Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả, rủi ro hoạt động của các doanh nghiêp tại viêt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN MINH HOÀNG

SỰ KIÊM NHIỆM CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
VÀ THÀNH QUẢ, RỦI RO HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN MINH HOÀNG

SỰ KIÊM NHIỆM CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
VÀ THÀNH QUẢ, RỦI RO HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

Chyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả, rủi
ro hoạt động của các doanh nghiệp tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Phan Thị
Bích Nguyệt.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được công bố trong các công trình nghiên cứu khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2016

Trần Minh Hoàng


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .................................................................................................. 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................................... 4
1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
1.5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 5
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................................... 6
1.7. Kết cấu của bài nghiên cứu .......................................................................................... 7
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................................... 8
2.1. Các nghiên cứu trước đây về sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả, rủi
ro của công ty ...................................................................................................................... 8

2.2. Các nghiên cứu khác liên quan đến hội đồng quản trị và thành quả, rủi ro của công ty
........................................................................................................................................... 13
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU ..................................................................................................... 18
3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu .................................................................................... 18
3.2. Mô tả các biến ............................................................................................................ 18
3.3. Mô tả dữ liệu: ............................................................................................................. 21
CHƯƠNG 4: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ..................................... 25
4.1. Xây dựng các giả thiết của mô hình: .......................................................................... 25
4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 26
4.2.1. Sự kiêm nhiệm của Hội đồng quản trị và thành quả hoạt động của công ty ...... 27
4.2.2. Sự kiêm nhiệm của Hội đồng quản trị và rủi ro của công ty .............................. 28
CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ....................................................................... 30
5.1. Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả của công ty................................ 30
5.2. Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và rủi ro của công ty ...................................... 33
5.3. Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế: ............ 38
CHƯƠNG 6: KIỂM TRA TÍNH BỀN VỮNG: ................................................................. 45


6.1. Tác động của các thành viên bên ngoài so với thành viên bên trong lên công ty: ..... 45
6.1.1. Tác động đến thành quả công ty: ........................................................................ 45
6.1.2. Tác động đến rủi ro của công ty ......................................................................... 48
6.2. Mức độ kiêm nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị: ....................................... 49
CHƯƠNG 7: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: .................................................................... 53
7.1. Các kết luận quan trọng của bài nghiên cứu: ............................................................. 53
7.2. Các hạn chế của bài nghiên cứu: ................................................................................ 55
7.3. Một số kiến nghị và hướng nghiên cứu tiếp theo của bài: ......................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh sách các công ty niêm yết được đưa vào mẫu nghiên cứu
Phụ lục 2: Các biến nghiên cứu được sử dụng trong bài



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Thống kê mô tả các biến: ...................................................................................... 21
Bảng 2: Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả của công ty .......................... 30
Bảng 3: Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và rủi ro của công ty ................................. 33
Bảng 4: sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị, thành quả và rủi ro của công ty trước và sau
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2010. ....................................................... 39
Bảng 5: Ảnh hưởng của thành viên bên ngoài/bên trong kiêm nhiệm và thành quả của
công ty. ............................................................................................................................... 46
Bảng 6: Ảnh hưởng của thành viên bên ngoài/bên trong kiêm nhiệm và rủi ro công ty. .. 48
Bảng 7: sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị, thành quả và rủi ro của công ty với sự thay
đổi định nghĩa về sự kiêm nhiệm ....................................................................................... 50


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, việc một doanh nghiệp có nhiều thành viên hội đồng quản trị cũng là
thành viên hội đồng quản trị của doanh nghiệp khác không còn là vấn đề xa lạ, việc
kiêm nhiệm nhiều vị trí quản lý cấp cao ở đồng thời nhiều công ty vừa mang lại lợi
ích cũng đồng thời mang đến những ảnh hưởng không tốt đến với các công ty. Việc
một thành viên hội đồng quản trị có thể làm việc ở cùng lúc nhiều công ty chứng tỏ
họ là những người có nhiều kiến thức quản trị, có nhiều danh tiếng và kinh nghiệm
quản lý của họ sẽ giúp ích cho công ty, tuy nhiên, việc xao nhãng trong quản lý do
phải chia sẽ thời gian của mình tại nhiều công ty cũng có thể khiến hiệu quả quản trị
của họ giảm sút từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến công ty. Trước vấn đề này, một bài
nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các thành viên hội đồng quản trị do phải kiêm

nhiệm vị trí ở những công ty khác lên các yếu tố quyết định sự thành công của công
ty bao gồm thành quả và rủi ro hoạt động là việc làm rất cần thiết.
Ngoài ra, nguyên nhân chính yếu để nghiên cứu vấn đề kiêm nhiệm của các thành
viên hội đồng quản trị ảnh hưởng đến hoạt động của công ty là do các nghiên cứu
trước đây khi nghiên cứu về hội đồng quản trị của công ty thường tập trung nghiên
cứu quy mô của hội đồng quản trị cũng như là sự độc lập của hội đồng trong việc
đưa ra các quyết định quản trị, từ đó tác động đến thành quả hoạt động của công ty
(nghiên cứu của các tác giả Hermalin và Weisbach 1988, 1998; Yermack 1996;
Coles et al 2008). Một điểm chung trong các nghiên cứu này, đó là các tác giả đều
cho rằng ở các công ty lớn và có cấu trúc quản trị phức tạp, ban điều hành của công
ty sẽ cần phải được giám sát chặt chẽ hơn, điều đó đòi hỏi hội đồng quản trị cũng
phải có quy mô lớn hơn đồng thời cũng cần nhiều thành viên hội đồng quản trị đến
từ những công ty khác, những người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức quản trị ở
nhiều lĩnh vực khác nhau để đưa ra những sự tư vấn, giám sát hợp lý cho công ty.
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu về sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị có tác động
như thế nào đến công ty vẫn còn khá mới mẻ và có rất ít nghiên cứu trước đây


