Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn tỉnh thái nguyên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 99 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN TH THU H

CáC TộI XÂM PHạM TRậT Tự QUảN Lý HàNH CHíNH
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn tỉnh Thái Nguyên)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN TH THU H

CáC TộI XÂM PHạM TRậT Tự QUảN Lý HàNH CHíNH
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn tỉnh Thái Nguyên)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS. TRNH QUC TON

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Thu Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM ................................................................................... 9
1.1.


Khái niệm, đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính ........................................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý hành chính ................................................... 9
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính theo Luật hình sự Việt Nam ..................................................... 10
1.2.

Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính ......................................................................................... 15

1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
có Bộ luật hình sự năm 1985 .............................................................. 15
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay .......... 19
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .....................................................................24
2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính............................................................... 24

2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý chung của các tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính ............................................................................. 24


2.1.2. Hình phạt quy định áp dụng đối với các tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính ............................................................................. 34
2.2.


Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên............. 40

2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình tội phạm của tỉnh
Thái Nguyên ....................................................................................... 40
2.2.2. Kết quả đạt được và những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong
việc giải quyết các vụ án xâm phạm trật tự quản lý hành chính ........ 42
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực
tiễn xét xử các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính ................... 57
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC ÁP DỤNG ..................................................................... 64
3.1.

Những điểm mới sửa đổi, bổ sung về các tội xâm phạm trật
tự quản lý hành chính trong Bộ luật hình sự năm 2015 ............... 64

3.2.

Quan điểm cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước trong
việc xử lý tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính nói riêng .............................................. 70

3.3.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính ......................................................................................... 72


3.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản
lý hành chính ...................................................................................... 72
3.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định bộ luật
hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính ................... 74
3.3.3. Tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân về các tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính ......................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

Nxb:

Nhà xuất bản

PGS:

Phó giáo sư

PLHS:


Pháp luật hình sự

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TS:

Tiến sĩ

TTQLHC: Trật tự quản lý hành chính
VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1 Tổng số vụ án và tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội
xâm phạm trật tự quản lý hành chính từ 2011-2015 trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên

Trang

44


Bảng 2.2 Số lượng các vụ án về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính bị đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

47

Bảng 2.3 Cơ cấu từng loại tội phạm về các tội xâm phạm TTQLHC từ
năm 2011-2015 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

45

Bảng 2.4 Phân tích kết quả giải quyết 102 vụ án hình sự sơ thẩm về
các tội xâm phạm TTQLHC trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ
2011-2015

46

Bảng 2.5 Chế tài hình sự được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

48

Bảng 2.6 Những đặc điểm của người phạm tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính bị đưa ra xét xử từ 2011–2015 tại tỉnh Thái Nguyên

49


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu


Tên biểu đồ

Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ số vụ án sơ thẩm về các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính trong tổng số các vụ án hình sự sơ thẩm trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011- 2015

Trang

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống
nhân dân nâng cao, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có
tiến bộ đáng khích lệ, vị thế nhà nước Việt Nam trên thế giới tăng lên. Có thể
thấy mọi chủ trương chính sách, đường lối của Đảng đều nhằm mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đảm bảo
thực hiện chủ trương đó trên thực tế, nhà nước ta đã củng cố và triển khai
những chính sách nhằm bảo vệ con người về mọi mặt.
Trong quá trình quản lý xã hội, tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật của nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng, tạo khuôn
khổ, hành lang pháp lý từng bước hoàn chỉnh hơn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý điều hành của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, đẩy mạnh phát triển kinh
tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, từng bước hòa nhập với
sự phát triển chung trên thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mặt trái của nền

kinh tế thị trường, sự phân hóa xã hội, sự du nhập của các yếu tố văn hóa
không lành mạnh... đã có những tác động tiêu cực đến xã hội của chúng ta.
Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp nghiêm trọng. Các hình thức phạm tội và tính chất tội phạm có
nhiều biểu hiện đáng lo ngại, ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết cho công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình tội phạm trên địa bàn nước

