ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ THU HẰNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2017
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ THU HẰNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học:TS. NGUYỄN THỊ LAN
Hà Nội – 2017
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Thu Hằng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
CHƢƠNG I. ...............................................................................................................8
KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT ...........8
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM .......................................................................8
1.1.NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG .........................................................................8
1.1.1.Khái niệm kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ...................................................................8
1.1.2.Khái niệm kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ...............................................13
1.2.NGUYÊN TẮC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM ..................................................................................................................16
1.2.1.Nguyên tắc cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, cặp vợ
chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ...........................16
1.2.2.Nguyên tắc bí mật ...........................................................................................20
1.2.3.Nguyên tắc tự nguyện .....................................................................................23
1.2.4.Nguyên tắc vô danh ........................................................................................24
1.2.5.Nguyên tắc tuân thủ quy trình kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn sức khỏe của Bộ
trƣởng Bộ Y tế..........................................................................................................27
1.3.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHẾ ĐỊNH SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ
TINH TRONG ỐNG NGHIỆM...............................................................................29
1.3.1.Lịch sử thế giới về chế định sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
…………………......................................................................................................29
1.3.2.Lịch sử Việt Nam về chế định sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm…………. .....................................................................................................32
iv
CHƢƠNG II .............................................................................................................34
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM VÀ HỆ QUẢ PHÁP LÝ.................................................34
2.1.ĐIỀU KIỆN SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM ..................................................................................................................34
2.1.1.Điều kiện của chủ thể cho tinh trùng, cho noãn .............................................34
2.1.2.Điều kiện của chủ thể nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi .......................41
2.2.HỆ QUẢ PHÁP LÝ TỪ VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM .........................................................................................46
2.2.1.Xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
trong trƣờng hợp ngƣời mang thai là ngƣời vợ trong cặp vợ chồng vô sinh...........48
2.2.2.Xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
trong trƣờng hợp ngƣời mang thai là phụ nữ độc thân ............................................57
2.2.3.Xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
trong trƣờng hợp ngƣời mang thai là phụ nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .58
2.2.4.Thủ tục xác định cha, mẹ, con qua việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm ...............................................................................................................59
CHƢƠNG III. ..........................................................................................................62
GIẢI PHÁP NÂNG CAO PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ
TINH TRONG ỐNG NGHIỆM...............................................................................62
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM.......................................................62
3.1.1.Lựa chọn giới tính thai nhi bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ............63
3.1.2.Chi phí cao ......................................................................................................64
3.1.3.Sự khan hiếm của ngân hàng tinh trùng, noãn và tình trạng mua bán tinh
trùng, mua bán noãn .................................................................................................64
3.1.4.Lƣu trữ tinh trùng trong trƣờng hợp đặc biệt..................................................66
v
3.1.5.Mang thai hộ vì mục đích thƣơng mại ............................................................68
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM.......................................................69
3.2.1. Giải pháp ngăn ngừa việc lựa chọn giới tính thai nhi bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm .....................................................................................................69
3.2.2.Giải pháp cho vấn đề chi phí tiến hành kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm..71
3.2.3.Giải pháp xây dựng ngân hàng tinh trùng, noãn và ngăn ngừa mua bán tinh
trùng, noãn ………………………………………………………………………..72
3.2.4.Giải pháp về lƣu trữ tinh trùng, noãn trong trƣờng hợp đặc biệt....................73
3.2.5.Giải pháp nhằm ngăn chặn mang thai hộ vì mục đích thƣơng mại ................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
PHỤ LỤC
82
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- Thụ tinh trong ống nghiệm- TTTON
- Thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF)
- Bảo tồn phôi thai bằng kỹ thuật trữ lạnh (cryopreservation of embryo – CFE)
- Ghép phôi thai từ ống dẫn trứng này sang ống dẫn trứng khác (gamete interfallopian transfer – GIFT)
- Phối hợp tinh trùng của hai ngƣời ở bên trong ống dẫn trứng (zygote
intrafallopian transfer – ZIFT)
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ
Bảng
Trang
Sơ đồ 1.1. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
12
Sơ đồ 1.2. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
14
Mô hình 1.3. Nguyên tắc bí mật thông tin
21
viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, tình trạng vô sinh ở nam và nữ giới ngày càng nhiều. Theo nghiên
cứu trên toàn quốc do Bệnh viện Phụ sản trung ƣơng và Đại học Y Hà Nội tiến
hành trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) ở 08 tỉnh - đại diện
cho 8 vùng sinh thái ở nƣớc ta - cũng xác định tỉ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ là 7,7%, nghĩa là có từ 700.000 đến 1 triệu cặp vợ chồng Việt
Nam bị vô sinh. Đáng báo động, trong đó có khoảng 50% cặp vợ chồng vô sinh có
độ tuổi dƣới 30. Vấn đề vô sinh đang là một gánh nặng của ngành y tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiên tiến đã thể hiện
sự phát triển vƣợt bậc của khoa học kĩ thuật, nhiều tiến bộ trong kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản đã ra đời đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có
thể có con, đáp ứng niềm mong mỏi tha thiết của họ. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
có thể giải quyết đƣợc tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam giới do ảnh hƣởng bởi
nhiều yếu tố nhƣ bệnh lý, căng thẳng kéo dài, do môi trƣờng, điều kiện sinh hoạt,
hậu quả chiến tranh… Điều này đã đáp ứng đƣợc nguyện vọng làm cha, làm mẹ
của họ, thể hiện những giá trị nhân bản cao đẹp.
Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các kỹ thuật hỗ trợsinh sản không đơn thuần
thuộc lĩnh vực khoa học mà còn liên quan đến nhiều vấn đề về đạo đức, pháp lí, về
tâm lí tình cảm… Việc áp dụng các biện pháp này trong nhiều trƣờng hợp không
chỉ trong nội bộ cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân mà còn có thể liên quan
đến ngƣời thứ ba, đó là ngƣời cho tinh trùng, cho trứng, cho phôi hay ngƣời mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo. Do đó, vấn đề này càng trở nên phức tạp và nhạy
cảm hơn bao giờ hết.
Trƣớc đây, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Việc xác định
cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định”
(Điều 63); cụ thể vấn đề này, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP
1
ngày 12/02/2003 về sinh con theo phƣơng pháp khoa học. Nghị định này đã quy
định việc thụ tinh nhân tạo; thụ tinh trong ống nghiệm; việc cho, nhận tinh trùng;
cho, nhận noãn; cho, nhận phôi; lƣu giữ phôi và xác định cha, mẹ cho trẻ sinh
ra bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP sau một
thời gian áp dụng bộc lộ một số những thiếu sót trong quy định của pháp luật,
nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ chƣa đƣợc đề cập đến.
Gần đây, Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Cùng
với đó, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 quy định về sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo đã đƣợc Chính phủ ban hành để cụ thể hóa những nội dung mới đƣợc ghi
nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong đó, pháp luật vẫn tiếp tục
ghi nhận hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là thụ tinh nhân tạo và kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm, tuy nhiên kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đƣợc thực hiện theo quy định của
Luật Khám bệnh, chữa bệnh, còn Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì quy định chi tiết
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Đây là một nội dung không hẳn là quá mới mẻ, tuy nhiên trong bối cảnh
điều kiện kinh tế xã hội và nghiên cứu khoa học ngày một phát triển, thì nhu cầu
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và đáp ứng nhu cầu đó ngày một
tăng cao, dẫn đến việc sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh xung quanh kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản này, đặc biệt là những quy định mang tính chất pháp lý đối với hệ quả phát
sinh từ việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Chính vì việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là vấn đề rất
mới cần đƣợc nghiên cứu và làm rõ hơn nên tác giả đã lựa chọn đề tài:
“Pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm”.
2. Tình hình nghiên cứu.
Sinh con bằng phƣơng pháp thụ tinh trong ống nghiệm không hẳn là một vấn
đề hoàn toàn mới. Tuy nhiên, do thời gian trƣớc đây, vì điều kiện kinh tế xã hội
2
cũng nhƣ sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà việc áp dụng phƣơng pháp sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Đây
là một kỹ thuật hết sức phức tạp trong y học, đòi hỏi cao về chuyên môn của bác sĩ
cũng nhƣ điều kiện cơ sở vật chất để tiến hành. Đồng thời cùng với đó là chi phí
khá lớn cho một ca thụ tinh trong ống nghiệm. Bởi vậy giai đoạn trƣớc đây, có ít
cặp vợ chồng hoặc phụ nữ độc thân có đủ năng lực tài chính để tiến hành hoặc nếu
có cũng không có nhiều cơ sở, bệnh viện có thể thực hiện thành công.
