Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề NGUỒN gốc và QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.94 KB, 18 trang )

NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1. Nguồn gốc thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2. Nguồn gốc tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3. Nhân tố chủ quan
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trang
2
3
3
5
11
12

2.1. Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng
(1890 – 1911)
2.2. Giai đoạn tìm tòi khảo nghiệm, xác định con đường cách mạng

13

Việt Nam (1911 – 1920)

13

2.3. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng
Việt Nam (1921- 1930)


14

2.4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định cho
cách mạng Việt Nam (1930 – 1945)

15

2.5. Giai đoạn phát triển và hoàn thiện của tư tưởng Hồ Chí Minh
(1945- 1969)
KẾT LUẬN

17
17


2
LỜI NÓI ĐẦU

Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II trở
lại đây, đã liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa tác dụng của đường lối chính
trị, tư tưởng đạo đức, phương pháp, phong cách… Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, quá
trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa thiết thực giúp
chúng ta hiểu được mối liên hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa
Mác-Lênin, truyền thống văn hoá dân dộc, tinh hoa văn hoá nhân loại và thực
tiễn lịch sử Việt Nam, đường lối cách mạng của Đảng.
1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1. Nguồn gốc thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh


Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ những điều kiện lịch sử - xã
hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Người đã sống và hoạt động. Thiên tài
của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phân tích khoa học tình hình chính trị
trong nước và quốc tế, nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để
tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
1.1.1. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một nước phong kiến,
nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ triều đại Tây Sơn, nhà Nguyễn
thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động: tăng cường đàn áp,
bóc lột bên trong và thực hiện "bế quan tỏa cảng" đối với bên ngoài; cự tuyệt
với mọi cải cách để rơi vào cảnh mất nước.
Xã hội Việt Nam dưới thời thực dân Pháp xâm lược là một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Sự cai trị, bóc lột tàn bạo, dã man của thực dân Pháp làm
cho tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam vô cùng khó khăn. Về kinh
tế: chế độ kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào thực dân Pháp; nhân dân lao động
cực khổ một cổ hai tròng; thực dân Pháp ra sức bóc lột, vơ vét tài nguyên
khoáng sản và bóc lột sức lao động của nhân dân Việt Nam. Về chính trị:
triều đình nhà Nguyễn thối nát, phản động bán nước. Từ khi Pháp xâm lược
Việt Nam (1858) đến cuối thế kỷ XIX, nhiều phong trào yêu nước chống
Pháp của nhân dân ta bùng nổ, dâng cao và lan rộng trong cả nước như:
Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật…


3
nhưng cuối cùng các phong trào ấy đều lần lượt thất bại. Điều đó cho thấy sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
Bước sang đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc
khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai
thác lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hóa

mạnh mẽ các giai tầng trong xã hội, mầm mống của giai cấp tư sản bắt
đầu xuất hiện. Cùng lúc đó ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách ở
Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện
của các phong trào: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt
Nam Quang Phục Hội… Nhưng các phong trào ấy cũng chỉ rộ lên một
thời gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt, một phần vì chưa lôi cuốn được các
tầng lớp nhân dân, phần khác vì các phong trào đó chủ yếu vẫn do các sĩ
phu phong kiến truyền bá và dẫn dắt, nên không tránh khỏi hạn chế và
thất bại. Như vậy, ngọn cờ tư tưởng tư sản cũng không đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, sứ mệnh lịch sử đặt ra
cho dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là tìm cho được con đường cứu nước, cứu
dân thoát khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai. Trong điều
kiện lịch sử ấy Hồ Chí Minh xuất hiện, đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của
dân tộc và thời đại.
1.1.2. Truyền thống quê hương và gia đình Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với
nhân dân, Cụ phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho
cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù,
ý chí kiên cường vượt mọi khó khăn gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt
tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách
chính trị - xã hội của cụ Bảng Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc đối với việc hình
thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.
Nghệ An, quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống giặc ngoại xâm; là nơi đã sinh ra nhiều anh hùng nổi tiếng trong


4

lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc Loan; Nguyễn Biểu; Đặng Dung; các nhà
lãnh tụ yêu nước như: Phan Đình Phùng; Phan Bội Châu…
Từ nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo
khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào; đã tận mắt chứng kiến tội ác
của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều.
Tất cả đã thôi thúc Người ra đi tìm con đường mới để cứu dân, cứu nước.
Như vậy, trước khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân bối cảnh đất
nước, truyền thống quê hương, gia đình đã chuẩn bị cho Hồ Chí Minh nhiều
mặt, trong đó cốt lõi là lòng yêu nước, thương dân. Chính cái nền tảng đó đã
thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và khi được kết hợp với trí
tuệ nhân loại, ánh sáng của thời đại tư tưởng Hồ Chí Minh nảy nở, hình thành
và phát triển không ngừng.
1.1.3. Bối cảnh thời đại

Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước trong khi chủ nghĩa tư bản đã
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, đã xác lập quyền thống trị của
chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa. Đa số các nước chậm phát triển trở thành
thuộc địa, hoặc phụ thuộc vào các nước đế quốc. Các mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản càng thêm sâu sắc, đồng thời xuất hiện những mâu thuẫn mới, đó
là mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, mâu
thuẫn giữa các đế quốc với nhau. Sự vận động của các mâu thuẫn này sẽ
quyết định sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
Do sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc, một số nước đế
quốc mạnh lên mưu đồ chia lại thuộc địa, dẫn đến chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1914-1918) lôi kéo 38 nước tham gia. Cuộc chiến tranh hao người tốn
của ấy dẫn đến chủ nghĩa tư bản suy yếu trong đó có tư bản Nga, tạo điều
kiện cho cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga 1917 giành thắng lợi,
mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.

Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo điều kiện thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc phát triển theo con đường mới: con đường cách
mạng vô sản.


5
1.2. Nguồn gốc tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống văn hoá tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, nhất là chủ nghĩa yêu nước

Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với
những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
Một là, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh
ra đi tìm đường cứu nước và đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một hệ thống những quan điểm, tư
tưởng, lý luận về sự tồn tại của đất nước; về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh
thổ; về sự đoàn kết gắn bó cộng đồng hướng về dân, lấy dân làm gốc, …
Trong đó, lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam xuất phát từ truyền thống yêu nước, kiên
cường, bất khuất của dân tộc, được hình thành và phát triển trong suốt chiều
dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi kẻ thù
hung bạo.
Được kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, cảm phục
trước tấm lòng yêu nước, thương dân của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, …, chủ nghĩa yêu nước đã thấm sâu vào
tâm trí của Hồ Chí Minh, trở thành động lực thúc đẩy Người ra đi tìm đường
cứu nước, cứu dân. Cũng chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Hồ Chí Minh đến
với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin; đó cũng là cơ sở để Người gắn bó với vận mệnh của dân tộc, của

Đảng và của mỗi người dân Việt Nam…
Hồ Chí Minh nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước”1.
Hai là, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương
ái, “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này cũng
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, tập 6, tr.171.


6
hình thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu
tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Người Việt Nam luôn
sống gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau. Bước
sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam có sự phân hoá giai cấp, truyền
thống này vẫn còn bền vững. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát huy
truyền thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức,
đồng lòng, đồng minh).
Ba là, truyền thống lạc quan, yêu đời. Trong muôn nguy, ngàn khó
người lao động vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh
thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin
vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù trước mắt còn đầy gian truân,
khổ ải phải chịu đựng, vượt qua. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền
thống lạc quan đó.
Bốn là, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh,
sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu nên cũng là một dân tộc ham học hỏi và
không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại, từ Nho,

Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng – văn hoá hiện đại phương Tây.
Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, ở giữa đầu mối của sự giao lưu văn hoá Bắc – Nam
và Đông – Tây, người Việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ
cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân
dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của
người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động
và trọn vẹn của truyền thống đó.
Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam vừa là cội
nguồn, vừa tác động xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong đó chủ nghĩa yêu nước là một nhân tố cơ bản, có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng của Người.
Chủ nghĩa yêu nước chính là điểm khởi đầu, là động lực thúc đẩy Hồ Chí
Minh ra đi tìm đường cứu nước, cũng là hành trang theo Người trong suốt
quá trình bôn ba hải ngoại. Yêu nước với thương dân, dân với nước luôn gắn
chặt trong tâm trí của Người. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được


7
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”1.
1.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại

