổng Công ty và các trường trong
ngành chỉ có 5,7% cán bộ lãnh đạo là nữ, thường chỉ là cấp phó và
tương đương. Trên toàn quốc phụ nữ chỉ chiếm 4,5% lãnh đạo các
UBND xã; 4,9% lãnh đạo UBND huyện và 6,4% lãnh đạo UBND tỉnh.
Nhìn tổng thể, tiếng nói của phụ nữ trong việc ra quyết định là yếu
và chưa tương xứng với khối lượng công việc và trách nhiệm mà họ
gánh vác
.
Mặc dù các chính sách và các văn bản quy định trong quản lý và
phát triển nguồn nhân lực được coi là “bình đẳng” hoặc đôi khi còn
được coi là ưu tiên phụ nữ, song trên thực tế vẫn còn biểu hiện tư
tưởng trọng nam khinh nữ trong công tác tuyển dụng, quy hoạch và
đề bạt cán bộ, đồng thời một số chính sách như tuổi về hưu, quy
định tuổi đề bạt làm hạn chế sự tham gia của phụ nữ ở các cấp ra
quyết định. Tất cả những điều này đã dẫn đến kết quả là quá it cán
bộ chủ chốt là nữ trong toàn ngành.
Tình trạng quá ít cán bộ là nữ tạo nên một nếp văn hóa của tổ chức
mà từ nhiều phương diện có thể coi là thuận lợi hơn cho nam giới.
Tình trạng thiếu nhận thức về giới cũng như thiếu các kỹ năng để
giải quyết các vấn đề về giới phổ biến ở khắp các đơn vị nên dẫn
đến kết quả là các vấn đề giới ít được quan tâm và đề cập đến trong
các chiến lược và các dịch vụ công của ngành.
Phụ nữ và nam giới cũng thường có tiếng nói khác nhau trong quá



trình ra quyết định ở cấp hộ gia đình và cấp cộng đồng. Sự khác biệt
giữa phụ nữ và nam giới tồn tại ở những mức độ khác nhau tùy
theo vùng, theo nhóm dân tộc và đôi khi nó tồn tại ở các địa phương
khác nhau trong cùng một vùng. Song trong hầu hết các cộng đồng,
các chính sách đem lại lợi ích cho cộng đồng thường được soạn
thảo và quyết định bởi lãnh đạo cộng đồng. Nói chung phụ nữ có rất
ít đại diện trong các ban lãnh đạo cộng đồng. Nhìn tổng thể, tiếng
nói của phụ nữ trong việc ra quyết định là yếu tố chưa tương xứng
với khối lượng công việc và trách nhiệm mà họ gánh vác. Đặc biệt
trong các hộ gia đình nghèo ở nông thôn, quan niệm mang tính
truyền thống và vai trò giới thường dẫn đến kết quả là người đàn
ông chỉ huy cả hộ gia đình và ít khi có các trường hợp ngoại lệ.
2.1.4. Bất bình đẳng trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực chủ
yếu
Phụ nữ còn chịu nhiều bất lợi trong việc học tập, nâng cao trình độ,
kỹ năng nghề nghiệp trong điều kiện cạnh tranh xã hội ngày càng
cao. Lực lượng lao động nữ tuy đông về số lượng nhưng tỷ lệ qua
đào tạo thấp nên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Số lao động
nữ có bằng cấp chuyên môn chỉ đạt 11,1%, tỷ lệ lao động nữ chưa
qua đào tạo nghề còn cao (70,9% so với 59,9% lao động nam), đặc
biệt là lao động nữ nông thôn, độ tuổi trung niên, phụ nữ dân tộc
thiểu số; tỷ lệ lao động nữ làm các công việc giản đơn chiếm tới
42,9% (so với 36,2% lao động nam).
Khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các nhóm phụ nữ, các
vùng miền còn lớn. Đời sống của một bộ phận phụ nữ, đặc biệt nữ
công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, nữ lao
động di cư tự do… thực sự khó khăn, vất vả, bấp bênh, việc làm
không ổn định, thu nhập thấp, điều kiện sinh hoạt tối thiểu không



đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần nghèo nàn. xuất hiện tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh; tình trạng nạo phá thai, đặc
biệt ở tuổi vị thành niên ở mức báo động; tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV có
xu hướng tăng (từ 19,65% năm 2006 lên 31% năm 2011). Thiếu
các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để phụ nữ có thể vừa làm tốt
công việc xã hội vừa thực hiện việc chăm lo gia đình. Dịch vụ gia
đình và phúc lợi xã hội hỗ trợ gia đình và phụ nữ chưa được quan
tâm đúng mức; tình trạng thiếu nhà trẻ, mẫu giáo còn phổ biến ở
hầu hết các địa phương và các khu công nghiệp (tỷ lệ trẻ dưới 36
tháng đến trường chỉ đạt 18%) là khó khăn, thách thức lớn đối với
các gia đình, đặc biệt là người mẹ.
Mặc dù có những tiến bộ rõ rệt trong việc cải thiện địa vị của đại đa
số dân cư , song vẫn còn những chênh lệch giữa phụ nữ và nam giới
trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực chủ yếu. Cụ thể là
khả năng tiếp cận và kiểm soát đối với đất đai, nguồn nước, tín
dụng, các tư liệu sản xuất, các kỹ năng và thông tin. Cải thiện khả
năng tiếp cận của phụ nữ với các nguồn lực trên có thể đem lại các
tiềm năng sản xuất mới, nâng cao hiệu quả quản lý, phân phối đều
thu nhập hơn, kết hợp với phát triển nguồn nhân lực, những tác
động tích cực này sẽ thúc đẩy tăng trưởng mạnh.
Trong thực tế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chung của hộ
gia đình cũng như sổ địa chính của địa phương chỉ đăng ký tên chủ
hộ là nam giới chiếm đại đa số. Chính điều này làm quyền lợi của
phụ nữ kém hẳn nam giới, gây bất bình đẳng giới nặng nề. Tình
trạng này đã gây khó khăn cho phụ nữ nhất là khi họ cần thế chấp
quyền sử dụng đất để vay vốn, chia đất khi ly hôn, khi lấy chồng
hoặc thừa kế đất khi người chồng qua đời. Phần lớn phụ nữ khó
đáp ứng được đầy đủ các điều kiện vay vốn tín dụng chính thức vì
họ không phải là chủ hộ và không đứng tên trên giấy chứng nhận



quyền sử dụng đất. Việc phụ nữ không được hưởng các quyền mà lẽ
ra họ phải được hưởng từ chính sách giao đất đã làm hạn chế phần
nào những tác động của chính sách đổi mới này đối với sự tăng
trưởng
trong
hoạt
động
kiinh
tế
Về mặt tiếp cận các dịch vụ tín dụng: Mặc dù pháp luật và chính
sách của Nhà nước đều khẳng định phụ nữ và nam giới phải được
bình đẳng trong việc tiếp cận tín dụng, song vẫn có những chênh
lệch đáng kể trong việc áp dụng các điều luật và chính sách trong
lĩnh vực này. Thêm vào đó, phần lớn phụ nữ khó đáp ứng đầy đủ các
điều kiện vay vốn tín dụng chính thức vì họ không phải là chủ hộ và
không đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2.1.5 Thiếu năng lực và hệ thống thể chế để hòa nhập giới trong
việc lập kế hoạch và xây dựng thể chế
Sự hạn chế về năng lực thể chế hiện nay về hòa nhập giới trong các
hoạt động là do thiếu nguồn lực, do các thủ tục thể chế, các chuẩn
mực và nếp văn hóa của tổ chức.
Các vấn đề về giới chưa được xem xét một cách hệ thống trong quá
trình lập kế hoạch và cải cách hành chính cũng như trong một hệ
thống báo cáo và các chỉ số thực hiện của các đơn vị. Số liệu thống
kê có phân tách nam nữ rất ít khi được thu thập, phân tích và sử
dụng để cải tiến hoạt động. Năng lực hoạt động vì bình đẳng giới
của các đơn vị chỉ giới hạn ở một số thành viên đã được đào tạo về

kỹ năng phân tích và hòa nhập giới. Do vậy, nhiều cơ hội để hòa
nhập giới vào các kế hoạch hàng năm, quá trình cải cách hành
chính đã bị bỏ lỡ.


2.2 thực trạng
Từ lâu, các cấp ủy Đảng và chính quyền trong tỉnh ta rất quan tâm
đến vấn đề bình đẳng giới, xem đây là một trong những mục tiêu
xuyên suốt trong tiến trình phát triển của địa phương. Cùng với sự
nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành và cộng đồng xã hội, đến
nay nhiều thành tựu về bình đẳng giới từng bước đã được khẳng
định.
Đặc biệt, với sự ra đời của Luật Bình đẳng giới và các hoạt động vì
sự tiến bộ của phụ nữ đã giúp tỉnh nhà đang từng bước thực hiện
có hiệu quả việc thúc đẩy bình đẳng giới.
Mặc dù tình hình kinh tế của địa phương đang có phát triển, nhưng
về mặt xã hội, một số nơi vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng Nho giáo nên việc thực hiện bình đẳng giới vẫn còn nhiều
thách thức, định kiến về giới còn tồn tại trong một bộ phận nhân
dân.
Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là vợ chồng có quyền lợi và
nghĩa vụ ngang nhau trong các hoạt động của gia đình, có ý thức
trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách công bằng
như: Quyền quyết định số con, khoảng cách sinh, việc chăm sóc và
nuôi dạy con cái… trên cơ sở chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, tạo sự đồng
thuận. Sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của cả vợ và chồng
giúp cho sự phát triển của gia đình được ổn định và bền vững.
Ngày nay, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội nói chung và
gia đình nói riêng đã được nâng lên rất nhiều so với trước. Toàn
tỉnh, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy và giữ vai trò lãnh đạo trong các cơ