2

nghiên cứu về vấn đề này.
Về vấn đề sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị công ty, gần đây cũng đã có một số
tác giả quan tâm đến và có những nghiên cứu rất đáng chú ý, tiêu biểu như nghiên
cứu của các tác giả Ferris et al. năm 2003; Fich và Shivdasani năm 2006 nghiên cứu
về tác động của sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị lên thành quả hoạt động của
các công ty phi tài chính hay nghiên cứu của tác giả Elyas Elyasiani và Ling Zhang
năm 2015 nghiên cứu về sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị tác động đến thành
quả và rủi ro của các công ty nắm vốn ngân hàng. Nhìn chung, bên cạnh những khía
cạnh truyền thống liên quan đến hội đồng quản trị và thành quả của công ty, vấn đề
kiêm nhiệm của hội đồng quản trị cũng đã và đang được nghiên cứu ngày càng

chuyên sâu hơn. Ở mặt tích cực, các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm nhiều
vị trí ở các công ty khác là những người phải có được kiến thức rất tốt, đi kèm với
đó là kinh nghiệm trong quản trị, những danh tiếng và các mối quan hệ mà họ có thể
mang lại cho công ty, đây là những tài sản vô hình vô cùng quý báu mà các công ty
rất khó để kiếm được. Tuy nhiên, ở mặt tiêu cực, các thành viên bận kiêm nhiệm
quá nhiều vị trí quản trị ở các công ty phải chia sẽ quỹ thời gian, cùng với đó là sức
lực của mình để cùng lúc quản trị ở nhiều công ty, từ đó có khả năng dẫn đến việc
lơ là trong việc tư vấn và đưa ra những quyết định quản trị sáng suốt cho công ty.
Các nghiên cứu trước đây cũng đưa ra các bằng chứng nghiên cứu trái ngược nhau
đối với vấn đề sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả công ty. Như tác
giả Ferris et al. không tìm thấy bằng chứng chứng tỏ sự kiêm nhiệm của hội đồng
quản trị tác động đến thành quả của công ty trong khi tác giả Fich và Shivdasani lại
tìm ra được bằng chứng cho thấy sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị có tác động
xấu đến thành quả của công ty.
Nhìn chung, tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu này có thể tóm gọn trong các ý
chính sau: Đầu tiên, đó là vì vấn đề sự ảnh hưởng của hội đồng quản trị công ty –
trong đó nổi bật là sự kiêm nhiệm của họ ở các công ty khác, có thật sự có ích hay
gây hại cho các công ty họ đang quản lý hay không vẫn cần sự giải đáp mà các bài
nghiên cứu trước đây rất ít tìm hiểu đến. Từ đó cần có hướng mở rộng ra hơn


3

nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến hội đồng quản trị của công ty như là sự
kiêm nhiệm hoặc các vấn đề khác thay vì các vấn đề đã được các nghiên cứu trước
đây nghiên cứu kỹ như quy mô hay khả năng quản trị của hội đồng quản trị công
ty...
Thứ hai, những nghiên cứu trước đây, khi nghiên cứu về sự kiêm nhiệm của hội
đồng quản trị, thường tập trung vào tác động đến thành quả của công ty. Tuy nhiên,
các tác giả đã bỏ qua một yếu tố quan trọng không kém, đó chính là tác động lên cả

rủi ro hoạt động của công ty. Hiện tại chỉ mới có nghiên cứu của tác giả Elyas
Elyasiani và Ling Zhang năm 2015 đã đề cập đến tác động của sự kiêm nhiệm của
hội đồng quản trị ảnh hưởng đến rủi ro hoạt động của các công ty nắm vốn trong
ngân hàng. Các nghiên cứu khác thường bỏ qua hoặc nhắc đến rất ít về khía cạnh
này, vì vậy bài nghiên cứu này nhằm mục đích đào sâu hơn vấn đề rủi ro hoạt động
của các công ty, không chỉ trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như tác giả Elyas
Elyasiani và Ling Zhang đã nghiên cứu mà mở rộng ra các doanh nghiệp phi tài
chính khác.
Thứ ba, cùng với sự nghiên cứu về vấn đề kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và
thành quả, rủi ro của công ty. Qua bài nghiên cứu này, tồn tại một vấn đề mà các
nghiên cứu trước chưa ít đề cập đến. Đó là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, một số doanh nghiệp nhờ vào sự lãnh đạo, tư vấn, giám sát tài tình của các
thành viên hội đồng quản trị nên đã đứng vững trước khó khăn, điều này đặt ra câu
hỏi phải chăng sự kiêm nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị lúc này đã phát
huy tác dụng để giúp công ty vượt qua khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng ? Do
đó, việc đưa vấn đề này vào bài nghiên cứu cũng sẽ cho chúng ta được lời giải đáp
hợp lý.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu trọng tâm của bài chính là xác định xem sự kiêm nhiệm của
hội đồng quản trị thực sự có ích cho công ty hay không. Dựa trên các nghiên cứu
trước, tôi cho rằng việc kiêm nhiệm của hội đồng quản trị công ty sẽ giúp gia tăng


4

thành quả của công ty đồng thời làm giảm đi rủi ro mà công ty phải đối mặt vì lý do
các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm mặc dù sẽ phải chia sẽ quỹ thời gian
và sức lực của mình cho việc quản trị nhiều công ty nhưng họ sẽ mang đến cho
công ty nhiều kinh nghiệm, kiến thức quản trị, các kỹ năng cần thiết đồng thời đưa
ra được những sự tư vấn hợp lý nhất cùng với những quyết định quản trị đúng đắn.