Trong những năm gần đây, do điều kiện phát triển của kinh tế xã hội và
nghiên cứu khoa học, có thể thấy rằng nhu cầu sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản là thụ tinh trong ống nghiệm đã trở nên phổ biến hơn, và cũng phát sinh nhiều
vấn đề về mặt pháp lý liên quan. Qua tìm hiểu, tác giả luận văn nhận thấy vấn đề
sinh con bằng phƣơng pháp thụ tinh trong ống nghiệm có tính cấp thiết về lý luận
và thực tiễn cao, tuy nhiên số lƣợng bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này
nhìn dƣới góc độ pháp luật là không nhiều. Có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu
đã nghiên cứu về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm nhƣng đa phần là những nghiên cứu thuộc về lĩnh vực Y học, Di
truyền học... Số lƣợng đề tài, công trình nghiên cứu về sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ pháp lý của các nhà lập pháp
còn rất hạn chế.
Về văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, trƣớc khi Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đƣợc ban hành, sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là
một nội dung đã đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Đồng thời,
Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 về sinh con
theo phƣơng pháp khoa học để hƣớng dẫn về vấn đề này, tuy nhiên còn nhiều hạn
chế.
Thời gian gần đây, khi Quốc hội thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, đồng thời ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định
3
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo thì mới có quy định cụ thể về vấn đề này.
Về các bài báo đăng trên webside và tạp chí, có thể kể đến những bài viết
nhƣ: “Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm” [22], “Hệ lụy từ công nghệ sinh
con theo ý muốn” [23]; đặc biệt là các bài viết của TS. Nguyễn Thị Lan – Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội nhƣ “Sinh con theo phương pháp khoa học và những vấn đề
pháp lý có liên quan” [10, tr24-26], “Thụ tinh trong ống nghiệm và những vấn đề
pháp lý phát sinh” [12, tr34-42]…
Về công trình nghiên cứu khoa học, có một số các công trình nghiên cứu
nhƣ luận văn tốt nghiệp mang tên: “Pháp luật về việc sinh con theo phương pháp
khoa học”[13] của Nguyễn Kim Ngọc Giàu, sinh viên Khoa Luật, Đại học Cần
Thơ - là một công trình nghiên cứu có liên quan tới sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm đƣợc đánh giá cao. Trong công trình nghiên cứu khoa học này,
tác giả đã phân tích nhiều khía cạnh pháp lý của việc sinh con theo phƣơng pháp
khoa học, đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn, khái niệm, nguyên tắc, đặc điểm, bản chất của việc sinh con theo phƣơng
pháp khoa học và phƣơng pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Đây đƣợc coi là một
công trình nghiên cứu mang lại nhiều giá trị. Công trình nghiên cứu khoa học này
thực sự là tài liệu tham khảo hữu ích đối với cá nhân tác giả luận văn, cũng nhƣ đối
với những nhà nghiên cứu pháp luật về một trong những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
hiện nay.
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề
liên quan đến những quy định của pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:
- Làm rõ đƣợc khái niệm, nguyên tắc, lịch sử hình thành của kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản và kỹ thuật sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm;
4
- Phân tích rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện chủ thể sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và hệ quả pháp lý;
- Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm vào thực tiễn; đồng thời đƣa ra phƣơng hƣớng
và một số đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
3. Phạm vi, nội dung nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và pháp luật điều chỉnh việcsinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo pháp luật Việt Nam. Luận văn phân tích
những khía cạnh pháp lý của sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, từ
các khái niệm (nhìn dƣới góc độ y học và pháp lý), các nguyên tắc,điều kiện sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm ở một số quốc gia, lãnh thổ trên thế giới, thực trạng áp
dụng pháp luật và cuối cùng là đƣa ra phƣơng hƣớng cũng nhƣ giải pháp nhằm xây
dựng pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt Nam
hiện nay.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy, do giới
hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản
nhất thuộc nội dung đề tài nhƣ khái niệm, nguyên tắc, điều kiện của chủ thể, hệ quả
của sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; thực trạng và các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích:
Nghiên cứu đề tài nhằm giúp cho những ngƣời thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản hiểu và thực hiện đúng điều kiện, quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm, đánh giá thực trạng áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
5
ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, trên cơ sở đó, đƣa ra những quan điểm, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt
Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu chung về khái niệm, nguyên tắc của sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm, đồng thời tìm hiểu lịch sử các quy định về kỹ thuật này trên
thế giới;
- Phân tích các điều kiện của chủ thể và hệ quả pháp lý của việc sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo;
- Phân tích thực trạng, nêu giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp
luật về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm;
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để đạt đƣợc các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu chung của khoa
học xã hội và các phƣơng pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các
phƣơng pháp chủ yếu bao gồm: phƣơng pháp phân tích quy phạm, phƣơng pháp
phân tích lịch sử, phƣơng pháp khái quát hóa, mô hình hóa, phƣơng pháp so sánh
pháp luật…
- Phƣơng pháp phân tích quy phạm: phƣơng pháp này đƣợc sử dụng chủ yếu
để tìm hiểu các quy định của pháp luật, cũng nhƣ các vụ việc liên quan tới xác định
ngữ nghĩa của quy phạm pháp luật, tính hợp lý khi áp dụng.
