Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về văn hóa và xây DỰNG nền văn hóa VIỆT NAM TIÊN TIẾN đậm đà bản sắc dân tộc dưới ÁNH SÁNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.68 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT
NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC

Tran
g
2

LỜI NÓI ĐẦU
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ

3

VĂN HOÁ

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Văn hoá

3

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hoá

8

2. XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2.1. Tình hình xây dựng nền văn hoá hiện nay

17
17



2.2. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong
xây dựng nền văn hoá hiện nay

18
20

KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU

Từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 20 tháng 11 năm 1987 tại Hội nghị lần
thứ 24 của tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
ở Pari, đã ra Nghị quyết kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
ghi rõ: Năm 1990 sẽ được đánh dấu bằng lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam, một
nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là sự khái quát cao toàn bộ công lao và sự nghiệp
cách mạng của Hồ Chí Minh, một vĩ nhân, một nhà văn hoá kiệt xuất.
Để giúp học viên nghiên cứu, học tập thuận lợi, tài liệu này đề cập
những nội dung cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá và các


2

lĩnh vực chính của văn hoá; định hướng việc quán triệt, vận dụng trong xây
dựng nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VĂN HOÁ

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa


Trong Mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), lần
đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Như vậy, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng sự sinh tồn của
loài người. Văn hóa là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn liền với
điều kiện kinh tế - xã hội. Muốn xây dựng nền văn hóa dân tộc thì phải xây
dựng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội… Các mặt đó có quan hệ
mật thiết với nhau, cùng tác động, ảnh hưởng lẫn nhau:
Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
Khi dân tộc còn chìm trong nô lệ thì văn hóa cũng cùng chung số phận
nô lệ, tuyệt đại bộ phận nhân dân bị đọa đầy trong vòng tối tăm, dốt nát. Vì
vậy, một số nhà yêu nước chủ trương trước hết phải khai dân trí, phải nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân, sau đó mới tính đến chuyện giành độc lập tự do
cho đất nước và dân tộc. Đường lối cải lương đó đã hoàn toàn bị thất bại.
Lãnh đạo nhân dân đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh
đã vạch ra một đường lối mới: phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ
thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính
quyền, để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa,
mở đường cho văn hóa phát triển.
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.431.



3

Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.
Cùng với việc xác định bốn vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa
đều phải coi trọng ngang nhau, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế thuộc về cơ sở hạ
tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng.
Người cho rằng: Cơ sở hạ tầng xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết
được và có đủ điều kiện phát triển được. Như vậy, vấn đề đặt ra là kinh tế
phải đi trước một bước. Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo” cũng
theo nghĩa như vậy. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã tổng
kết: muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa… để
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội nhưng không thể đứng
ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị, văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ
chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát
triển kinh tế, tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị, như một
động lực hết sức quan trọng.
Văn hóa ở trong chính trị tức là văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ
chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ
Chí Minh nêu rõ: Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa, hoặc
đường lối kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực… là với ý nghĩa
như vậy. Qua đó, tạo nên một phong trào văn hóa kháng chiến sôi động, góp
phần đắc lực vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Văn hóa ở trong kinh tế tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây
dựng và phát triển kinh tế.
Cũng phải thấy rằng văn hóa đứng trong chính trị và kinh tế cũng có
nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hóa, đây là một đòi hỏi chính
đáng của văn hóa hiện đại. Trong thời kỳ hiện nay, Đảng ta xác định văn hóa

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Về tính chất của nền văn hóa mới.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã
quan tâm tới việc xây dựng nền văn hóa mới, coi đó là một trong những nhiệm


4

vụ hàng đầu của cách mạng. Như vậy, nền văn hóa mới ra đời gắn liền với
nước Việt Nam mới. Trước đó ở nước ta là nền văn hóa bị nô dịch của thực
dân phong kiến, nền văn hóa đó phục vụ cho giai cấp thống trị. Đặc điểm
chung nhất của nền văn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xua tan bóng
tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng
lên cuộc sống của nhân dân ta. Văn hóa mới là phải giáo dục nhân dân ta tinh
thần cần, kiệm, liêm, chính, tự do tín ngưỡng, không hút thuốc phiện; chống
giặc dốt…
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa mới là nền văn
hóa dân chủ mới, đồng thời là nền văn hóa kháng chiến. Nền văn hóa đó có
ba tính chất: dân tộc - khoa học - đại chúng.
Tính chất dân tộc (hay còn gọi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc) là
cái “cốt”, cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. Nó
phân biệt, không nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Nó là “căn
cước” của một dân tộc. Cốt cách dân tộc không phải “nhất thành bất biến”,
mà nó có sự phát triển, bổ sung những tinh túy mới. Tính chất dân tộc của nền
văn hóa còn bao hàm việc giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp
với những điều kiện lịch sử mới của đất nước.
Tính chất khoa học của nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của
tư tưởng hiện đại: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nền