Dựa trên các lập luận trên, bài nghiên cứu này đã tìm được một số bằng chứng cho
thấy các công ty có nhiều thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm sẽ có thành quả
tốt hơn đồng thời rủi ro cũng ít hơn. Các tiêu chí đo lường thành quả hoạt động của
công ty trong bài nghiên cứu này bao gồm tỷ số Ebit trên tổng tài sản, Tobin’s Q và
ROE. Các tiêu chí được sử dụng để đo lường rủi ro của công ty bao gồm rủi ro tổng
thể, rủi ro thị trường (hệ số Beta) và hệ số Z-Score.
Ngoài ra, một vấn đề đáng quan tâm trong bài nghiên cứu này là sự kiêm nhiệm của
hội đồng quản trị có giúp công ty thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
hay không. Một số kết quả nghiên cứu trong bài cũng cho thấy các tác động tích cực
của hội đồng quản trị kiêm nhiệm trong cuộc khủng hoảng tài chính khi gia tăng
thành quả của công ty. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính cũng làm cho sự
kiêm nhiệm phản tác dụng và làm gia tăng rủi ro mà công ty phải hứng chịu.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu lớn nhất trong bài này chính là sự kiêm nhiệm của hội đồng
quản trị công ty có lợi hay không? Hay nói cách khác là sự kiêm nhiệm có giúp ích
cho công ty hay không hay sẽ làm hại cho công ty?
Để trả lời được câu hỏi nghiên cứu này, tôi đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu để giải
quyết vấn đề nghiên cứu trong bài đồng thời tìm câu trả lời thông qua kết quả
nghiên cứu:
 Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị có ảnh hưởng đến thành quả của công ty
thể hiện qua các chỉ số ROE, Tobin’s Q, Ebit/tổng tài sản hay không?
 Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị có ảnh hưởng đến rủi ro của công ty thể
hiện qua các chỉ số rủi ro tổng thể, rủi ro thị trường, rủi ro phá sản hay không?


5

 Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị có tác dụng trong thời kỳ khủng hoảng
kinh tế năm 2008 – 2010 hay không? Và nó có ảnh hưởng như thế nào đến thành
quả và rủi ro hoạt động của công ty?

1.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài là sự kiêm nhiệm của các thành viên hội đồng quản
trị công ty – được tính là số lượng thành viên hội đồng quản trị trong một công ty
phải nắm giữ từ ba vị trí hội đồng quản trị trở lên ở các công ty khác nhau ảnh
hưởng đến thành quả của công ty – đo lường bằng chỉ số ROE, Tobin’s Q, Ebit/tổng
tài sản và rủi ro của công ty – đo lường bằng rủi ro tổng thể, rủi ro thị trường và rủi
ro phá sản.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trong bài nghiên cứu này, tôi sẽ tìm hiểu về
mối quan hệ giữa sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả cũng như là rủi
ro của các doanh nghiệp dựa trên mẫu nghiên cứu là 50 doanh nghiệp phi tài chính
được niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam (bao gồm hai sàn HOSE và
HNX) trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2015. Theo các quan sát trong mẫu, trung
bình số vị trí quản trị một thành viên hội đồng quản trị công ty nắm giữ là 2.3, điều
này cho thấy xu hướng hiện nay đa số các thành viên hội đồng quản trị của công ty
đều nắm giữ vị trí hội đồng quản trị của công ty khác, vì vậy việc xác định xem một
thành viên hội đồng quản trị thực sự có kiêm nhiệm hay không được thực hiện theo
cách đếm số vị trí quản trị mà họ nắm giữ tại thời điểm quan sát, một thành viên
được xem là kiêm nhiệm thực sự khi họ nắm giữ ba vị trí quản trị ở các công ty
khác nhau.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, mô hình hồi quy dữ
liệu bảng với hiệu ứng cố định theo cách làm của tác giả Fich và Shivdasani trong
bài nghiên cứu năm 2006 nghiên cứu về thành quả và sự kiêm nhiệm của các doanh
nghiệp phi tài chính tại Mỹ và tác giả Elyas Elyasiani và Ling Zhang năm 2015


6

nghiên cứu về thành quả, rủi ro và sự kiêm nhiệm của các công ty nắm vốn ngân

hàng..
1.7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Bài nghiên cứu này của tôi đóng góp cho các nghiên cứu trước và sau này ở các
điểm chính như sau.
Đầu tiên, bài nghiên cứu này thực tế đã nghiên cứu được mối quan hệ giữa sự kiêm
nhiệm của hội đồng quản trị và thành quả hoạt động của công ty, các kết quả nghiên
cứu cho thấy sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị sẽ có các tác động tích cực nhất
định đến thành quả của công ty.
Điều quan trọng thứ hai đó là bài nghiên cứu đã nghiên cứu được mối quan hệ giữa
sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị của và rủi ro của các công ty đó, điều này dẫn
đến sự quan tâm về các hành vi tiếp nhận rủi ro của hội đồng quản trị – nhằm tạo
được tỷ suất sinh lợi tốt hơn theo lý thuyết đánh đổi về rủi ro – tỷ suất sinh lợi, kết
quả nghiên cứu trong bài cũng chỉ ra rằng sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị
mang lại các rủi ro ít hơn cho công ty.
Đa số các nghiên cứu trước đây khi nghiên cứu về hội đồng quản trị ít chú trọng vào
vấn đề sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị mà chủ yếu tập trung nghiên cứu sâu
hơn về quy mô và các thành viên của hội đồng quản trị. Vì các lập luận trên, có thể
thấy bài nghiên cứu này có thể mở ra một hướng nghiên cứu sâu hơn về hội đồng
quản trị của công ty. Từ vấn đề sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị công ty, có thể
mở rộng ra lợi ích của các cổ đông công ty sẽ có được từ hội đồng quản trị kiêm
nhiệm thể hiện qua việc thành quả hoạt động gia tăng và giảm đi rủi ro có thể gặp
phải như các rủi ro thị trường, rủi ro đặc thù, rủi ro phá sản... ngoài ra các nhà quản
trị công ty như CEO, CFO cũng có thể có được nhiều sự tư vấn hợp lý từ các thành
viên kiêm nhiệm trên cũng như là tạo dựng các mối quan hệ rộng lớn với các đối tác
bên ngoài.
Cuối cùng, bài nghiên cứu đã trả lời cho câu hỏi về ảnh hưởng của sự kiêm nhiệm
của hội đồng quản trị lên thành quả và rủi ro của công ty trong thời kỳ khủng hoảng