quan chiếm tỷ lệ trên 20%, đánh dấu bước phát triển quan trọng
trong việc nâng cao nhận thức về giới trong sự phát triển của xã hội
nói chung và gia đình nói riêng.
Tuy nhiên, xét về thực trạng vấn đề giới vẫn còn những bức xúc
trong gia đình như: Phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là
chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh


con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình; tình trạng
bạo lực trong gia đình vẫn còn tồn tại và xảy ra ở một số nơi…
Theo số liệu thống kê, trong 5 năm qua, toàn tỉnh xảy ra trên 100 vụ
bạo lực gia đình mà nạn nhân là phụ nữ. Nguyên nhân chính dẫn
đến bất bình đẳng giới trong gia đình là do ảnh hưởng của tư
tưởng phong kiến gia trưởng cùng với sự thay đổi chậm chạp của ý
thức xã hội và hầu như nam giới chưa thay đổi quan niệm trụ cột
của mình với gia đình, chính họ đã tự đặt cho mình trọng trách lớn.
Phụ nữ thì còn tự ti, luôn nghĩ mình là người hỗ trợ cho vai trò trụ
cột của chồng.
Đối với những gia đình ở khu vực nông thôn, sự chuyển dịch lao
động từ nông thôn ra thành thị đã làm cho những người phụ nữ ở
lại địa phương thêm gánh nặng, vừa đảm nhận lao động sản xuất
vừa lo toan việc nội trợ.
Mặt khác, trình độ học vấn cũng góp phần quan trọng trong việc
tạo quyền quyết định trong gia đình. Nếu trong gia đình cả hai vợ
chồng có học vấn cao thì sự bàn bạc, thỏa thuận chiếm tỷ lệ lớn; nếu
người vợ có trình độ học vấn thấp thì quyền quyết định mọi mặt chủ
yếu vẫn là chồng và ngược lại. Về vấn đề kinh tế gia đình cũng là
nguyên nhân dẫn đến mất bình đẳng trong gia đình.
Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình giúp con cái mỗi gia đình
được nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo, học hành tốt, lớn lên trở thành

những công dân tốt của xã hội. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình
đối với con cái là môi trường quan trọng giúp mỗi người hòa nhập
vào cộng đồng và xã hội, thích ứng với đòi hỏi về nghề nghiệp, đạo
đức, vốn sống của mỗi người và giúp con cái tránh những tệ nạn xã
hội nảy sinh.
Quá trình xã hội hóa giáo dục được tạo bởi 3 môi trường: Gia đình,
nhà trường và xã hội, trong đó gia đình là môi trường đầu tiên có
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi
người. Sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau của mỗi thành viên trong gia
đình giúp mỗi người có điều kiện phát triển toàn diện về thể chất,
trí tuệ lẫn tinh thần


3 tổng kết
3.1 giải pháp đưa ra
Để thực hiện bình đẳng giới trong gia đình hiện nay, thiết nghĩ cần
thực
hiện
những
giải
pháp
như
sau:
Thứ nhất: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề
giới, bình đẳng giới trong gia đình được quy định trong các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


Xem việc thực hiện bình đẳng giới là một công việc lâu dài và cần sự
phối hợp đồng bộ của toàn xã hội. Từ đó mỗi người ý thức tốt về

vấn đề bình đẳng giới trong gia đình. Trách nhiệm bình đẳng giới
không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân, mà là trách nhiệm của
mỗi gia đình và toàn xã hội; là cơ sở quan trọng để xây dựng gia
đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
Hai là: Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi phụ nữ ý thức và tự phấn đấu
vươn lên, tự giải phóng mình; không ngừng cố gắng học tập nâng
cao kiến thức để khẳng định vai trò, ví trí của mình trong gia đình
và ngoài xã hội.
Ba là: Đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường
(đặc biệt là các trường THPT), giúp cho thanh, thiếu niên nhận thức
được những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ
thống; giúp các em ý thức được trách nhiệm trong việc xây dựng
gia đình sau này.
Bốn là: Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò gia đình và
bình đẳng giới. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý về bình đẳng
giới. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ các hành vi bạo lực gia đình. Gia
đình là tế bào của xã hội, mỗi thành viên trong gia đình được bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau thì xã hội sẽ công bằng và văn minh.
=>Để có được bình đẳng giới bền vững trong xã hội phải bắt đầu từ
trong mỗi gia đình. Thực hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình là
biện pháp hữu hiệu để xây dựng một xã hội no ấm, bình đẳng, tiến
bộ và hạnh phúc.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×