văn hóa mới phải phục vụ trào lưu đó. Muốn vậy tính khoa học phải thể hiện
trên nhiều mặt; đội ngũ những người làm công tác văn hóa phải có trí tuệ, hiểu
biết khoa học tiên tiến; phải có chiến lược văn hóa, xây dựng lý luận văn hóa
mang tầm thời đại.
Tính chất đại chúng của nền văn hóa mới là phục vụ nhân dân, hợp với
nguyện vọng nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Đó là nền văn hóa đại chúng
do nhân dân xây dựng.
Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đầu Hồ Chí Minh
nói tính chất nền văn hóa mới phải: xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc
về hình thức. Từ Đại hội III (9/1960), Người có bước phát triển trong tư duy


5

lý luận khi khẳng định nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội
chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Nội dung xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học,
hiện đại, biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với trào lưu tiến
hóa trong thời đại mới.
Chức năng của văn hóa.
Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho
rằng, văn hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
Văn hóa thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm
là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì
vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu vào trong tâm lý quốc dân
để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng đúng
đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng
sai lầm, tình cảm thấp hèn. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, nhưng
phải đặc biệt quan tâm tới những tư tưởng và tình cảm chi phối đời sống

tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của tư
tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa phải làm cho ai cũng có lý
tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc dân “có tinh
thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng”. Đó là lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một khi con
người đã phai nhạt lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì không
còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống cách mạng.
Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương
nhân loại bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung;
đề cao cái chân, cái thiện, cái mỹ… Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối
quan hệ; với gia đình, quê hương, dân tộc, nhân loại, với bè bạn, đồng chí,
quan hệ thầy trò…
Tư tưởng và tình cảm có mối quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao
đẹp là con đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn; tư tưởng đúng làm cho tình cảm
cao đẹp hơn, làm cho con người ngày càng hoàn thiện. Văn hóa còn góp phần


6

xây đắp niềm tin cho con người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí.
Văn hóa luôn gắn với dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc
thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Nâng cao dân trí
được bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Tiếp đến là sự hiểu
biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, văn hóa, kinh tế… từng bước nâng
cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn
Việt Nam và thế giới… đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi
người không chỉ là chuyển biến dân trí mà còn nâng cao dân trí, điều mà khi

chính trị chưa được giải phóng thì không thể làm được.
Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có
điểm chung và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc. Mục tiêu đó
hiện nay Đảng ta đã chỉ rõ vì: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống
lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không
ngừng hoàn thiện bản thân mình.
Những phẩm chất tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi người
phải biến tư tưởng và tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó có thể là
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ.
Có những phẩm chất đạo đức chung cho mọi người Việt Nam trong
thời đại mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Lại có những phẩm chất
đạo đức dành cho các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người: phẩm
chất nhà giáo, phẩm chất thầy thuốc…
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán
bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu không có những phẩm chất đó thì không thể biến lý
tưởng thành hiện thực. Phẩm chất thường được biểu hiện qua phong cách, tức
là lối sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự của con người. Phẩm chất và