1


ta ngày càng có xu hướng gia tăng về số lượng, phức tạp và tinh vi hơn về thủ
đoạn và hình thức. Song song với thực trạng đó thì luật pháp - cán cân công lý
luôn bám sát tình hình tội phạm và có những quy định, sửa đổi phù hợp nhằm
đạt được hiệu quả phòng, chống, ngăn ngừa và trừng trị thích đáng. Một trong
những nhóm tội phạm có xu hướng gia tăng đó là các tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính. Nếu như trước đây các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính chỉ xảy ra ở một số địa phương, với tính chất đơn giản, mức độ nguy
hiểm thấp thì hiện nay loại tội phạm này đã xảy ra hầu hết ở các địa phương,
mức độ nguy hiểm ngày càng cao và để lại hậu quả nghiêm trọng.
Các hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính rất đa dạng,
phức tạp và xảy ra thường xuyên hàng ngày, hàng giờ trên nhiều lĩnh vực, với
tính chất và mức độ khác nhau, nhưng chỉ quy định một số hành vi xâm phạm
một số lĩnh vực trật tự quản lý hành chính là hành vi tội phạm. Thực tiễn cho
thấy, việc phân biệt các hành vi vi phạm các quy định về trật tự quản lý hành
chính với hành vi phạm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong nhiều
trường hợp không dễ dàng, có trường hợp hành vi xâm phạm các quy định trật
tự quản lý hành chính lẽ ra phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại chỉ
xử phạt hành chính, ngược lại có những hành vi chỉ đáng xử phạt hành chính
thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, các quy định của Nhà nước

về quản lý hành chính luôn thay đổi cho phù hợp với tình hình phát triển của xã
hội, có hành vi xâm phạm nay là hành vi phạm tội nhưng ngày mai không còn
là hành vi phạm tội nữa vì do sự chuyển biến của tình hình hoặc Nhà nước
không quy định hành vi đó là hành vi vi phạm nữa, ngược lại, có hành vi trước
đây không bị coi là hành vi phạm tội nhưng nay lại bị coi là hành vi phạm tội.
Do đó thực tiễn xét xử không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng lúng
túng trong việc xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du, với dân số khoảng 1,2 triệu người, là

2


một trung tâm kinh tế, văn hóa của các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt với hệ
thống rất nhiều các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các
khu công nghiệp trọng điểm..., thu hút rất nhiều công nhân, học sinh, sinh
viên đến từ nhiều tỉnh khu vực phía Bắc. Điều kiện này dẫn đến những cơ hội
phát triển cho tỉnh, nhưng cũng đồng thời mang lại những yếu tố gia tăng tội
phạm, trong đó có các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
cho thấy, trong những năm qua các cơ quan tiến hành tố tụng đã có vai trò
tích cực trong việc đấu tranh, ngăn chặn các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính. Tòa án nhân dân các cấp trong tỉnh Thái Nguyên thời gian qua đã
không ngừng thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử
các vụ án, phòng ngừa khả năng kết án oan người không có tội hay bỏ lọt tội
phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ
quan, bảo đảm các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ
hiểu, có sức thuyết phục cao, có tính khả thi và được dư luận xã hội đồng tình,
ủng hộ. Tuy nhiên việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính còn chậm, nhiều trường hợp xử lý thiếu chính xác, án về
các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính bị sửa, hủy vẫn còn. Nguyên

nhân của tình trạng nêu trên là trong các quy định của Bộ luật hình sự về các
tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính còn có những bất cập, nhiều quy định
còn chưa được giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất, bên cạnh đó những
hạn chế về năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, hạn chế về điều
kiện vật chất, phương tiện phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đã phần
nào làm cho hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính chưa cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
trong Bộ luật hình sự hiện nay, thông qua đó để kiến nghị đề xuất sửa đổi các

3


quy định của Bộ luật hình sự và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính là vấn đề mang
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết hiện nay. Từ những lý do trên đây, tác
giả quyết định chọn đề tài “Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn tỉnh Thái Nguyên)” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, các nhà khoa học đã có một số công trình nghiên cứu
về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính được đăng trong các giáo trình,
sách tham khảo, các bài viết, bình luận, công trình nghiên cứu khoa học như:
a) Luận văn thạc sĩ của Bùi Hữu Hùng, Viện Nhà nước và Pháp luật,
Thực trạng, nguyên nhân tội chống người thi hành công vụ và các biện pháp
phòng ngừa, năm 1993; Luận văn thạc sĩ của Đỗ Hoàng Yến, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Tội chống người thi hành công vụ - Thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp, năm 1996; Luận văn thạc sĩ của Đào Bá Sơn, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Đấu tranh phòng, chống người thi hành công vụ ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, năm 2009; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Hạ, Khoa

Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
trong luật hình sự Việt Nam, năm 2015; Luận văn thạc sĩ của Phạm Văn Sính,
Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Các tội xâm phạm bí mật Nhà nước
trong luật hình sự Việt Nam, năm 2015…
b) TS. Trần Minh Hưởng, Tìm hiểu các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng và TTQLHC, Nxb. Dân tộc, Hà Nội, 2004; LS.TS
Nguyễn Đức Mai, Tìm hiểu các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng và TTQLHC, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2014); Nguyễn Hữu
Minh, Về mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ trong BLHS

4


năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24(12)/2005; Đỗ Đức Hồng Hà, Xử lý
đối với hành vi dùng vũ lực chống người thi hành công vụ, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 7(4)/2005; Phạm Văn Báu, Tội chống người thi hành công vụ và
một số tội khác có dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự
Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 6/2005…
Việc nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLHC của các tác giả trên,
tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng lại chủ yếu là bình luận,
nghiên cứu về khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt; tình tiết
định khung, định tội hoặc đề cập riêng đến tội chống người thi hành công vụ
(Điều 257 BLHS) và các biện pháp tổ chức phòng ngừa (Tội phạm học) và
trên một địa bàn cụ thể; hoặc về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
trong luật hình sự Việt Nam ở khía cạnh pháp lý hình sự trong nhóm tội xâm
phạm TTQLHC mà chưa có đề tài nghiên cứu một cách tổng thể về các tội
xâm phạm TTQLHC, đặc biệt là nghiên cứu theo góc độ BLHS năm 1999 đã
được sửa đổi năm 2009, BLHS năm 2015 và với tình hình thực tiễn trên một

địa bàn cụ thể là tỉnh Thái Nguyên. Chính vì vậy việc tác giả lựa chọn vấn đề
nghiên cứu như trên càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích nghiên cứu
Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính, mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định các tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính và thực tiễn xét xử, đấu tranh phòng,
chống tội phạm này. Thông qua việc làm sáng tỏ thực trạng về tình hình
các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính ở Thái Nguyên từ năm 2011
đến năm 2015 để đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nâng cao
chất lượng và hiệu quả của việc xét xử đối với tội phạm này, qua đó hạn chế

5


oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn xét xử. Trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, học viên chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề về các tội xâm
phạm TTQLHC dưới góc độ Luật hình sự, chủ yếu trên cơ sở các quy định
trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, tác giả đặt cho mình những nhiệm vụ cần
phải giải quyết sau:
- Làm rõ khái niệm trật tự quản lý hành chính, tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý hành chính; lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội phạm này;
- Phân tích, làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính theo Luật hình sự hiện hành của nước ta; hình
phạt đối với tội phạm và phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử loại tội phạm này
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
- Đề xuất các kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện BLHS năm 2015 và
một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên

phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói chung.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở của Bộ luật Hình sự Việt
Nam năm 1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 và những văn bản pháp luật
có liên quan; tình hình thực hiện hoạt động này trên thực tế tại Thái Nguyên;
đưa ra những hạn chế, bất cập và các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm này.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu và giải quyết các vấn đề
xung quanh các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính qua thực tiễn xét xử
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015.

6


6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về xây dựng Nhà nước pháp luật, về chính sách hình sự, đặc biệt là về đường
lối đấu tranh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, có sự quản lý
của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về
các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính; số liệu thống kê, báo cáo tổng
kết của các cơ quản bảo vệ pháp luật về tội phạm này.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong
khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của
khoa học Luật hình sự như: Hệ thống, lịch sử, logic, thống kê, phân tích, tổng
hợp, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh pháp luật…

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ và bổ sung vào khoa học
pháp lý hình sự. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán
bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa
học luật hình sự nói riêng và cho cán bộ thực tiễn đang công tác tại Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án…
Ngoài ra, luận văn có thể là cơ sở cho việc hoạch định và thực thi
nhiệm vụ đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội xâm phạm trật
tự quản lý hành chính trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Thông qua kết
quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của
mình vào việc phát triển khoa học luật hình sự nói chung, về các tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính nói riêng.
7


8. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính trong Bộ luật hình sự năm 2015 và giải pháp nâng cao hiệu quả
việc áp dụng.