Tư tưởng và văn hoá phương Đông.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng và tiếp thu nhiều giá trị tích cực trong
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo, đặc biệt là Nho giáo.
Trong Nho giáo người tiếp thu tinh thần nhân nghĩa (sống có nhân, có
nghĩa); đức “khiêm tốn”; tính “hoà nhã”; cách “đối nhân xử thế”, có lý, có
tình. Nhất là tư tưởng “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh
Tử. Nghĩa là: lợi ích của dân là trước hết, sau đó mới đến lợi ích của Nhà

nước, lợi ích của Vua không đáng kể.
Phương châm “khắc kỷ, phục lễ, vi nhân” nghĩa là nghiêm khắc với bản
thân mình thực hiện giáo để hoàn thiện nhân cách. Quan niệm về đức tính của
con người “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”.
Trong đó tiếp thu và vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo,
đồng thời Người cũng phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết:
phân biệt đẳng cấp, coi khinh lao động chân tay, coi thường phụ nữ.
Chẳng hạn, Khổng Tử cho rằng: chỉ có người quân tử mới có nhân, còn
thứ dân không có nhân. Hay trong quan niệm “tam cương” nhằm bảo vệ tôn ti
trật tự phong kiến, đó là ba mối quan hệ vua-tôi: bề tôi phải tuyệt đối phục
tùng vua; cha - con: con phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ; chồng - vợ: vợ phải
tuyệt đối phục tùng chồng.
Trong Phật giáo, Người tiếp thu những yếu tố tích cực như: tư tưởng vị
tha, lòng từ bi bác ái, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh; hướng con người tới cái
thiện, làm việc thiện…, đề cao tinh thần bình đẳng không phân biệt đẳng cấp. Đề
cao lao động chân tay, chống lười biếng… Người phê phán: mặt tiêu cực đó là
thủ tiêu đấu tranh, khuất phục trước kẻ thù, an bài với số phận…
Hồ Chí Minh tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Tôn Trung Sơn: đặc
biệt là chủ nghĩa “tam dân” (dân tộc, dân quyền, dân sinh). Theo Người chủ
nghĩa tam dân có những chính sách phù hợp với đặc điểm nước ta.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, tập 4, tr.161.


8
Như vậy, những tư tưởng đề cao vai trò nhân dân, tinh thần nhân, trí,
tín, liêm, trung trong Nho giáo; chủ nghĩa tam dân… là những yếu tố hợp lý
để Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa hình thành nên tư tưởng của mình.

Tư tưởng văn hoá phương Tây.
Ngay từ khi còn học ở trường tiểu học Đông Ba rồi học ở Trường Quốc
học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp, đã biết đến khẩu hiệu
"Tự do, bình đẳng, bác ái" của đại cách mạng tư sản Pháp. Điều đó đã góp
phần thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và tìm hiểu những gì
ẩn giấu đằng sau những từ mĩ miều ấy.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã dừng chân ở Mỹ.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách có sáng tạo những tư tưởng về "quyền bình
đẳng", "quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc" của con người,
về quyền nhân dân kiểm soát chính phủ và ý chí đấu tranh giành độc lập, tự
do của nhân dân Mỹ được ghi trong bản Tuyên ngôn. Tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ, mới mẻ trong đại cách mạng tư sản Pháp, nhất là tư tưởng
trong bản Tuyên ngôn "nhân quyền và dân quyền" năm 1791 của nước Pháp.
Trên cơ sở đó, mà hình thành, phát triển tư tưởng của Người.
Tư tưởng dân chủ của nền văn hoá phục hưng châu Âu của
Môngtéckiơ, Vôte, Rútxô… Hồ Chí Minh đã đến Pari nơi tập hợp nhiều dòng
văn hóa thế giới, Hồ Chí Minh đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng
chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là những tinh hoa trong truyền
thống của văn hóa Pháp.
Tuy nhiên, trong khi khẳng định những giá trị chân chính, những nhân tố
tiến bộ của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản phương Tây, Hồ Chí Minh cũng
đồng thời đánh giá những hạn chế của nó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa… Cách mệnh An Nam nên nhớ điều ấy"1.
Có thể nói rằng tinh hoa văn hoá phương Đông, phương Tây là một
trong những nhân tố tác động to lớn đến quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1


Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, tập 2, tr. 274.


9
1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh

Sự kế thừa có chọn lọc nhiều học thuyết tiến bộ của nhân loại giúp Hồ
Chí Minh xây dựng, phát triển hệ thống quan điểm của mình mang tính khoa
học, cách mạng và có sức sống mãnh liệt. Trong những học thuyết, chủ nghĩa
ấy, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở chủ yếu giữ vai trò
quyết định sự hình thành và bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng
của Người nằm trong hệ tư tưởng của giai cấp vô sản mang bản chất cách
mạng - khoa học. Chủ nghĩa Mác - Lênin là tinh hoa trí tuệ loài người, là nền
tảng tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận quyết định bước phát triển
mới về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin trang bị cho
Hồ Chí Minh phương pháp đúng đắn để tiếp cận và nâng lên tầm cao mới
những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam cũng như
tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Thông qua thế giới quan Mác – Lênin mà Hồ
Chí Minh đã tổng kết được những kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực
tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin là bước ngoặt trong cuộc đời của Hồ
Chí Minh. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh mang trong
mình chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chưa có hệ tư tưởng rõ ràng. Khi đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chuyển từ lập trường yêu nước truyền
thống sang lập trường Cộng sản chủ nghĩa, từ người yêu nước trở thành người
cộng sản. Điều đó không những nâng trí tuệ của Người lên tầm cao mới mà còn
đem lại cho Người một phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn, giúp Hồ