7

phong cách thường gắn bó với nhau và chỉ khi nào con người có phẩm chất
tốt đẹp, phong cách lành mạnh thì mới thúc đẩy sự nghiệp cách mạng đi lên.
Muốn có được những phẩm chất và phong cách đó, tự con người rèn
luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hóa đóng chức năng rất quan trọng. Văn hóa
phải tham gia chống tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm dụng

quyền lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con
người phân biệt được cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ… từ đó văn
hóa hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Người đã nêu ra một
luận điểm khái quát: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Xây dựng nền văn hóa mới là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
và các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh coi đội ngũ những nhà văn hóa, những
người làm công tác văn hóa, những văn nghệ sĩ là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp to lớn này. Theo Người:
Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy
Quan điểm của Hồ Chí Minh coi văn hóa là một mặt trận là quan điểm
rất độc đáo, đòi hỏi các chiến sĩ chiến đấu trên mặt này vừa phải bền bỉ, kiên
cường, dũng cảm, vừa phải biết sử dụng vũ khí của mình một cách sắc bén và
có hiệu quả trong kháng chi0ến chống ngoại xâm trước kia cũng như trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa
Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực. Ở đây tập trung làm rõ tư tưởng Hồ
Chí Minh về ba lĩnh vực chính: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ, văn hóa
đời sống.
1.2.1. Văn hóa giáo dục
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và đánh giá đúng nền giáo dục thực dân,
phong kiến. Người đã chỉ rõ: Nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục từ
chương, kinh viện xa rời thực tế, không quan tâm đến thực nghiệm, coi kinh
sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Mẫu người của nền giáo dục
phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, là người quân tử, nó hoàn toàn khác với kẻ
bình dân. Phụ nữ bị tước quyền học vấn.


8


Còn nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân, không phải để mở
mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho dân, trái lại chỉ làm cho họ đần độn
thêm. Đó là một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát.
Nó dạy cho người ta lòng trung thực giả dối, dạy cho họ biết sùng bái kẻ mạnh
hơn mình và thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh
của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Mục đích của nền giáo
dục đó là đào tạo những người phục vụ cho chính quyền thực dân.
Hồ Chí Minh đã tố cáo nền giáo dục thực dân trước thế giới, làm cho
thế giới hiểu rõ thực chất của nền giáo dục thực dân - phong kiến, đồng thời
thức tỉnh nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa vùng dậy đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Người quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập.
Nền giáo dục này được hình thành từ những năm hai mươi, thực sự ra đời từ
cách mạng Tháng Tám thành công và phát triển cùng sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Hồ Chí Minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ
cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng
với nước Việt Nam độc lập. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục tập trung ở những
điểm sau đây:
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn
hóa bằng giáo dục, có nghĩa là bằng dạy và học.
Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở
mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con
người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học không phải để
chạy theo bằng cấp mà phải thực học. Học để làm việc, làm người, làm cán
bộ. Người đặt việc học để làm cán bộ sau việc học để làm việc, làm người là
hàm chứa ý nghĩa hoàn toàn khác với việc học để làm quan của xã hội cũ.
Trong những mục tiêu đó, học để làm người là khó nhất. Nền văn hóa giáo
dục phải nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng,

làm cho nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.


9

- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và
học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn phát triển của cách mạng.
- Nội dung giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa
học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động… các nội dung đó có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách học phải sáng tạo, không
giáo điều. Học để nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận.
Học khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại của cách
mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão.
- Phương châm, phương pháp giáo dục:
Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực
tiễn; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội;
thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Học ở mọi lúc, mọi nơi; học mọi
người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục mới, Hồ Chí Minh yêu
cầu phải tẩy sạch tàn dư của giáo dục nô dịch. Nhà trường không phải là nơi
nhồi nhét quá thừa những kiến thức vô bổ, nhưng lại quá thiếu những kiến
thức cần thiết cho việc xây dựng kinh tế, quản lý xã hội và hình thành con
người Việt Nam mới. Đối với mỗi người, học ở trường lớp chỉ là một phần,
còn phần chủ yếu là học trong lao động, trong công tác, trong hoạt động thực
tiễn, không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học tập, tu dưỡng, rèn
luyện và tự cải tạo được. Trong mọi hoạt động cách mạng, chúng ta đều có
thể và đều phải học tập, tự cải tạo. Cũng không phải chỉ tìm thấy những người
thầy ở trong các trường lớp, mà còn tìm thấy người thầy ở những người xung
quanh - bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp và đặc biệt là nhân dân.

Vấn đề kết hợp học với tự học, đào tạo với tự đào tạo và đào tạo lại đã
được Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm. Đây chính là quan điểm rất hiện đại
trong lĩnh vực văn hóa giáo dục. Học tập là một quá trình lao động gian khổ.
Phải rèn luyện những đức tính, những tập quán tốt trong học tập và điều đó
đòi hỏi vượt qua không ít những khó khăn. Trước hết phải có tinh thần say mê
học tập, phải có quyết tâm, phải có nghị lực để học tập, hơn nữa còn phải có
phương pháp đúng để học tập có kết quả.