6
- Phƣơng pháp phân tích lịch sử: phƣơng pháp này dùng để sử dụng nhằm
tỉm hiểu tổng quát văn hóa pháp lý của Việt Nam trƣớc kia liên quan tới việc hình
thành quy định về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Phƣơng pháp khái quát hóa, mô hình hóa: phƣơng pháp này dùng để xác
định mô hình môi trƣờng pháp lý áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm.
- Phƣơng pháp so sánh pháp luật: Phƣơng pháp này sử dụng chủ yếu, bằng
cách so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với quy định về kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản ngƣời của một số quốc gia trên thế giới nhƣ Nhật Bản, Trung Quốc, Thái
Lan, Anh… để làm rõ các vấn đề của pháp luật Việt Nam nhằm đƣa ra các kiến
nghị phù hợp. Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng không triệt để trong luận văn
bởi khuôn khổ có hạn và bởi so sánh pháp luật không phải là mục tiêu của đề tài.
6. Kết cấu luận văn.
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chƣơng:
Chương 1: Khái quát chung về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm
Chương 2: Pháp luật hiện hành về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và hệ quả pháp lý
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật và một số giải pháp về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
7
CHƢƠNG I.
KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
1.1.NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG
1.1.1.Khái niệm kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Hỗ trợ sinh sản là một trong những tiến bộ kỳ diệu của y học trong 30 năm
trở lại đây. Hỗ trợ sinh sản là một thuật ngữ nói chung bao gồm những kỹ thuật y
học mới, đƣợc sử dụng trong điều trị vô sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trong y học, sự thụ tinh (fertilization) là quá trình kết hợp của tế bào tinh
trùng ở con đực với tế bào trứng ở con cái trong cơ thể mẹ để tạo ra một tế bào mới
gọi là hợp tử (zygote) và hợp tử sẽ phát triển thành cơ thể mới.
Điều kiện tự nhiên cần thiết để thụ thai là việc noãn trƣởng thành gặp tinh
trùng tạo ra phôi, phôi làm tổ tại niêm mạc tử cung. Bình thƣờng, sự thụ tinh xảy ra
ở 1/3 ngoài vòi trứng và di chuyến vào buồng tử cung sau 7 ngày và làm tổ trong
buồng tử cung. Để có sự thụ thai bình thƣờng, ở nam giớiphải sản xuất đủ số lƣợng
tinh trùng bình thƣờng (100 tới 120 triệu con/ml), trƣởng thành, và di động tốt. Ở
nữ giới phải đáp ứng đủ các điều kiện nhƣ: chất nhầy cố tử cung phải thích hợp với
sự sống của tinh trùng, bộ phận sinh dục nữ cho phép tinh trùng tiến lên vòi trứng,
đồng thời loa vòi trứng phải bắt đƣợc noãn, noãn phát triến và trƣởng thành, buồng
tử cung và niêm mạc tử cung đủ điều kiện để tiếp nhận phôi làm tổ và phát triển.
Tuy nhiên, vì một nguyên nhân nào đó, họ không thể mang thai một cách tự nhiên,
hay còn gọi là cặp vợ chồng vô sinh, thì sẽ phải cần tới kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Đồng thời, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn áp dụng cho cả đối tƣợng là phụ nữ đơn
thân và phụ nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Để tiếp cận với các khái niệm nhƣ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, kỹ thuật thụ tinh
nhân tạo và đặc biệt là kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, trƣớc hết cần tìm hiểu
các khái niệm cơ bản có liên quan nhƣ noãn, tinh trùng, phôi…
8
Về khái niệm noãn, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã định nghĩa nhƣ sau:
“Noãn là giao tử của nữ” [6, khoản 3 Điều 2]. So với khái niệm noãn trong Nghị
định 12/2000/NĐ-CP về sinh con theo phƣơng pháp khoa học trƣớc đây: “Noãn là
tế bào trứng”[4, khoản 5 Điều 3], ta thấy khái niệm mới có sự chuẩn xác hơn và có
sự đồng nhất với khái niệm noãn trong thuật ngữ y học.