8


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính
1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý hành chính
Cụm từ trật tự quản lý hành chính (TTQLHC) được ghép từ 3 từ ghép:
“trật tự”, “quản lý” và “hành chính”. Tuy nhiên, để hiểu được thế nào là trật
tự quản lý hành chính cần làm rõ được quản lý hành chính là gì.
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt
động tác động một cách có tổ chức và định hướng chủ thể quản lý tới những
đối tượng quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục
tiêu nhất định đã đề ra. Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã
hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp
với quy luật khách quan. Quản lý được xem là quá trình “tổ chức và điều
khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”, đó là sự kết hợp giữa trí
thức và lao động trên phương diện điều hành. Dưới góc độ xã hội: quản lý là
điều hành, điều khiển, chỉ huy. Quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống
hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương
ứng cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo đúng ý muốn của người
quản lý nhằm đạt được mục đích đã đặt ra từ trước. Khi xã hội càng phát triển
cao thì vai trò của quản lý càng lớn và nội dung càng phức tạp. Cho nên có
thể hiểu “Quản lý hành chính của nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành
pháp của nhà nước bằng sự tác động có tổ chức và điều chỉnh trên cơ sở pháp

9


luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ

quan trọng trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước”.
Do đối tượng của quản lý hành chính là tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… Và quản lý
hành chính không chỉ là tổ chức, điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn phải liên
kết, phối hợp các lĩnh vực thành một thể thống nhất để đảm bảo xã hội phát
triển đồng bộ, cân đối, có hiệu quả đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong
xã hội. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước luôn mang tính quyền lực nhà
nước và được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước trên cơ sở pháp luật và
được tuân theo một trình tự nhất định. Cho nên, trật tự quản lý hành chính là
trình tự thực thi quyền quản lý hành chính trên cơ sở pháp luật đối với hành
vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ
thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện
những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính theo Luật hình sự Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm TTQLHC
Hiện nay, trong các Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm) và các sách báo chí, dưới góc độ khoa học, các tội xâm phạm
TTQLHC cũng đã được đề cập bởi các nhà nghiên cứu lý luận, thực tiễn khác
nhau. Chẳng hạn, có quan điểm nêu:
Các tội xâm phạm TTQLHC là các hành vi nguy hiểm cho
xã hội, xâm phạm một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất là
TTQLHC; tức là xâm phạm hoạt động đúng đắn và bình thường
của các cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý của các cơ
quan này [25, tr. 296];

10



Các tội xâm phạm TTQLHC là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được quy định tại Chương XX của Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các quy định của Nhà nước về trật tự quản lý
hành chính [41, tr. 520].
Nói chung các quan điểm đều phản ánh nội hàm khái niệm TTQLHC. Tuy
nhiên ở chừng mực nhất định, có quan điểm lại chưa đề cập đến yếu tố “Chủ thể
của tội phạm” hay có đề cập nhưng lại chưa nhắc đến dấu hiệu “đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự” của chủ thể hoặc có quan điểm trong khái niệm các tội xâm
phạm TTQLHC chưa khẳng định rõ khách thể của tội phạm này – có nghĩa là các
tội phạm này xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về TTQLHC.
Trên cơ sở quy định của Điều 8 BLHS, các tội xâm phạm trật tự quản
lý hành chính là những hành vi vi phạm hành chính tác động vào trật tự quản
lý hành chính làm cho công tác quản lý hành chính nhà nước không theo trình
tự mà pháp luật quy định gây nên những thiệt hại đáng kể cho lợi ích nhà
nước, xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đến mức được coi là tội
phạm và cần phải xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế về hình sự. Cho nên,
các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội, xâm phạm đến một nhóm các quan hệ xã hội về trật tự quản lý hành
chính, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan hành chính nhà
nước và gây những thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước bằng việc làm giảm
hiệu lực quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước đối với xã hội và cuộc
sống của nhân dân.
1.1.2.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Từ khái niệm trên ta có thể thấy, các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính có đầy đủ các
đặc điểm của tội phạm nói chung. Theo các nhà luật hình sự hiện nay, tội
11