10

Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo
dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ
dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải
dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn với thi đua.
- Phải không ngừng nâng cao đảng trí.
Nếu nâng cao dân trí là mục tiêu của giáo dục đối với các tầng lớp nhân
dân, thì nâng cao đảng trí phải là mục tiêu của giáo dục đối với cán bộ, đảng
viên. Giáo dục cán bộ, đảng viên là vấn đề đã được Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động của Người.
Đối với cán bộ, đảng viên, Người đòi hỏi: “Phải nâng cao sự tu dưỡng
về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ
nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích
một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có
thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra
được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội
chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”1.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục là một hệ
thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, quán triệt hơn nữa những quan

điểm ấy, nhằm đưa cuộc cải cách giáo dục tiếp tục tiến lên phía trước.
1.2.2. Văn hóa văn nghệ
Văn nghệ được hiểu là văn học và nghệ thuật, là đỉnh cao của đời sống
tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh là người khai sinh
nền văn nghệ cách mạng và có nhiều cống hiến to lớn, sáng tạo cho nền văn
nghệ nước nhà.
- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
Văn nghệ là mặt trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, là văn
nghệ cách mạng. “Mặt trận” là thể hiện tính chất cam go, quyết liệt. Cho nên tác
phẩm văn nghệ và ngòi bút của các văn nghệ sĩ phải là vũ khí sắc bén, là “phò
chính trừ tà” là vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr.494.


11

văn hóa; về chiêu bài “công lý - dân chủ”. Hồ Chí Minh dùng văn hóa đả kích cái
gọi là công lý mà bọn thực dân thi hành ở các nước thuộc địa: “Công lý được
tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm.
Vì đường từ Pháp đến Đông Dương xa quá, xa tới nỗi sang được tới đó thì cán
cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc
phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái
kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội và nhất là người vô tội”1.
Người dùng văn hóa cổ vũ tinh thần đấu tranh, nổi dậy của nhân dân bị
áp bức: “Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn
sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không
thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của

người Đông Dương… Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương
giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm,
khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau
đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi ”2.
Văn nghệ sĩ là chiến sĩ, vì vậy, cần có lập trường vững vàng, tư tưởng
đúng đắn, đặt lợi ích và nhiệm vụ phụng sự nhân dân và Tổ quốc lên trên hết.
Họ phải nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, đặc biệt phải có
phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng tạo ra những sản phẩm tinh thần phục
vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Quan điểm văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ
là vũ khí sắc bén của Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp ngày
càng đông đảo văn nghệ sĩ vào một mặt trận, làm cho họ trở thành những
chiến sĩ tiên phong chiến đấu bằng vũ khí sắc bén của mình theo tinh thần:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.
Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa
văn nghệ. Đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng… của nhân dân
là chất liệu không bao giờ cạn, là nguồn sinh khí vô tận cho văn nghệ sĩ sáng
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.91.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.28.


12

tác, từ đó với tài năng sáng tạo của mình và tinh thần nhân văn luôn hướng về

người lao động, văn nghệ sĩ có thể nhào nặn, thăng hoa để tạo nên những tác
phẩm có giá trị có sức sống vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.
Theo tinh thần đó, Hồ Chí Minh đã nêu ra yêu cầu quan trọng bậc nhất
đối với chiến sĩ văn nghệ là phải thật hòa mình vào quần chúng và không
được quên rằng “…chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn
bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng
sẽ quên anh ta”1.
Những chất liệu của cuộc sống không phải tự nhiên đến với văn nghệ
sĩ. Muốn nắm được những chất liệu đó và rút ra từ đó những gì cần thiết cho
sáng tác thì văn nghệ sĩ phải “liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân” 2
để thấu hiểu tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của nhân dân, cuộc đời và số
phận của biết bao những con người trong các tầng lớp nhân dân đông đảo.
Nguồn nhựa sống mà nhân dân đem lại để nuôi dưỡng cho sáng tác của
văn nghệ sĩ không phải chỉ là thực tiễn đời sống vô cùng phong phú, mà còn
là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Nhân dân không phải chỉ là người hưởng thụ, mà còn là người
sáng tác văn hóa văn nghệ.
- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất
nước và dân tộc, phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng
của nhân dân.
Tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba (01/12/1962), Hồ Chí Minh
đã nói với văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ
xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta”3. Tác phẩm văn nghệ xứng
đáng với thời đại phải là những tác phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thực sự
nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác phẩm đó phải phục vụ quần chúng nhân
dân đông đảo, được quần chúng yêu thích, đem lại những chuyển biến tích
cực trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mọi người.
Tác phẩm văn hóa, văn nghệ hay là tác phẩm phản ánh được những giá
trị truyền thống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại, vừa phải ca ngợi
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.516.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.368.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.646.
1
2