Về khái niệm tinh trùng, trƣớc đây trong nghị định 12/2000/NĐ-CP đã bộc
lộ sự thiếu sót khi chƣa có một khái niệm cụ thể rõ ràng về “tinh trùng”, nhƣng lại
có nhiều quy định liên quan trực tiếp tới khái niệm này nhƣ điều kiện chủ thể cho,
nhận tinh trùng, bảo quản tinh trùng… Tới nay, tại khoản 4 Điều 2 Nghị định
10/2015/NĐ-CP, khái niệm tinh trùng lần đầu tiên đƣợc định nghĩa, cụ thể nhƣ
sau: “Tinh trùng là giao tử của nam”. Có thể khẳng định, quy định mới đã bổ sung
khái niệm này là cần thiết và hợp lý. Ta thấy quy định này tƣơng tự nhƣ định nghĩa
trong Luật Hỗ trợ sinh sản ngƣời của Canada 2004.
Tuy nhiên việc quy định mới của luật lại bổ sung thêm khái niệm “giao tử”
mà chƣa định nghĩa. Giao tử trong thuật ngữ y học là: “Tế bào sinh dục có chứa bộ
nhiễm sắc thể đơn bội (n) được hình thành từ quá trình giảm phân của tế bào sinh
giao tử (2n) có khả năng thụ tinh tạo ra hợp tử”. Giao tử có hai loại là giao tử đực
và giao tử cái. Trong luật của nhiều quốc gia, nếu có sử dụng nhiều từ ngữ chuyên
môn thuộc lĩnh vực khác, sẽ quy định thêm là “việc định nghĩa các khái niệm khác
dựa theo từ điển chuyên ngành”, tuy nhiên thiết nghĩ trong luật này chỉ sử dụng
một số lƣợng từ giới hạn có liên quan trực tiếp tới các quy phạm pháp luật điều
chỉnh, nên cần định nghĩa khái niệm “giao tử” trực tiếp trong luật là điều cần thiết.
Về khái niệm phôi, Nghị định 10/2015/NĐ-CP định nghĩa: “Phôi là sản
phẩm kết hợp giữa noãn và tinh trùng” [6, khoản 3 Điều 2]. Quy định này khá
tƣơng đồng và không có sự khác biệt với khái niệm về “phôi” trong luật cũ: “Phôi
là sản phẩm kết hợp giữa noãn và tinh trùng” (khoản 6 Điều 3 Nghị định
9
12/2000/NĐ-CP). Song nếu quy định nhƣ vậy, ta sẽ bị nhầm lẫn giữa hai khái niệm
“phôi” và “thai nhi”.
Theo y học, “phôi” là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong 56 ngày đầu
phát triển sau khi thụ tinh. "Thai nhi" là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng từ ngày
thứ 57 sau khi thụ tinh cho tới khi sinh hoặc khi xảy thai. Khái niệm về thai cũng
đã đƣợc định nghĩa trong thông tƣ số 12/2012/TT-BYT do Bộ trƣởng Bộ y tế ban
hành ngày 15 tháng 07 năm 2012 về quy trình kỹ thuật của thụ tinh nhân tạo và thụ
tinh trong ống nghiệm, cụ thể: “Thai là sản phẩm của quá trình thụ tinh được tính
bắt đầu từ tuần thứ 09 sau thụ tinh cho đến khi sinh hoặc khi sảy thai”[4, khoản 1
Điều 2].
Do đó, đề xuất định nghĩa lại khái niệm về phôi, cụ thể với quy định
cũ:"Phôi là sản phẩm kết hợp giữa noãn và tinh trùng",tác giảđề xuất bổ sung:
"Phôi là sản phẩm kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong 56 ngày đầu tiên kể từ
khi được thụ tinh".
Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất bổ sung một số khái niệm chƣa đƣợc định
nghĩa song cũng rất cần thiết nhƣ sau:
Khái niệm “Ngƣời hiến tặng”: Trong Nghị định 10/2015/NĐ-CP cũng nhƣ
các văn bản pháp luật có liên quan tới kỹ thuật TTTON trƣớc đây, hoàn toàn chƣa
định nghĩa khái niệm về ngƣời hiến tặng. Khái niệm “ngƣời hiến tặng” trong pháp
luật nhiều nƣớc nhƣ Đạo luật Hỗ trợ sinh sản ngƣời của Canada 2004 hay Luật Thụ
tinh và Phôi học ngƣời 2008 của Anh đều có quy định khái niệm người hiến tặng
hay còn gọi là nhà tài trợ(donneur – nhà tài trợ). “Ngƣời hiến tặng” là những cá
nhân cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi dù có đƣợc sử dụng trong kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản hay không [33], [38].