phạm bao gồm dấu hiệu cơ bản là: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Thứ hai, tính chất chung của các tội phạm này là xâm phạm tới các
quan hệ xã hội về trật tự quản lý hành chính, xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn của các cơ quan hành chính nhà nước và gây những thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước.
Có thể thấy, giữa tội phạm nói chung và các tội xâm phạm TTQLHC nói
riêng với vi phạm hành chính có những đặc điểm và nét tương đồng, rất khó để
xác định ranh giới. Tội phạm hay vi phạm hành chính đều là vi phạm pháp luật.
Dấu hiệu cơ bản để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm là mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Là tội phạm thì hành vi đó phải
gây “nguy hiểm đáng kể” cho xã hội. Nguy hiểm đáng kể ở đây là theo Bộ
luật hình sự. Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn
tội phạm hình sự. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm được
đánh giá ở nhiều yếu tố khác nhau và những yếu tố này thường được quy định
trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để xác
định, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền dựa trên sự nhận thức về ranh giới giữa
vi phạm hành chính và tội phạm, đã được quy định cụ thể ở Bộ luật hình sự,
các nghị định, thông tư hướng dẫn trong các trường hợp cụ thể. Mức độ gây
thiệt hại biểu hiện ở dưới các hình thức khác nhau như mức độ gây thương tật,
giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng phạm pháp [45].
Trong nhiều trường hợp giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự
chỉ là một ranh giới mỏng manh mà vượt qua nó là vi phạm hành chính có thể
chuyển hóa thành tội phạm hình sự trong những điều kiện nhất định. Những
điều kiện đó có thể là: tái phạm, vi phạm nhiều lần hoặc có tính chất chuyên
nghiệp, vi phạm với số lượng lớn, vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng .v.v.
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi vi phạm hành chính đều có thể
chuyển hoá thành tội phạm. Trên thực tế, có loại vi phạm hành chính không
12



thể và không bao giờ có thể chuyển hoá thành tội phạm cho dù trong bất cứ
điều kiện nào. Đây là những hành vi vi phạm nhỏ nhặt, mức độ nguy hiểm
cho xã hội không cao hoặc không đáng kể. ví dụ như hành vi đổ rác bừa bãi
làm mất vệ sinh chung; khạc nhổ nơi công cộng; tiểu tiện, đại tiện trên đường
phố, nơi công cộng...
Vi phạm hành chính và tội phạm rất gần nhau. Trong những điều kiện
nhất định thì vi phạm hành chính có thể chuyển hoá thành tội phạm. Trước
hết và chủ yếu, sự chuyển hoá vi phạm hành chính thành tội phạm được thực
hiện dựa trên cơ sở có sự biến đổi tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vi phạm hành chính theo hướng cao hơn, nghiêm trọng hơn. Sự
chuyển hoá vi phạm hành chính thành tội phạm cũng phụ thuộc vào tính chất,
đặc điểm và tầm quan trọng của nhóm quan hệ xã hội cũng như yêu cầu cần
bảo vệ các quan hệ xã hội đó. Ví dụ như trước thời điểm ban hành Bộ luật
hình sự 1999, nhóm quan hệ xã hội liên quan đến môi trường chủ yếu được
bảo vệ bằng các biện pháp phi hình sự, trong đó có biện pháp xử phạt hành
chính; đến năm 1999, khi vấn đề ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn nạn thì
việc bảo vệ môi trường bằng biện pháp mạnh mẽ hơn, nghiêm khắc hơn đã trở
nên rất cần thiết và vì vậy, Quốc hội đã quyết định hình sự hoá một số hành vi
vi phạm về môi trường. Tại đây, chủ yếu phân tích các dạng thức thể hiện sự
chuyển hoá vi phạm hành chính thành tội phạm đã được ghi nhận trong các
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành.
Một trong những điểm sửa đổi, đổi mới cơ bản liên quan đến việc xác
định các tội danh của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm
1985 là việc quy định tình tiết định tội “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi
phạm”ở khá nhiều tội danh, hay nói cách khác, một hành vi vi phạm hành
chính sẽ bị chuyển hóa thành tội phạm trong trường hợp người thực hiện hành
vi vi phạm hành chính đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hành chính
mà còn vi phạm. Qua nghiên cứu Bộ luật hình sự cho thấy có 64 tội danh mà