13

cái chân thật người tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai.
Những tác phẩm như vậy vừa làm gương mẫu cho hôm nay, vừa giáo dục
nhắc nhở con cháu đời sau. Phản ánh chân thực không phải chỉ dừng lại ở chỗ
phản ánh những gì đã có trong đời sống của nhân dân, mà còn phải hướng
nhân dân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không đúng, cái dở, cái xấu để vươn tới
cái lý tưởng - đó là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ.
Một luận điểm quan trọng mà Hồ Chí Minh đặt ra cho văn nghệ là các
tác phẩm văn nghệ phải phong phú, đa dạng, không thể đơn điệu, nghèo nàn.
Có như vậy, văn nghệ mới đáp ứng được nhu cầu rất đa dạng của các tầng lớp
nhân dân. Người nêu rõ: “…cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú,
không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa,
cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp” 1. Định hướng thẩm mỹ cho
quần chúng là hoàn toàn cần thiết, nhưng không có nghĩa là bắt ép mọi người
chỉ ăn một món duy nhất. Chỉ có một mục tiêu lý tưởng là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và đó cũng là đề tài bao trùm nhất của Hồ Chí Minh. Đó
cũng là đề tài của giới văn nghệ sĩ nước nhà. Nhưng văn nghệ thể hiện đề tài
bao trùm đó bằng nhiều thể loại, nhiều tác phẩm khác nhau, cung cấp cho xã
hội nhiều món ăn khác nhau, đương nhiên phải là những món ăn bổ ích cho
đời sống tinh thần của con người và xã hội. Chính điều đó mở ra con đường
sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ.
1.2.3. Văn hóa đời sống

Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi
nước ta mới giành được chính quyền. Tháng 4-1946 Người ký sắc lệnh thành
lập Ủy ban Trung ương vận động đời sống mới. Tháng 3-1947, Người viết
cuốn sách Đời sống mới để hướng dẫn việc xây dựng đời sống mới trong các
tầng lớp nhân dân, trong toàn xã hội. Như vậy việc xây dựng đời sống mới đã
được Hồ Chí Minh nêu ra từ rất sớm, rồi nhanh chóng trở thành một phong
trào quần chúng sôi nổi, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến
kiến quốc.
Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm rất độc đáo
của Hồ Chí Minh về văn hóa. Văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.551.


14

bộ mặt tinh thần ấy không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, mà lại được thể
hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy.
Điều ấy đã được Hồ Chí Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới,
cũng như cách thức xây dựng đời sống mới.
Khái niệm đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm cả đạo đức
mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và
nếp sống, được thể hiện trong lối sống và nếp sống. Chính vì vậy, việc xây
dựng đạo đức mới phải được tiến hành đồng thời với việc xây dựng lối sống
mới và nếp sống mới.
- Đạo đức mới.
Đời sống mới trước hết bao gồm đạo đức mới, thực hành đời sống
mới là cần, kiệm, liêm, chính... Hồ Chí Minh đã viết: “Nếu không giữ đúng

cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” 1 ;
“Nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính tức là nhen lửa cho đời sống
mới”2.
(Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã được trình bày kỹ ở chương X của
tập sách này, vì vậy ở đây chỉ trình bày về vấn đề lối sống và nếp sống).
- Lối sống mới.
Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hòa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối
sống văn minh, tiên tiến. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng một phong cách
sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động,
biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức, quyền, danh,
lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì cởi mở, chân
tình, ân cần, tế nhị; giàu lòng yêu thương quý mến con người; đối với mình
thì chặt chẽ, đối với người thì khoan dung, độ lượng.
Làm Chủ tịch nước, Người vẫn nhà gỗ đơn sơ, quần áo vải. Người cho
rằng, “Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ,
lòe loẹt”3. Không phải Người phủ nhận nhu cầu chính đáng của mỗi người
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.104.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.110.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.99.
1
2