Khái niệm "Vật liệu sinh sản của ngƣời" có nghĩa là một tinh trùng, noãn,
tế bào của ngƣời khác hoặc một gen của con ngƣời… Y học phát triển đã chứng
minh đƣợc con ngƣời có thể sinh sản không chỉ bằng tinh trùng, noãn, phôi mà có
10
thể bằng cả các chuỗi gen hoặc sinh sản qua tế bào gốc [26]. Thực tế, khi các
nghiên cứu khoa học kỹ thuật ngày một phát triển, nếu đứa trẻ sinh ra không phải
từ tinh trùng, noãn mà bằng các vật liệu sinh sản khác nhƣ gen, tế bào gốc, tủy
xƣơng… thì có thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hay không, đó là việc pháp luật
phải luôn dự liệu đƣợc các sự kiện pháp lý có thể phát sinh trong tƣơng lai. Do đó,
đề xuất định nghĩa khái niệm “vật liệu sinh sản của ngƣời” tạo nền móng cơ sở
pháp lý cho nhiều quy định sau này.
Trở lại với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng cách ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sinh sản ở ngƣời, trên thế giới đã phổ biến một số kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản nhƣ thụ tinh nhân tạo (Intra-Uterine Insemination); thụ tinh trong ống nghiệm
(In Vitro Fertilization - IVF); bảo tồn phôi thai bằng kỹ thuật trữ lạnh
(cryopreservation of embryo – CFE); ghép phôi thai từ ống dẫn trứng này sang ống
dẫn trứng khác (gamete interfallopian transfer – GIFT); hay phối hợp tinh trùng
của hai ngƣời ở bên trong ống dẫn trứng (zygote intrafallopian transfer –
ZIFT)..vv..vv [25].
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản lần đầu tiên đƣợc ghi nhận tại khoản 1, Điều 3
Nghị định 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ về sinh con theo phƣơng pháp khoa học:
“Sinh con theo phương pháp khoa học là việc sinh con được thực hiện bằng các kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm”. Tới khi
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời, thì tại khoản 21 Điều 3 đã một lần nữa
khẳng định: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sảnlà việc sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
Có thể thấy rằng, pháp luật nƣớc ta đã thể hiện rõ quan điểm chỉ công nhận
hai kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm, không thừa nhận kỹ
thuật sinh sản vô tính. Tại điểm g khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định nghiêm cấm các hành vi: “g. Thực hiệnsinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, sinh
11
sản vô tính”. Sinh sản vô tính là vấn đề mang tính toàn cầu, khi pháp luật nhiều
nƣớc cấm sinh sản vô tính ngƣời. Ngƣời ta cho rằng, việc sinh sản vô tính ở ngƣời
có thể đặt xã hội trƣớc những thảm hoạ khôn lƣờng nhƣ việc xác định cha, mẹ con
cho đứa trẻ đƣợc sinh sản bằng hình thức sinh sản vô tính, cũng nhƣ nhiều hệ lụy
khác.
Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo(Intra-Uterine Insemination hay còn gọi tắt là
IUI)là phƣơng pháp dùng một ống thông nhỏ, đƣa một số lƣợng tinh trùng đã đƣợc
lọc rửa, chọn lọc qua cổ tử cung và bơm trực tiếp vào buồng tử cung, với nguyên
tắc cơ bản là làm tăng số lƣợng tinh trùng di động đến đoạn xa vòi trứng, nơi mà
tinh trùng và trứng gặp nhau và có thể thụ thai. Đây là kỹ thuật tƣơng đối đơn giản,
chi phí thấp đƣợc áp dụng rộng rãi tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản và các phòng
khám tƣ nhân.
Sơ đồ 1.1. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì: “Việc
thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo được thực
hiện theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, không thuộc phạm vi điều
12
chỉnh của Nghị định này”, do vậy kỹ thuật thụ tinh nhân tạo không nằm trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
1.1.2.Khái niệm kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) là quá trình kết hợp
giữa tinh trùng (giao tử đực) với trứng (giao tử cái) để tạo ra hợp tử ở ngoài cơ thể
mẹ - trong phòng thí nghiệm với môi trƣờng sinh học nhân tạo.
Lịch sử của thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF) và cấy
phôi (Embryo transfer - ET) đƣợc biết đến sớm nhất là vào năm 1890 khi Walter
Heape, một giáo sƣ - bác sĩ tại Đại học Cambridge, Anh, đã tiến hành nghiên cứu
về sinh sản ở một số loài động vật và báo cáo trƣờng hợp đầu tiên đƣợc biết đến
của cấy ghép phôi thai ở thỏ.Tuy nhiên, tới năm 1969, kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm đối với phôi thai ngƣời mới đƣợc thực hiện.