7


kinh tế năm 2008 – 2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế năm 2008 – 2010, sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị đã phát huy
tác dụng làm gia tăng thành quả của công ty tuy nhiên cũng chính sự kiêm nhiệm
cũng đã bộc lộ các điểm yếu của mình từ đó đã góp phần làm giảm khả năng phòng
ngừa rủi ro của công ty.
1.8. Kết cấu của bài nghiên cứu
Cấu trúc của bài nghiên cứu được chia thành các phần như sau:
 Phần 1 giới thiệu tổng quan về bài nghiên cứu.
 Phần 2 giới thiệu về tổng quan các nghiên cứu trước đây.
 Phần 3 mô tả về cách thức thu thập dữ liệu, giới thiệu các biến và thực hiện
thống kê mô tả dữ liệu.
 Phần 4 giới thiệu mô hình nghiên cứu và phương pháp thực hiện mô hình
nghiên cứu.
 Phần 5 đưa ra các kết quả thực nghiệm.
 Phần 6 kiểm tra tính bền vững của mô hình.
 Phần 7 là phần kết luận, các hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo cho bài.


8

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

2.1. Cơ sở lý thuyết: Lý thuyết chi phí đại diện
2.1.1. Nghiên cứu của Jensen và Meckling (1976) về lý thuyết chi phí đại diện
Jensen và Meckling là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết
về chi phí đại diện hình thành trong một công ty. Theo tác giả Jensen và Meckling,
lý thuyết về chi phí đại diện thể hiện mối quan hệ hợp đồng giữa một bên là người
chủ sở hữu vốn của công ty và một bên là người quản lý, là người đại diện thực hiện
các quyết định của công ty. Chi phí đại diện xảy ra khi có phát sinh những thiệt hại

do người quản lý không cố gắng làm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Lý thuyết đại
diện nêu ra vấn đề chính là làm thế nào để cho người đại diện làm việc vì lợi ích cao
nhất cho người chủ khi họ có lợi thế về thông tin hơn người chủ và có những lợi ích
khác với lợi ích của người chủ.
Theo Jensen, vấn đề chi phí đại diện phát sinh thông qua các mối quan hệ sau:
Quan hệ giữa cổ đông và người quản lý
Các cổ đông – người chủ của công ty, luôn cần tìm kiếm những người đủ khả năng
đại diện cho mình để quản lý công ty. Những nhà quản lý, là những người được
thuê để quản lý cho công ty của người chủ, hiểu rõ tầm quan trọng của mình những
lợi ích không nhỏ, họ được quyền ra quyết định và thực hiện các hoạt động mà được
cho là sẽ đem lại lợi ích cho các cổ đông, họ được hưởng lương và các khoản lợi tức
khác từ công việc quản trị công ty, họ có cơ hội nâng cao uy tín quản trị của mình
khi công ty hoạt động hiệu quả, từ đó nâng cao vị thế của mình trong thị trường lao
động,… Khi bỏ tiền ra thuê người đại diện điều hành công ty, các cổ đông – chủ sở
hữu của công ty mong muốn mọi hoạt động của người đại diện đều nhằm mục đích
tối đa hoá giá trị tài sản của công ty. Trong khi đó, người đại diện – Người điều
hành – của công ty lại có những lợi ích cá nhân riêng biệt, họ có thể trực tiếp quyết
định hay ngụy tạo ra các lý do khiến cho các ông chủ không thực hiện đầu tư vào
những dự án có tỷ suất sinh lợi cao vì tâm lý e ngại rủi ro, hoặc quyết định đầu tư
vào những dự án không đem lại lợi nhuận tối ưu cho công ty nhưng lại đem lại lợi


9

nhuận cho ví riêng của họ, hay thậm chí với những thông tin và quyền lực có được
từ việc điều hành công ty, họ có thể giúp ví tiền của thân nhân họ nhiều thêm mà
không cần quan tâm đến lợi nhuận hay những hậu quả mà công ty sẽ phải gánh
chịu. Những mâu thuẫn này về lợi ích của nhà quản lý và cổ đông đã dẫn đến phát
sinh chi phí đại diện cho công ty.
Quan hệ giữa cổ đông và chủ nợ:

Mối quan hệ thứ hai dẫn đến vấn đề phát sinh chi phí đại diện trong công ty là mối
quan hệ giữa cổ đồng và chủ nợ. Các cổ đông, lúc này đóng vai trò người đại diện
vay của chủ nợ để thực hiện các quyết định đầu tư nhằm mang lại lợi ích cao nhất
cho cả hai. Khi quyết định cho vay, các chủ nợ của công ty quan tâm đến phần thu
nhập của họ dưới dạng lãi suất cho vay cũng như tài sản của công ty trong trường
hợp phá sản. Trong khi đó, các cổ đông lại nắm quyền kiểm soát những quyết định
điều hành ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của dòng tiền và những rủi ro liên quan
(thông qua người điều hành doanh nghiệp). Các chủ nợ cho doanh nghiệp vay tiền
với lãi suất cho vay phụ thuộc vào mức độ rủi ro của tài sản, tỷ lệ nợ trên vốn cổ
phần trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp, cũng như những kì vọng về những thay
đổi trong mức độ rủi ro của 2 biến này. Còn các cổ đông, thông qua các nhà điều
hành, mong muốn doanh nghiệp mình thực hiện các dự án có độ rủi ro cao hơn
nhằm đạt tỉ suất sinh lợi cao hơn. Nếu dự án đầu tư vốn đầy rủi ro này thành công,
tất cả lợi nhuận sẽ thuộc về các cổ đông của công ty, bởi vì lợi nhuận của người cho
vay là cố định ở mức lãi suất tương ứng rủi ro thấp ban đầu. Tuy nhiên, nếu dự án
thất bại, các chủ nợ buộc phải chia sẻ những thiệt hại, bị trì hoãn việc chi trả nợ gốc
và lãi suất, hoặc thậm chí mất cả số tiền đã cho vay.
2.1.2. Nghiên cứu của các tác giả khác về chi phí đại diện
Ang, Cole & Lin (2000) đã thực hiện nghiên cứu trên những công ty chưa niêm yết
tại Mỹ và kết luận rằng chi phí đại diện tăng lên đáng kể ở những công ty được
quản lý bởi một giám đốc không phải là cổ đông của công ty. Ngoài ra, chi phí đại
diện và số lượng cổ phần của nhà quản lý công ty có mối quan hệ nghịch biến với
nhau. Chi phí đại diện tăng lên cùng với số lượng những cổ đông không nằm trong