13


trong cấu thành cơ bản có quy định việc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm” và 01 tội danh quy định việc “đã được giáo dục nhiều
lần và đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh mà
còn vi phạm” như một yếu tố cấu thành tội phạm thuộc 8 nhóm tội thuộc các
lĩnh vực: bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân; sở hữu; hôn nhân và gia
đình; quản lý kinh tế; bảo vệ môi trường; trật tự an toàn công cộng; trật tự
quản lý hành chính; phòng chống ma túy. Trong các trường hợp này, một
hành vi vi phạm lần đầu được coi là vi phạm hành chính, nhưng nếu tái phạm
(đã bị xử phạt về hành vi này mà còn vi phạm) thì trở thành tội phạm. Ví dụ,
hành vi gây rối trật tự công cộng không gây hậu quả nghiêm trọng là vi phạm
hành chính, nhưng nếu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm thì chuyển thành tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều
245 Bộ luật hình sự hiện hành.
Thực tiễn cho thấy, việc phân biệt các hành vi vi phạm các quy định về
trật tự quản lý hành chính với hành vi phạm tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính trong nhiều trường hợp không dễ dàng, có trường hợp hành vi xâm phạm
các quy định trật tự quản lý hành chính lẽ ra phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự nhưng lại chỉ xử phạt hành chính, ngược lại có những hành vi chỉ đáng xử
phạt hành chính thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, các quy định
của Nhà nước về quản lý hành chính luôn thay đổi cho phù hợp với tình hình
phát triển của xã hội, có hành vi xâm phạm nay là hành vi phạm tội nhưng ngày
mai không còn là hành vi phạm tội nữa vì do sự chuyển biến của tình hình hoặc
Nhà nước không quy định hành vi đó là hành vi vi phạm nữa, ngược lại, có
hành vi trước đây không bị coi là hành vi phạm tội nhưng nay lại bị coi là hành
vi phạm tội. Ví dụ ở BLHS năm 2015, hành vi không chấp hành các quyết
định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ
sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính trước đây được coi là


14


tội phạm thì nay không còn bị coi hành vi phạm tội. Đối với biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, theo quy định tại các Điều 99, 100, 101,
102, 104 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thẩm quyền áp dụng
các biện pháp này do Tòa án quyết định. Do đó, nếu không chấp hành quyết
định của Tòa án thì được xác định là tội không chấp hành án (Điều 304 BLHS
năm 1999). Mặt khác, đối với biện pháp quản chế hành chính, theo Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính, quản chế hành chính là biện pháp do chủ tịch
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định áp dụng với người vi
phạm pháp luật. Hành vi của họ phương hại đến an ninh quốc gia nhưng chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Người bị quản chế phải cư trú, làm ăn
sinh sống tại một địa phương nhất định và chịu sự quản lý, giáo dục của chính
quyền, nhân dân địa phương. Thời hạn quản chế từ 6 tháng đến 2 năm. Theo
quy định hiện hành, biện pháp quản chế hành chính đã bị bãi bỏ. Vì vậy,
BLHS năm 2015 đã bỏ tội này.
1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính
Để có cái nhìn khái quát và toàn diện về quan niệm của nhà lập pháp
trong chế độ xã hội khác nhau về tội phạm và hình phạt, từ đó nhận thức sâu
sắc và đẩy đủ hơn về bản chất, dấu hiệu pháp lý đặc thù của tội phạm và chính
sách hình sự của nhà nước đối với người phạm các tội xâm phạm TTQLHC,
sau đây học viên xin khái quát các quy định của pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm TTQLHC trong lịch sử.
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi có Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được thành lập với bản chất là một chế độ mới, tiến bộ và dân

chủ, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Mặc dù, công việc xây dựng Nhà nước