Năm 1970, sự phân chia đầu tiên trong môi trƣờng nuôi cấy của phôi ngƣời
đƣợc báo cáo, nhƣng đến năm 1978, giáo sƣ Steptoe và Edvvards mới thực hiện
thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi vào buồng tử cung cho một phụ nữ bị
tắc hai vòi trứng và kết quả bé Louis Brovvn đƣợc ra đời.
Đầu năm 1980, Alain Trouson sử dụng kích thích buồng trứng để làm tăng
số lƣợng nang noãn và có nhiều nang noãn chín hơn trong thụ tinh trong ống
nghiệm đã làm tăng tỉ lệ thành công của phƣơng pháp này.Càng về sau nhiều kỹ
thuật mới phát triển nhƣ chuyển giao tử vào vòi trứng qua soi ố bụng, tiêm tinh
trùng vào noãn trong điều trị vô sinh nam khiến cho tỉ lệ thành công tăng lên.
Trong lĩnh vực y học, thuật ngữ “trong ống nghiệm” bắt nguồn từ tiếng
Latin có nghĩa là “trong thủy tinh” bởi lẽ thí nghiệm đầu tiên liên quan tới việc
phát triển các mô bên ngoài cơ thể sống đƣợc tiến hành trong các lọ thủy tinh nhƣ
cốc, ống nghiệm hay đĩa petri… Ngày nay, thuật ngữ “trong ống nghiệm” đƣợc sử
dụng để áp dụng chung cho tất cả những thủ thuật sinh học đƣợc thực hiện bên
13
ngoài cơ thể, phân biệt với việc phát triển các mô bên “trong cơ thể” nhƣ vẫn
thƣờng thấy.
Thụ tinh trong ống nghiệm là một kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà ở đó, ngƣời ta
lấy tinh trùng sau khi lọc rửa đem kết hợp với trứng ở ngoài cơ thể, trong một dụng
cụ y tế bằng thủy tinh, tuy nhiên không phải là một ống nghiệm thủy tinh hay bằng
nhựa dài mà trên một đĩa thủy tinh nông đƣợc gọi là đĩa Petri, thậm chí một kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm điều trị nội mạc tử cung tự thân còn đƣợc tiến
hành trên chất liệu hữu cơ, song vẫn đƣợc gọi là thụ tinh trong ống nghiệm.
Sơ đồ 1.2. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dƣới góc độ y học, có hai kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm cổ điển và kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tƣơng trứng.
Thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (In Vitro Fertilization - IVF)
IVF là kỹ thuật đặt biệt, tinh trùng sau khi đƣợc lọc rửa cấy chung với noãn
trong đĩa môi trƣờng và để trong tủ ủ. Trong vòng vài giờ đầu tiên sau cấy, tinh
trùng đã có thể đi xuyên vào noãn và quá trình thụ tinh xảy ra. Phôi đƣợc tạo thành
14
sau đó sẽ đƣợc chuyển vào buồng tử cung. Trong kỹ thuật này trứng và tinh trùng
gặp nhau, hòa nhập một cách "tự nhiên" để hình thành phôi.
Thụ tinh trong ống nghiệm bằng tiêm tinh trùng vào bào tƣơng
trứng (Intra Cytoplasmic Sperm Injection - ICSI)
ICSI có nghĩa là tiêm thẳng tinh trùng trực tiếp vào bào tƣơng trứng trƣởng
thành để tạo phôi. Kỹ thuật này có sự hỗ trợ của hệ thống vi thao tác và kính hiển
vi đảo ngƣợc với độ phóng đại 200-300 lần. Nhờ kỹ thuật ICSI phôi đƣợc tạo ra
chỉ từ duy nhất 1 trứng và 1 tinh trùng, do đó ICSI có thể thực hiện đƣợc trong
những trƣờng hợp thiểu năng tinh trùng nặng, hoặc tinh trùng đƣợc lấy từ mào tinh
hoặc tinh hoàn, tăng tỉ lệ thụ tinh.
Dƣới góc độ pháp lý, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đƣợc định nghĩa tại
Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP nhƣ sau: “Thụ tinh trong ống
nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi”.