15

trong việc cải thiện và nâng cao các điều kiện sinh hoạt ăn, mặc, ở của mình
ngày càng tốt hơn, Người chỉ rõ rằng: Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc
đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta

còn đang thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon, mặc
đẹp, như vậy là không có đạo đức.
Người chỉ rõ phong cách làm việc phải bao gồm tác phong quần chúng,
tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Ba loại tác phong đó đều có
những nội dung rất cụ thể, phong phú và có quan hệ mật thiết với nhau.
Những tác phong ấy được thể hiện ra khi mỗi người hoàn thành nhiệm vụ
được giao, nhất là đối với những người ở cương vị quản lý, lãnh đạo. Phong
cách làm việc đó trước kia rất cần thiết, hiện nay lại càng cần thiết hơn.
Là người có học vấn uyên bác cổ kim đông tây, thông thạo nhiều ngoại
ngữ, nhưng Người luôn luôn thể hiện một cách viết, cách nói chân thật - dễ
hiểu mà tế nhị, mộc mạc - bình dân mà không thô thiển. Người rất không ưa
sự phô chương hình thức, sự cầu kỳ rắc rối trong cách biểu hiện. Tư tưởng
của Người đi thẳng đến quần chúng và mọi người đều có thể hiểu được, nhớ
được và làm được.
- Nếp sống mới.
Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng những thói
quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần
phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái gì cũ là bỏ hết,
cái gì cũng làm mới. Cũ mà xấu thì bỏ. Cũ mà không xấu nhưng phiền phức
thì sửa đổi. Cũ mà tốt thì phát triển thêm. Mới mà hay thì phải làm. Phải bổ
sung, xây dựng thuần phong mỹ tục trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma
chay, cưới hỏi… đồng thời phải chống các hủ tục như cờ bạc, hút xách…
Việc sửa đổi những thói quen, phong tục, tập quán không còn phù hợp,
loại bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là công việc rất khó khăn, phức
tạp. Vì vậy phải nâng cao nhận thức, phải phấn đấu kiên trì mới có thể xây
dựng được những thói quen, phong tục tập quán mới, thực hiện được đời sống
mới. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu mà
quen, người ta có thể cho là thường.



16

Tuy nhiên, đó là việc làm khó khăn, không thể tiến hành một cách giản
đơn, tùy tiện mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu
dài. Trước hết phải tuyên truyền, giải thích để mọi người hiểu được cái lợi
của việc xây dựng thói quen, phong tục, tập quán mới, hướng dẫn cách làm cụ
thể, hiểu để làm, để thực hiện cho được đời sống mới. Nhưng quan trọng là
phải có những người làm gương, trước hết là chính những người lãnh đạo,
quản lý, những người tuyên truyền đời sống mới, phải miệng nói tay làm,
phải nêu gương trước. Hơn nữa phải xây dựng cho được những tập thể kiểu
mẫu để mọi người noi theo.
Việc xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình,
vì mỗi người là một cá thể để tạo nên gia đình, mỗi gia đình là một tế bào để
tạo nên xã hội. Mỗi người, mỗi gia đình đều thực hiện đời sống mới thì mới
có thể xây dựng được đời sống mới ở các tập thể, các đơn vị, ở làng xã, phố
phường cho đến cả nước. Ngày nay việc mở rộng cuộc vận động xây dựng
nếp sống văn minh, gia đình văn hóa cũng là theo tinh thần đó.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA
TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC HIỆN NAY

2.1. Tình hình xây dựng nền văn hóa hiện nay

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhân dân ta đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo nên những sức mạnh mới cho cách mạng Việt
Nam. Trước hết đó là sức mạnh của văn hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh. Đảng ta đã dựa vào đó để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi thử thách,
đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược và giành nhiều thành tựu trong xây dựng đất
nước.
Nhiều nét mới có giá trị trong văn hóa - đạo đức được hình thành, củng

cố và phát triển; tính năng động trong các hoạt động kinh tế - xã hội, tính tích
cực công dân được khơi dậy và phát huy, thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, dựa
dẫm, trông chờ từng tồn tại dai dẳng trong cơ chế cũ; thế hệ trẻ có ý chí vươn
lên lập thân, lập nghiệp; mặt bằng dân trí được nâng cao; năng lực, sở trường
cá nhân được khuyến khích; không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên;
phong trào hướng về cội nguồn, tưởng nhớ anh hùng dân tộc, đền ơn đáp