Chí Minh giải quyết một cách sáng tạo những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Khác
với nhiều nhà trí thức tư sản phương Tây họ đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như
đến với một học thuyết, nhằm giải quyết những vấn đề tư duy hơn là hành động.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Tức là giải quyết nhu cầu thực tiễn của
cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu đó.


10
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh chỉ mong tìm ra một
con đường về cứu nước, cứu dân. Khi bắt gặp lý luận Mác - Lênin thì ở Hồ
Chí Minh không chỉ là giải phóng cho dân tộc mình khỏi áp bức bóc lột; mà
còn luôn đặt cách mạng Việt Nam trong phạm trù chung của cách mạng vô
sản; luôn gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Không chỉ giải
phóng dân tộc mà còn giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Tức là giải
quyết mọi vấn đề của cách mạng Việt Nam nói riêng, cách mạng thuộc địa nói
chung đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Cần phải nhấn mạnh rằng “Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
không phải như đến với hiện tượng nước Nga thuần tuý, mà thấy ở đó kết quả
mang tính quy luật của sự phát triển của tư tưởng giải phóng của thế giới”1.
1.3. Nhân tố chủ quan

Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm nhận thức sáng tạo của con
người, được đúc kết, khái quát trên cơ sở nhận thức hiện thực khách quan. Ở
Hồ Chí Minh chúng ta nhận thấy tư chất đặc biệt sau:
Thứ nhất, lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn. Từ khi còn trẻ
Người đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên cường, tự tin, giàu lòng yêu nước,
tinh thần nhân ái và sớm có chí cứu nước và giải phóng đồng bào.
Người không đi theo con đường của các sĩ phu yêu nước Việt Nam lúc
bấy giờ mà Người lựa chọn con đường cứu nước của riêng mình. Người

sang phương Tây, sang nước Pháp… để xem đằng sau những từ mĩ miều
“Tự do, bình đẳng, bắc ái” còn ẩn dấu những điều gì. Người ra đi với lòng
nhiệt tình yêu nước, thương nòi; bằng trái tim, nghị lực và tri thức của mình.
Với mục đích: tìm con đường cứu nước, cứu dân; với phương pháp: học hỏi
cách mạng các nước để về giúp đồng bào mình giải phóng.
Thứ hai, tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết
và nhạy bén với cái mới, ở Hồ Chí Minh đã hội đủ tri thức Đông, Tây, Kim,
Cổ: Người đã thấy rõ tình hình khủng hoảng về đường lối chính trị và giai cấp
lãnh đạo cách mạng của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX;
Người đã lựa chọn đúng đắn cho con đường đi của cách mạng Việt Nam;
Người nghiên cứu, tiếp thu học tập tinh hoa văn hoá nhân loại, chủ nghĩa Mác 1

Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc-Nhà văn hoá lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.310.


11
Lênin một cách có kế thừa, chọn lọc. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin là
phải nắm cái bản chất cốt lõi và phương pháp làm việc khoa học của nó: học
phương pháp luận, học tinh thần xử lý các công việc hàng ngày, phải bám sát
thực tiễn, vận dụng cho linh hoạt, không phải học thuộc lòng chủ nghĩa ấy.
Thứ ba, thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Người đã đi qua và nghiên cứu ở nhiều nước có chế độ chính trị khác
nhau, ở các châu lục: Á, Âu, Phi, Mỹ Latinh và chủ yếu Người tiếp xúc với
những người lao động nghèo khổ. Người tham gia và hoạt động trong nhiều tổ
chức xã hội, của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản trên thế giới: năm
1919 Người tham gia Đảng xã hội Pháp vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp
quan tâm đến người lao động; năm 1920 Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế
III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, vì đây là tổ chức duy nhất bênh
vực cho các dân tộc thuộc địa; Năm 1923 Người được Quốc tế Cộng sản cử
về công tác tại Ban phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, nghiên cứu về