10

bộ phận quản lý công ty.
Bên cạnh mối quan hệ với cấu trúc quyền sở hữu, chi phí đại diện còn có sự tương
quan với các yếu tố khác của công ty. Trong nghiên cứu của Ang, Cole & Lin

(2000), chi phí đại diện có xu hướng giảm đi cùng với sự tăng lên về mặt kiểm soát
từ phía các chủ nợ. Tương tự, Zhang & Li (2008) đã chỉ ra rằng tỷ lệ nợ trên tài sản
của công ty có mối quan hệ nghịch biến với chi phí đại diện trên mẫu nghiên cứu
các công ty ở Anh.
Moh’d, Perry và Rimbey (1995) đã nghiên cứu trên 341 công ty tại Mỹ trong 18
năm và cho rằng có mối quan hệ tồn tại giữa chi phí đại diện và chính sách chia cổ
tức của công ty. Sử dụng tiền mặt để chia cổ tức buộc các nhà quản lý công ty phải
tìm kiếm nguồn tài trợ từ bên ngoài, dẫn đến việc họ cắt giảm bớt chi phí đại diện
để đáp ứng những yêu cầu của các nhà tài trợ trên thị trường vốn.
2.2. Các nghiên cứu trước đây về sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và
thành quả, rủi ro của công ty
Nhiều người cho rằng các thành viên hội đồng quản trị của công ty kiêm nhiệm
nhiều vị trí khác nhau thường có những kiến thức có giá trị, kinh nghiệm trong việc
quản lý và các uy tín trên thương trường tuy nhiên họ lại quá bận rộn để có thể giám
sát được hoạt động của công ty mình. Ferris năm 2003 lần đầu tiên nghiên cứu về
tác động của hội đồng quản trị kiêm nhiệm nhiều vị trí lên thành quả của các doanh
nghiệp phi tài chính. Trong nghiên cứu này họ đã phát hiện ra rằng các thành viên
hội đồng quản trị của các doanh nghiệp lớn và có khả năng sinh lợi nhuận cao
thường nắm giữ vị trí hội đồng quản trị ở các doanh nghiệp khác, điều này được lý
giải là do họ làm việc ở các công ty lớn nên sẽ dễ dàng thu hút được sự chú ý của
các công ty khác từ kinh nghiệm quản lý, danh tiếng của họ và từ đó họ sẽ được mời
nắm giữ thêm nhiều vị trí quản trị ở công ty khác. Phát hiện lớn nhất của nghiên cứu
này chính là việc kiêm nhiệm vị trí quản trị ở nhiều công ty khác nhau không thể
khiến cho họ thoái thác trách nhiệm của mình được và do đó, hội đồng quản trị
kiêm nhiệm sẽ không ảnh hưởng đến thành quả công ty.


11

Nghiên cứu của Fich và Shivdasani năm 2006 nghiên cứu về ảnh hưởng do các

thành viên hội đồng quản trị phải kiêm nhiệm nhiều vị trí đến khả năng quản trị
cũng như là hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Câu hỏi nghiên cứu của bài là có
phải hội đồng quản trị kiêm nhiệm ảnh hưởng đến khả năng quản trị hay không.
Trong nghiên cứu này, họ định nghĩa một hội đồng quản trị kiêm nhiệm nhiều vị trí
nếu như số nhiều thành viên hội đồng quản trị bên ngoài nắm giữ ba vị trí hội đồng
quả trị trở lên tại các công ty. Kết quả tìm được cho thấy hội đồng quản trị quá kiêm
nhiệm gây hại cho hiệu quả hoạt động của công ty, thể hiện qua các kiểm định cho
thấy các công ty có hội đồng quản trị bận kiêm nhiệm sẽ có các tỷ số giá trị thị
trường trên sổ sách, khả năng sinh lợi và độ nhạy của doanh thu do CEO mang lại
so với hiệu quả hoạt động thấp hơn các công ty khác. Bài nghiên cứu tương tự của
Hauser năm 2014 cũng cho thấy sự giảm đi gánh nặng quản trị sẽ dẫn đến thu nhập
cao hơn, tỷ số thị trường trên sổ sách cao hơn và khả năng các CEO kiếm lại được
nhiều hợp đồng có giá trị hơn.
Nghiên cứu của Elyas Elyasiani và Ling Zhang năm 2015 nghiên cứu vấn đề kiêm
nhiệm của hội đồng quản trị lên thành quả hoạt động và rủi ro của các công ty nắm
giữ ngân hàng (BHC). Kết quả nghiên cứu của tác giả có các phát hiện quan trọng,
thứ nhất, thành quả của các công ty BHC (đo lường bằng các tỷ số ROE, tobin’s Q,
EBIT trên tổng tài sản) có tương quan dương với sự kiêm nhiệm của hội đồng quản
trị. Thứ hai, rủi ro hoạt động của các BHC (đo lường bằng rủi ro tổng, rủi ro thị
trường, rủi ro phi hệ thống, rủi ro tín dụng và rủi ro phá sản) có tương quan âm với
sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị. Thứ ba, lợi ích (hoặc tác hại) của việc có các
thành viên quản trị mạnh lên (hoặc yếu đi) trong giai đoạn khủng hoảng 2008 –
2010). Cuối cùng, nếu các thành viên hội đồng quản trị vừa tham gia hoạt động
trong hội đồng quản trị ở các BHC lẫn các công ty phi tài chính, họ có xu hướng
tham dự nhiều cuộc họp hội đồng quản trị ở các BHC hơn.
Trong một khảo sát trên 500 công ty lớn tại Mỹ được thực hiện bởi tác giả Korn và
Ferry (1998) cho thấy rằng phải làm quá nhiều công việc quản trị có thể có tác động
tiêu cực đến nhà quản trị. 60% các thành viên hội đồng quản trị bên ngoài cho biết