17

nghĩa người có công, giúp đỡ người hoạn nạn ngày càng phát triển; cuộc vận
động bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa
ngày càng được nhân dân tích cực hưởng ứng v.v…
Hoạt động văn hóa nghệ thuật, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền
hình v.v… có những bước phát triển mới, cả về số lượng và chất lượng, cả về
xây dựng đội ngũ, phát huy tác dụng tích cực làm cho đời sống văn hóa trở
nên phong phú và sôi động hơn.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ trong lĩnh vực văn hóa đã đạt
được chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả
đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo
đức lối sống.
Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với phát triển
kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Xây dựng
thể chế văn hóa, chính sách còn chậm, chưa đổi mới, thiếu đồng bộ, làm hạn
chế tác dụng của văn hóa. Tình trạng nghèo nàn thiếu thốn, lạc hậu về đời
sống văn hóa ở các vùng nông thôn; sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa
giữa các vùng miền, khu vực tiếp tục mở rộng.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ yếu
là: những di sản văn hóa của Hồ Chí Minh chưa được quan tâm đúng mức, chưa
tiếp tục được khai thác và sử dụng một cách hiệu quả cao. Nghị quyết Trung

ương mười khóa IX chỉ rõ bốn nguyên nhân chủ yếu: nhận thức trong Đảng về
vị trí, vai trò của văn hóa chưa thật đầy đủ; vấn đề xây dựng văn hóa trong
Đảng, Nhà nước chưa được triển khai tích cực; tổ chức thực hiện còn nhiều hạn
chế, chậm thể chế hóa quan điểm chủ trương; một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức
còn lúng túng, còn chạy theo lối sống thực dụng, thị hiếu tầm thường.
2.2. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong xây
dựng nền văn hóa mới hiện nay

Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa được xác định
trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho
văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện
hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tăng sức đề kháng chống


18

văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”1.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp
ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
với phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng
cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong
nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hóa,
phi văn hóa.
Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường
văn hóa lành mạnh. Bồi dưỡng các tài năng văn hóa, khuyến khích sáng tạo
nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và

nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nâng cao chất
lượng các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng
cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo
chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng,
chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Huy
động các nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công
trình và thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa, quản lý và bảo vệ
di tích, di sản văn hóa.
Mở rộng giao lưu văn hóa, thông tin với thế giới. Đổi mới và tăng
cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, thông tin.
Nhiệm vụ chủ yếu.
Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với
phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.213.


19

hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên,
học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo
đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam.
Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của
nhân dân trong đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của

phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Phát huy tiềm
năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống
thiết chế văn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa.
Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển,
nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hóa, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp,
chủ động khoa học.
Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học,
nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ. Đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học
nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương.
Tăng cường quản lý Nhà nước về văn hóa, xây dựng cơ chế, chính sách
tài chính ổn định, phù hợp yêu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Tích
cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, chống sự xâm nhập của
các loại văn hóa phẩm độc hại, lai căng…
Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các hộ gia đình, cá nhân, các trí
thức tham gia hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa. Xây dựng và triển khai
chương trình giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nếp sống văn minh, hiện đại trong
nhân dân.
KẾT LUẬN

Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh đã hội tụ đủ các yếu tố truyền thống và
hiện đại, dân tộc và nhân loại, kế thừa và đổi mới. Từ Hồ Chí Minh đã tỏa ra
một thứ văn hóa không phải chỉ của quá khứ và hiện tại mà còn là một nền
văn hóa của tương lai, đúng như nhà thơ Ô xíp Mendenxtam đã phát hiện và
nhận xét cách đây gần tám chục năm. Đó là di sản tinh thần vô cùng quý báu


20


của dân tộc ta. Đó là những giá trị mà Hồ Chí Minh, đại diện cho cả dân tộc
Việt Nam đóng góp làm phong phú thêm kho tàng văn hóa nhân loại.



×