vấn đề dân tộc thuộc địa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trải qua thực tiễn hoạt động lãnh đạo cách
mạng Việt Nam từ tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng; tổ chức chuẩn bị
và tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà; tổ chức xây dựng đất nước trong
điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chế độ mới và con
người mới ở xã hội chủ nghĩa. Trên nhiều cương vị khác nhau: một thanh
niên trí thức, một thầy giáo, một công nhân, một nhà báo, là người sáng lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, một cán bộ của Quốc tế cộng sản, một nhà hoạt
động cách mạng chuyên nghiệp, là lãnh tụ của dân tộc, từng giữ cương vị
Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước trong nhiều năm liền. Đây là thực tiễn hoạt
động cách mạng vô cùng phong phú, sinh động, là cơ sở, nguồn gốc có ý
nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển, hoàn thiện tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tóm lại: tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Trong đó chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam là nguồn gốc sâu xa, bền chặt; tinh hoa văn hoá nhân loại là cơ sở, chủ


12
nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu quyết định bản chất và nhân tố chủ
quan giữ vai trò quyết định sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với những tư chất đặc biệt, nhãn quan chính trị đầy sắc sảo, được trang bị
lý luận cách mạng khoa học, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa
Mác - Lênin; đồng thời thông qua thực tiễn cách mạng mà tư tưởng Hồ Chí
Minh hình thành, phát triển và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và nhân dân ta.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trải qua một quá
trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện. Gắn với quá trình phát triển
của Đảng và cách mạng Việt Nam. Có thể khái quát quá trình đó trải qua
năm giai đoạn:


13
2.1. Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng

(1890 – 1911)
Là giai đoạn (Nguyễn Sinh Cung) Hồ Chí Minh tiếp nhận truyền thống
yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc; hấp thụ vốn văn hoá Quốc học, Hán học
và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây; chứng kiến cuộc sống khổ cực,
điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, hình
thành tư tưởng yêu nước, thương dân. Trên cơ sở đó, ngày 5 tháng 6 năm
1911, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Nét nổi bật ở giai
đoạn này là, Hồ Chí Minh đã tìm được hướng đi đúng, đích đúng, cách đi
đúng để sớm đi tới thành công.
2.2. Giai đoạn tìm tòi khảo nghiệm, xác định con đường cách mạng Việt
Nam (1911 – 1920)

Đây là thời kỳ Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) bôn ba khắp bốn châu
lục, đi qua nhiều nước để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn và khảo sát cuộc
sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Đầu năm 1919, Người vào Đảng Xã hội Pháp. Tháng 7 năm 1920 được
tiếp xúc với bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã tìm thấy
con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Tháng 12
năm 1920, Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế III, tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự

kiện đó đánh dấu sự chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ
giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản. Ở giai đoạn này, Nguyễn
Ái Quốc bước đầu đã xác định con đường cách mạng Việt Nam phải theo con
đường cách mạng vô sản.
Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao
to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh, trong thực tế, Người “đã gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi
theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất mà cách mạng


14
Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới” 1.
2.3. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam (1921- 1930)

Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận đặc biệt sôi nổi, phong
phú của Nguyễn Ái Quốc. Người hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu
thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc
địa, xuất bản báo Người cùng khổ (LeParia) nhằm tuyên truyền chủ nghĩa
Mác – Lênin vào các nước thuộc địa.
Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế
Nông dân và được bầu vào đoàn Chủ tịch Hội. Năm 1924, Người tham dự Đại
hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V và tham gia đại hội các đoàn thể quần chúng
khác: Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ…
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ
chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở các lớp
huấn luyện, đào tạo cán bộ đưa về nước hoạt động. Tháng 2 năm 1930 tổ chức

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người viết nhiều bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân, đề cập đến mối
quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính
quốc, khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới.
Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường cách mệnh (1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) và
nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục
hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc. Những tác phẩm có
tính chất lý luận nói trên chứa đựng những nội dung căn bản sau đây:
Một là, bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”.
Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới.
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo
con đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản.
1

Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến bộ lên giành những thắng
lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.10.