12

họ đã từng từ chối các lời mời làm thêm ít nhất một vị trí nữa trong thành viên hội
đồng quản trị của các công ty khác vì lí do được đưa ra là không có đủ thời gian và
sức lực để phục vụ cho nhiều công ty. Những nhà quản trị này tin rằng việc phải
kiêm nhiệm quá nhiều sẽ làm họ trở nên phân tâm hơn và từ đó giảm đi hiệu quả
quản trị của mình. Các tác giả này cũng đưa ra kiến nghị rằng các CEOs và các
thành viên hội đồng quản trị bên trong của công ty chỉ nên gói gọn vị trí hội đồng
quản trị trong chính công ty đó và nên để sự kiêm nhiệm cho các thành viên bên
ngoài thực hiện. Mặc dù vậy, lợi ích của việc kiêm nhiệm đem lại là các kinh
nghiệm, kiến thức quản trị quý báu là không thể phủ nhận.
Nhiều lý thuyết cho rằng công ty có hội đồng quản trị kiêm nhiệm nhiều vị trí được
hưởng lợi từ nguồn kinh nghiệm quý báu và danh tiếng đối với các thành viên Hội
Đồng Quản Trị bên ngoài. Fama và jensen 1983 lưu ý rằng các tác động về danh
tiếng có thể trở thành những ưu đãi quan trọng đối với những thành viên bên ngoài.
Tuy nhiên có tương đối ít bằng chứng thể hiện chi phí liên quan đến việc các thành
viên hội đồng quản trị phải phục vụ cho nhiều công ty, và các nghiên cứu trước đó
về chủ đề này là không thuyết phục. Beasley (1996) thấy rằng rằng xác suất của
việc gian lận kế toán có sự tương quan dương đến số trung bình các vị trí quản lý
được nắm giữ bởi các thành viên bên ngoài. Core, Holthausen, và Larcker (1999)
báo cáo rằng các thành viên Hội đồng quản trị bên ngoài đưa ra mức đãi ngộ cho
các CEO cao ngất ngưởng, do đó dẫn đến làm giảm thành quả của công ty. Ngược
lại, Ferris, Jagannathan, và Pritchard (2003) lại không tìm thấy mối quan hệ nào
giữa con số trung bình các vị trí quản lý được nắm giữ bởi các thành viên bên ngoài
và tỷ số giá trị thị trường trên sổ sách của công ty.
Ngoài ra, sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị trước và sau công ty gặp khủng
hoảng cũng có sự khác biệt. Như tác giả Gilson trong nghiên cứu năm 1990 đã phát
hiện ra rằng các thành viên hội đồng quản trị bên ngoài rời bỏ công ty bị kiệt quệ tài
chính sẽ nắm giữ xấp xỉ một đến ba vị trí hội đồng quản trị ở các công ty sau này
sau ba năm kể từ rời công ty cũ.



13

Chi phí để chiêu mộ thêm các thành viên hội đồng quản trị cũng khá tốn kém. Theo
như nghiên cứu của Kaplan and Reishus năm 1990 thì các nhà quản trị của doanh
nghiệp phải chấp nhận cắt giảm cổ tức gần 50% để chiêu mộ thêm vị trí hội đồng
quản trị cho công ty.
Similarly, Brickley, Linck, và Coles trong nghiên cứu năm 1999 cho thấy rằng các
vị trí hội đồng quản tri được nắm giữ bởi các CEO đã nghỉ hưu – thường là những
người đã từng hoặc đang kiêm nhiệm nhiều vị trí quản trị ở các công ty sẽ có tác
động tích cực đến thành quả của công ty.
Tác giả Booth và Deli trong nghiên cứu năm 1995 lập luận rằng các công ty có quy
mô lớn là những công ty mang đến môi trường kinh doanh thu hút hơn, vì vậy cũng
đòi hỏi phải có nhiều đối tác hơn. Điều này làm gia tăng nhu cầu chiêu mộ thêm các
thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm để có thể tận dụng các mối quan hệ ngoài
xã hội từ họ. Ngoài ra, mối quan hệ giữa quy mô công ty và số vị trí quản trị được
các thành viên hội đồng quản trị nắm giữ còn được lý giải là do các nhà điều hành
đến từ các doanh nghiệp lớn có thể bị các doanh nghiệp khác lôi kéo khi đang
thương thảo hợp đồng với các doanh nghiệp ấy.
Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra các bằng chứng cho thấy sự kiêm nhiệm của
hội đồng quản trị thực sự có liên quan đến thành công của công ty. Miwa và
Ramseyer trong nghiên cứu năm 2000 phát hiện ra rằng sự hiện diện của các thành
viên hội đồng quản trị nắm giữ nhiều vị trí quản trị có liên quan mật thiết đến thành
quả của công ty trong ngành công nghiệp cotton của Nhật trong suốt những năm
đầu thế kỷ 20. Tác giả Cotter, Shivdasani và Zenner năm 1997 cũng đưa ra các tài
liệu cho thấy các cổ đông trong công ty nhận được các lợi ích gia tăng lớn hơn kỳ
vọng khi một công ty có các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm. Cuối cùng,
các tác giả Brown và Maloney năm 1999 phát hiện ra rằng các công ty đạt được tỷ
suất sinh lợi khá cao khi có các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm.