15


còn nhiều bề bộn và vô vàn những khó khăn, tuy nhiên, nhận thức được tầm
quan trọng của việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người, ngày 03/9/1945,
trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị
Chính phủ sớm xây dựng Hiến pháp [36, tr.279-280]. Trên cơ sở này, ở một
chừng mực nhất định đã có các quy định về một số tội phạm tương ứng với
các tội xâm phạm TTQLHC của BLHS năm 1985 và năm 1999 sau này.
Giống như tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, ngay trong thời kỳ này Nhà
nước đã ban hành Sắc lệnh 68-SL ngày 30/11/1945 quy định việc trưng dụng,
trưng thu, trưng tập trong thời kỳ kháng chiến, trong đó xác định rõ “Trưng
tập người bắt những người ấy phải làm cho Nhà nước thời hạn định trước
hoặc không định trước những việc thuộc về quân sự hoặc về một công vụ nào
đó” (Điều 2) [36, tr.447]. Chế tài áp dụng đối việc không tuân hành cũng quy
định (đã được sửa đổi theo Sắc lệnh số 100-SL ngày 30/5/1950):
Người nào nhận được lệnh trưng tập mà không tuân hành sẽ
bị truy tố trước Tòa án thường và bị phạt tù từ 6 ngày đến 3 tháng,
và phạt tiền từ 100 đồng đến 2.000 đồng hoặc một trong hai hình
phạt ấy. Nếu tái phạm sẽ phạt tù từ 2 tháng đến 2 năm và phạt tiền
từ 300 đồng đến 20.000 đồng [36, tr.448] theo đơn vị tiền cũ.
Ngoài ra, về tội lạm dụng quốc kỳ, Chủ tịch Chính phủ đã ra thông
cáo số 14 ngày 08/10/1946 quy định: Để giữ tính cách thiêng liêng của
quốc kỳ, ngày thường các tư gia không được treo cờ. Quốc kỳ chỉ được
treo trong những ngày hội công, những ngày lễ có tính cách công. Các tư
nhân đều cấm không được cắm quốc kỳ vào xe hơi. Ai trái luật sẽ bị truy tố
trước pháp luật về tội lạm dụng phù hiệu, tương tự đó là tội xúc phạm Quốc
kỳ, quốc ca sau này [36, tr.325].

Ngày 18/8/1945, Hồ Chủ tịch ban hành Sắc lệnh số 205-SL ấn định thể
lệ trục xuất ngoại kiều:

16


Những người ngoại kiều bị trục xuất mà không chịu rời bỏ
lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian đã định, hoặc
đã ra khỏi biên giới còn trở lại đất Việt Nam mà không có giấy
phép của Chính phủ, sẽ bị truy tố và phạt tù từ một tháng đến một
năm. Sau khi mãn hạn tù họ sẽ bị áp dẫn ra ngoài biên giới. Đặc
biệt trong thời kỳ chiến tranh, nếu chưa có thể áp dẫn các ngoại
kiều bị trục xuất ra ngoài biên giới thì Ủy ban kháng chiến hành
chính liên khu có thể quyết định tạm giam họ lại, để chờ cơ hội
thuận tiện có thể áp dẫn họ ra khỏi biên thùy [36, tr.496]..
Sau đó, ngày 15/6/1956, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 267SL trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của
hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà
nước. Điều 3 Sắc lệnh quy định rõ “Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà tiết lộ,
đánh cắp, mua bán, do thám bí mật Nhà nước, sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20
năm tù” [36, tr.477].
Tiếp đến, Nghị định số 519-TTg ngày 29/10/1957 của Thủ tướng Chính phủ
quy định thể lệ về bảo tồn cổ tích. Điều 1 của Nghị định quy định rõ:
Tất cả những bất động sản và động sản có giá trị lịch sử hay
nghệ thuật (kể cả bất động sản và động sản còn nằm dưới đất hay
dưới nước) và những danh lam thắng cảnh (danh thắng) trên lãnh
thổ nước Việt Nam, bất cứ là thuộc quyền sở hữu của Nhà nước,
một đơn vị hành chính, một cơ quan, một đoàn thể, hoặc một tư
nhân, từ nay đều đặt dưới chế độ bảo vệ của Nhà nước quy định
trong Nghị định này [36, tr.478].
Sau đó, Thông tư số 81-CP ngày 29/4/1966 của Hội đồng Chinh phủ về

việc bảo vệ di tích lịch sử, di tích nghệ thuật và hang động được sử dụng vào
công tác sơ tán phòng không cũng quy định trách nhiệm khi vi phạm chế độ

17


×