15
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào
nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản chính quốc.
Bốn là, cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách
mạng”, đánh đuổi bọn ngoại xâm, giành độc lập, tự do.
Năm là, ở các nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông
đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách

mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải thu phục, lôi
cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối công nông liên minh làm
động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần thu hút, tập hợp rộng rãi các giai cấp
xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.
Sáu là, cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng lãnh đạo.
Đảng phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin và có đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh
chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý
tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Bảy là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không
phải việc của một vài người. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước
tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao.
2.4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định cho
cách mạng Việt Nam (1930 - 1945)

Do không nắm được tình hình thực tế các nước thuộc địa ở phương
Đông và Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh đang ngự trị
lúc bấy giờ, Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của
Nguyễn Ái Quốc được vạch ra trong Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
ở Việt Nam. Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930 của Đảng, theo chỉ
đạo của Quốc tế Cộng sản, đã ra Nghị quyết thủ tiêu Chánh cương vắn tắt và
Sách lược vắn tắt mà Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo, đổi tên Đảng Cộng sản
Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Tuy bị phê phán, song
Nguyễn Ái Quốc luôn kiên trì những tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam mà mình đã xác định.


16
Đến tháng 7 năm 1935, đứng trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và
chiến tranh thế giới mới đang đến gần, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã có
sự phê bình về khuynh hướng “tả”, cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân

tộc và dân chủ, để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy mà
chống phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển hướng sách lược, chủ trương
thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít. Tháng 10 năm 1936, Đảng ta đề
ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái
trước đây, đồng thời chỉ rõ: “Chiến sách mới của Đảng là chiến sách theo
điều kiện hiện thực ở xứ Đông Dương, theo kinh nghiệm tranh đấu của
Đảng, học kinh nghiệm của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm của cuộc vận
động cộng sản thế giới, không phải đem kinh nghiệm xứ này sang xứ khác
một cách như máy”1. Trên thực tế, vấn đề phân hoá kẻ thù, tranh thủ bạn
đồng minh, vấn đề đoàn kết xây dựng lực lượng… đã trở về với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930) của Nguyễn Ái Quốc. Nghị quyết
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 11 năm
1939) cũng xác định: “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền
lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề
điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết” 2. Điều đó
không chỉ phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, mà còn khẳng định
giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, đầu năm 1941 Hồ Chí Minh về
nước trực tiếp chỉ đạo và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khoá I (5/1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời
gác khẩu hiệu điền địa, xoá bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra Mặt trận
Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên minh, đưa
tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám.

1,
2.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2000, tr.158.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2000, tr. 539.



17
2.5. Giai đoạn phát triển và hoàn thiện của tư tưởng Hồ Chí Minh
(1945- 1969)

Sau khi giành được chính quyền, Đảng và nhân dân ta phải tiến hành
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954 và miền Bắc giải phóng, chúng ta vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Ở giai đoạn này, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung phát triển và
hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường
lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình
là chính”; về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng
một Đảng cầm quyền thật sự là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành
của nhân dân; về xây dựng Nhà nước kiểu mới – của dân, do dân, vì dân; về
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về đạo đức; về văn hoá; về quan hệ
đoàn kết quốc tế…
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại di chúc thiêng liêng, trong đó đã
tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, đồng thời vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát
triển của đất nước và dân tộc sau khi kháng chiến thắng lợi.
Đảng và nhân dân ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn đối với di sản
tinh thần vô giá mà Người để lại cho chúng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã
thực sự là ánh sáng soi đường, là tài sản tinh thần to lớn, là nguồn động lực
thúc đẩy công cuộc đổi mới của chúng ta.
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện

chứng tư tưởng văn hoá truyền thống Việt Nam, tinh hoa tư tưởng văn hoá
phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng, cùng
với thực tiễn dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí
Minh – một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có
nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
tư tưởng Việt Nam hiện đại.


18
Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội II (1951) trở lại đây đã khẳng định
vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là Đại hội VII, VIII, IX, X đó là
bước phát triển mới trong tư duy, nhận thức lý luận của Đảng ta.
Đây là quyết định có tầm vóc lịch sử quan trọng. Do đó việc nghiên
cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Để hiểu rõ trước hết chúng ta cần nắm vững khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những điều kiện lịch sử xã hội, nguồn gốc, quá trình hình thành phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thấy rõ được ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh. Qua đó không ngừng học tập, rèn luyện bản thân, hoàn thành
tốt chức trách của mình, góp phần thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách
mạng, con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đối với mỗi
chúng ta, giáo dục tư tưởng, văn hoá, đạo đức Hồ Chí Minh là giáo dục lý
luận sống, đạo làm người, hoàn thiện nhân cách cá nhân, trang bị cho họ
phương pháp tư duy biện chứng để họ trở thành người chiến sĩ tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh chống
các biểu hiện sai trái, các quan điểm thù địch bảo vệ sự trong sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh.




×