2.3. Các nghiên cứu khác liên quan đến hội đồng quản trị và thành quả, rủi ro
của công ty


14

Yermack (1996) cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy những công ty có hội đồng
quản trị quy mô nhỏ hơn thường mang lại hiệu quả quản trị cao hơn. Trong bài
nghiên cứu sử dụng mẫu 452 công ty công nghiệp lớn của Mỹ từ năm 1984 đến
1991, Yermack đã tìm thấy mối tương quan nghịch giữa giá trị thị trường của công
ty và quy mô của hội đồng quản trị được đo bằng số thành viên hội đồng quản trị.
Hơn nữa, ông cũng thấy rằng, trong các công ty có Hội đồng quản trị với quy mô
nhỏ hơn, các CEO dễ dàng bị phế truất và thay thế bằng người khác nếu thành quả
của công ty kém đi.
Bài nghiên cứu của tác giả Raheja (2005) lại nghiên cứu về tầm quan trọng của các
cổ đông bên ngoài so với các đổ công bên trong công ty trong vấn đệ quản trị doanh
nghiệp. Tác giả bài nghiên cứu này cho rằng những “người trong cuộc” – là các cổ
đông nắm các thông tin quan trọng của công ty sẽ có thông tin công ty cụ thể hơn
nhưng có thể sẽ bị ảnh hưởng, hay nói cách khác là phụ thuộc vào các CEO, trong
khi các cổ đông bên ngoài tuy nắm ít thông tin hơn nhưng lại hoàn toàn độc lập với
CEO, và do đó, sẽ hiệu quả hơn trong việc giám sát các CEO. Ngoài ra, tác giả cũng
tìm thấy mối quan hệ cho thấy hiệu quả quản trị của hội đồng quản trị có ảnh hưởng
bởi số lượng các thành viên hội đồng quản trị bên ngoài.
Một số nghiên cứu khác cũng cung cấp bằng chứng cho thấy rằng các công ty có số
lượng thành viên hội đồng quản trị bên ngoài nhiều thường có hiệu quả hơn trong
việc giám sát công ty và đem lại nhiều lợi ích của cổ đông, đó là trường hợp của
Weisbach (1988), trong bài nghiên cứu năm 1988, ông thấy rằng trong một công ty
mà hội đồng quản trị được kiểm soát bởi đa số các thành viên bên ngoài, các CEO
thường bị giám sát rất chặt chẽ và có nhiều khả năng phải từ chức thành quả của
công ty kém đi.

Nghiên cứu của hai tác giả Rosenstein và Wyatt (1990) cũng cho thấy giá cổ phiếu
thường có xu hướng tích cực trước và sau các cuộc họp của các thành viên hội đồng
quản trị.
Tác giả Byrd và Hickman (1992) lại tìm thấy rằng các công ty có ít nhất 50% thành


15

viên hội đồng quản trị là thành viên độc lập sẽ có lợi nhuận bất thường lớn hơn
đáng kể so với các công khác.
Ngoài ra ông Brickley et al. (1994) cũng tìm thấy các bằng chứng rằng phản ứng
của thị trường đối với giá cổ phiếu của các công ty khi đón nhận một thông tin bất
lợi sẽ tích cực hơn đối với các công ty có phần lớn thành viên hội đồng quản trị độc
lập và sẽ tiêu cực hơn đối với các công ty không có thành viên độc lập.
Ngoài vai trò giám sát ra, hội đồng quản trị còn có một vai trò khác khá quan trọng,
đó là vai trò cố vấn. Tuy nhiên so với vai trò giám sát, vai trò cố vấn ít thu hút được
sự chú ý hơn (theo tác giả oles et al., 2008)
Theo tác giả Dalton et al. (1999), các công ty có hội đồng quản trị với quy mô lớn
thường đưa ra các lời khuyên bổ ích cho các nhà quản trị, và các lời khuyên này chủ
yếu đến từ các thành viên độc lập bên ngoài. Theo nghiên cứu của Fich (2005) cho
thấy rằng các công ty thường muốn bổ nhiệm CEO của các công ty khác làm thành
viên hội đồng quản trị độc lập bởi các lời khuyên họ sẽ đưa ra để điều hành công ty
mình là rất cần thiết.
Tác giả Coles et al. (2008) lập luận rằng đối với hội đồng quản trị của một công ty
phức tạp (được định nghĩa là các công ty được đa dạng hóa với cơ cấu vốn tập trung
chủ yếu ở các khoản nợ, chức năng tư vấn của hội đồng quản trị cần phải được chú
trọng phát huy một cách cần thiết. Theo đó Coles cho rằng các công ty phức tạp nên
có hội đồng quản trị quy mô lớn với các thành viên bên ngoài nhiều hơn bởi vì các
thành viên bên ngoài sẽ mang về chuyên môn và kiến thức và cung cấp lời khuyên
tốt hơn cho việc điều hành công ty (điều này cũng giống theo ý kiến của các tác giả

Hermalin và Weisbach, 1988;. Dalton et al, 1999; Agrawal và Knoeber, năm 2001;
Fich, 2005).
Sử dụng dữ liệu về các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp 1992-2001, Coles
et al. (2008) phát hiện ra rằng các công ty phức tạp thường có hội đồng quản trị với
quy mô lớn và thành quả hoạt động (đo lường bằng Tobin’s Q) có tương quan
dương với quy mô của hội đồng quản trị. Tác giả giải thích rằng thực chất mối


16

tương quan dương này có được là do các thành viên hội đồng quản trị bên ngoài đã
mang lại những sự tư vấn hợp lí cho ban điều hành của công ty.
Tác giả Ronald C. Anderson và David M.Reeb khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa
thành quả của công ty và cấu trúc sở hữu của công ty trong bài nghiên cứu năm
2003 đã phát hiện ra rằng các doanh nghiệp được sở hữu theo kiểu gia đình sẽ đạt
được thành quả tốt hơn các doanh nghiệp khác. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của hai
tác giả trên cũng cho thấy rằng đối với các công ty theo kiểu gia đình có CEO là
thành viên trong gia đình sẽ đạt được hiệu quả cao hơn so với thuê CEO bên ngoài.
Tác giả Audra L.Boone trong bài nghiên cứu năm 2007 về quy mô của hội đồng
quản trị và sự tăng trưởng của công ty khi nghiên cứu về các hồ sơ của doanh
nghiệp 10 năm sau khi IPO cũng đã phát hiện ra rằng quy mô của hội đồng quản trị
và sự độc lập của hội đồng có sự tương quan dương với mức độ tăng trưởng của
công ty, cho thấy công ty ngày càng tăng trưởng, phát triển thì đòi hỏi hội đồng
quản trị cũng phải gia tăng về số lượng cũng như là sự độc lập để có thể kiểm soát
được công ty. Bài nghiên cứu này cũng tìm phát hiện ra rằng quy mô của hội đồng
quản trị phản ánh sự đánh đổi giữa một bên là lợi nhuận của công ty và một bên là
các chi phí quản lý, hàm ý rằng công ty càng muốn tăng lợi nhuận thì càng phải gia
tăng về quy mô của hội đồng quản trị tuy nhiên điều này sẽ vấp phải trở ngại là sự
gia tăng của các chi phí thù lao cho hội đồng quản trị.
Đề cập đến vấn đề quy mô của hội đồng quản trị được tính bằng số thành viên của