Nếu so sánh với khái niệm cũ tại khoản 3 Điều 3 Nghị định 12/2000/NĐ-CP về
sinh con theo phƣơng pháp khoa học thì hoàn toàn không có sự khác biệt. Ta có
thể đƣa khái niệm thụ tinh trong ống nghiệm khái quát dƣới dạng mô hình sau:
NOÃN
TINH
TRÙNG
PHÔI
Mục đích của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhằm khắc phục vô sinh
nữ và các trƣờng hợp vô sinh nam, hiến tinh trùng, hiến noãn và áp dụng với phụ
nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
15
1.2.NGUYÊN TẮC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM
Với những cặp vợ chồng hiếm muộn hoặc phụ nữ độc thân, việc sinh con
bằng kỹ thuật TTTON đã đáp ứng mong mỏi, nhu cầu chính đáng đƣợc làm cha,
làm mẹ của họ, tuy nhiên, điều này cũng có thể kéo theo nhiều hệ lụy không mong
muốn. Do vậy, tại Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP đã quy định 05 nguyên tắc cơ
bản, là hành lang pháp luật trong việc tiến hành sinh con bằng kỹ thuật TTTON.
Ngoài ra, tác giả còn đề xuất thêm nguyên tắc thứ 6.
1.2.1.Nguyên tắc cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên
khoa, cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định: “Cặp vợ chồng
vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.” Vậy căn cứ theo quy định của pháp luật, có
ba đối tƣợng đƣợc pháp luật ghi nhận quyền sinh con bằng kỹ thuật TTTON là cặp
vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân, phụ nữ đƣợc nhờ mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo. Ở một số nƣớc trên thế giới nhƣ Mỹ, Tây Ban Nha, Thụy Điển cho phéo
các cặp đôi đồng tính nam, đồng tính nữ đƣợc phép tiến hành kỹ thuật này. Tuy
nhiên, tại Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia định 2014 vẫn chƣa thừa nhận việc kết
hôn giữa những ngƣời đồng tính[15, Điều 8], do vậy các cặp đôi đồng tính sẽ
không đƣợc tiến hành kỹ thuật TTTON.
Quyền sinh con bằng kỹ thuật TTTON của cặp vợ chồng vô sinh
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỉ lệ vô sinh trên thế giới trung bình từ 6%12%. Tại Việt Nam, tỉ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ là
7,7%, nghĩa là có từ 700.000 đến 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, trong đó vô sinh
nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%. Đáng báo động có khoảng 50%
16
cặp vợ chồng vô sinh có độ tuổi dƣới 30. Có thể thấy, gần 1.000.000 cặp vợ chồng
vô sinh là gần 1.000.000 nhu cầu sinh con bằng kỹ thuật TTTON.
Trong y học, có thể hiểu vô sinh là hiện tƣợng mất hay thiếu khả năng sinh
sản xảy ra ở các cặp nam nữ muốn có con.
Định nghĩa về vô sinh, Tổ chức Y tế thế giới WHO cho rằng: “Vô sinh là
một bệnh lý của hệ thống sinh sản đƣợc xác định bởi sự thất bại trong việc tạo ra
một thai lâm sàng sau 12 tháng thƣờng xuyên quan hệ tình dục trở lên mà không sử
dụng biện pháp phòng tránh (mà không vì lý do khác nhƣ cho con bú hay vô kinh
sau khi sinh). Vô sinh nguyên phát là vô sinh ở những cặp vợ chồng chƣa từng có
con. Vô sinh thứ phát là thất bại trong việc thu thai sau lần mang thai trƣớc. Vô
sinh có thể gây ra bởi sự nhiễm trùng ở đàn ông hay phụ nữ, nhƣng thƣờng không
có nguyên nhân rõ ràng” [45].
Theo tinh thần hƣớng dẫn của WHO, Nghị định 10/2015/NĐ-CP đã định
nghĩa lại khái niệm “vô sinh” cho phù hợp, thay cho khái niệm “cặp vợ chồng vô
sinh” trong luật cũ: “Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có
quan hệ tình dục 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ
vẫn không có thai” [6, khoản 2 Điều 2].
Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh phải là vợ chồng hợp pháp. Trƣờng hợp
chung sống nhƣ vợ chồng và cặp đôi đồng tính nam, đồng tính nữ không đƣợc tiến
hành kỹ thuật TTTON.Trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014, khái niệm “quan hệ
hôn nhân hợp pháp” chƣa đƣợc định nghĩa cụ thể. Song dựa vào khoản 5, Điều 3
Luật này, có thể hiểu hôn nhân hợp pháp là hôn nhân đảm bảo các yêu cầu về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn theo Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình
2014. Để xác định có phải là vợ chồng hợp pháp hay không, trong hồ sơ đề nghị
thực hiện kỹ thuật TTTON, các cơ sở thƣờng yêu cầu cặp vợ chồng phải cung cấp
bản sao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có công chứng, chứng thực.
17