hội đồng quản trị và thành quả của công ty, trong bài nghiên cứu năm 2012 về tác
động của số lượng thành viên hội đồng quản trị lên thành quả của công ty đo lường
bằng hệ số Tobin’s Q và ROE, tác giả Paul Guest đã sử dụng mẫu bao gồm 2,746
công ty niêm yết tại Anh trong giai đoạn từ 1981 – 2002 và kết quả nghiên cứu cho
thấy quy mô của hội đồng quản trị có tương quan âm khá mạnh đối với thành quả
của công ty, đặc biệt, sự tương quan âm này lớn dần theo quy mô của công ty, cho
thấy các công ty có quy mô càng lớn, càng muốn đạt được thành quả cao thì quy mô
hội đồng quản trị phải giảm đi tương ứng.


17


18

CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU

3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
Phạm vi nghiên cứu là các công ty được niêm yết trên sàn chứng khoán tại việt Nam
giai đoạn 2009 – 2015, không bao gồm các ngân hàng, công ty tài chính hoặc có
liên quan đến lĩnh vực tài chính.
Các dữ liệu liên quan đến số liệu kế toán, giá trị thị trường, sổ sách được lấy từ báo
cáo tài chính hợp nhất thời điểm 31/12 các năm.
Các dữ liệu liên quan đến Hội Đồng Quản Trị: được thu thập thủ công, bằng cách
xem trên các báo cáo thường niên, các dữ liệu có sẵn trên các trang web như
www.google.com, www.cafef.vn, www.cophieu68.com, …
3.2. Mô tả các biến
Theo xu thế cổ phần hóa các doanh nghiệp hiện nay, một công ty dù ít hay nhiều
cũng sẽ có các thành viên hội đồng quản trị phải kiêm nhiệm nhiều vị trí ở các công
ty khác, đó vừa là lợi thế cũng vừa là điểm bất lợi của các công ty, việc này tùy

thuộc chủ yếu vào danh tiếng của các thành viên trong hội đồng quản trị cũng như
mức độ kiêm nhiệm của họ tại các công ty khác. Trong bài nghiên cứu này, một
thành viên hội đồng quản trị được xem là kiêm nhiệm nhiều công ty – biến quan
trọng nhất của bài nghiên cứu, được xác định bằng cách đếm số công ty mà họ có
tên trong hội đồng quản trị, họ được xác định là kiêm nhiệm nếu nắm giữ ba vị trí
hội đồng quản trị trở lên ở các công ty khác nhau, đây cũng là cách xác định của các
tác giả Fich và Shivdasani (2006), Ferris et al (2003), Elyas Elyasiani và Ling
Zhang (2015). Để xác định xem lựa ba vị trí được xem là kiêm nhiệm có phù hợp
với nghiên cứu này hay không, tôi đã thực hiện nghiên cứu với cách xác định các
thành viên là kiêm nhiệm nếu nắm giữ hai vị trí (phần 6 của nghiên cứu). Kết quả
cho thấy các dấu hiệu tương quan không rõ ràng bằng mẫu bao gồm các thành viên
kiêm nhiệm nắm giữ ba vị trí trở lên. Như vậy việc xác định các thành viên kiêm
nhiệm thông qua việc nắm giữ ba vị trí quản trị trở lên trong bài này là phù hợp.


19

Quy mô của hội đồng quản trị được xác định là tổng số lượng thành viên trong hội
đồng quản trị của một công ty, bao gồm cả chủ tịch và các thành viên hội đồng quản
trị độc lập.
Số tuổi của các thành viên hội đồng quản trị được tính bằng cách chia trung bình số
tuổi của các thành viên hội đồng quản trị theo từng năm.
Thành viên hội đồng quản trị “bên trong” công ty là các thành viên trực tiếp tham
gia điều hành công ty, thành viên hội đồng quản trị “bên ngoài” là các thành viên
hội đồng quản trị không tham gia điều hành công ty, định nghĩa này được đưa ra bới
tác giả Fich và Shivdasani trong nghiên cứu năm 2006 (dữ liệu thu thập được từ các
báo cáo thường niên của công ty).
Quy mô của công ty được tính dựa trên số liệu tổng tài sản, cụ thể quy mô công ty
tính bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản các thời điểm cuối năm tài chính (31/12).
Đòn bẩy của công ty, biến thể hiện số lượng nợ mà công ty sử dụng đồng thời cũng

phản ánh được mức độ an toàn trong việc sử dụng nguồn vốn của công ty được tính
bằng cách lấy tổng nợ chia cho tổng tài sản.
Rủi ro công ty được tính bằng độ lệch chuẩn của các tỷ suất sinh lợi hàng tháng.
Theo đó dữ liệu giá chứng khoán thời điểm đóng cửa ngày đầu và cuối tháng được
dùng để tính tỷ suất sinh lợi hàng tháng, trong 1 năm sẽ có 12 tỷ suất sinh lợi tháng
và từ đó tính ra được độ lệch chuẩn.
 Ba cách để đo lường thành quả hoạt động của công ty được sử dụng trong
bài nghiên cứu:
ROE: tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần
Tobin’s Q: theo cách tính của tác giả Adams và Mehran (2003), Laeven và Levine
(2009), chỉ số Tobin’s Q tính bằng công thức sau:
Tobin’s Q = (Giá thị trường của vốn cổ phần + giá trị sổ sách của tổng tài sản – giá
trị sổ sách của vốn cổ phần)/giá trị sổ sách của tổng tài sản.


×