Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tôn GIÁO và GIẢI QUYẾT vấn đề tôn GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH xây DỰNG CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.19 KB, 14 trang )

TÔN GIÁO VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. SỰ TỒN TẠI CỦA TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

3

1.1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội

3

1.2. Những chuyển biến quan trọng của tôn giáo trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội

4

2. NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

5

2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với vấn đề tôn giáo



5

2.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội
KẾT LUẬN

10
15


2
LỜI NÓI ĐẦU

Nếu triết học Mác - Lênin nghiên cứu vấn đề tôn giáo với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội nói chung thì chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên
cứu và giải quyết vấn đề tôn giáo với góc độ chính trị - xã hội liên quan trực
tiếp đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tôn giáo là
một trong những vấn đề lớn và phức tạp đang nổi lên hiện nay. Nhận thức và
vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng như đường lối, quan điểm của Đảng trong giải quyết vấn
đề tôn giáo góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất
nước ta hiện nay.
1. SỰ TỒN TẠI CỦA TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội

- Khái niệm về tôn giáo:

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang
đường hư ảo hiện thực khách quan, biến sức mạnh của tự nhiên và xã hội
thành huyền bí, biến con người trở thành nô lệ cho sức mạnh tự phát của tự
nhiên và của xã hội đó.
Bàn về vấn đề tôn giáo, trong tác phẩm “Chống Duy rinh”, Ph.Ăngghen
viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con
người những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế”1.
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng. Đặc trưng của sự phản ánh hình thái ý thức xã hội của tôn giáo
là sự phản ánh sai lạc, hư ảo hiện thực khách quan. Tôn giáo là sản phẩm
của xã hội, ra đời, tồn tại, phát triển gắn với những điều kiện lịch sử nhất
định; là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và con người
với tự nhiên.
1

C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t. 20, tr 437.


3

- Nguyên nhân tôn giáo còn tồn tại trong chủ nghĩa xã hội.
Có nhiều nguyên nhân cho sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã
hội, suy cho cùng là do còn những cơ sở nảy sinh và tồn tại của tôn giáo với
những điều kiện cụ thể mới. Ngoài những nguồn gốc chung, trong chủ nghĩa
xã hội tôn giáo còn tồn tại bởi một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội cũ, về mọi phương diện kinh
tế, đạo đức, tinh thần còn mang dấu vết của xã hội ấy. Đặc biệt trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những
lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng ở một số lĩnh vực
vẫn còn, sự ngẫu nhiên, may rủi trong nền kinh tế thị trường chưa thể khắc
phục được. Điều đó dễ làm cho con người có tâm lý thụ động nhờ cậy, cầu
may vào những lực lượng “siêu nhiên” thần bí.
Những hạn chế, yếu kém trong quản lý các quá trình xã hội xã hội chủ
nghĩa của các Đảng Cộng sản trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội có những biểu
hiện sa sút đạo đức, thoái hoá, biến chất, quan liêu, tham nhũng của cán bộ,
đảng viên, các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội nảy sinh và chậm được
khắc phục, công bằng xã hội bị vi phạm. Hoặc việc tổ chức thực hiện kém
hiệu quả các chính sách kinh tế - xã hội, vi phạm quan điểm, chính sách dân
tộc, tôn giáo, buông lỏng công tác quản lý xã hội; xâm phạm quyền làm chủ
của nhân dân, thiếu chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
của hệ thống chính trị và cán bộ, đảng viên, làm cho niềm tin của nhân dân
với Đảng và Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa bị suy giảm. Điều đó cũng
làm nảy sinh tâm lý hoang mang, dao động, sợ hãi, nhờ cậy vào tôn giáo ở
một số người.
Cùng với nó, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội lạc hậu nhất, bảo
thủ nhất lại ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân
qua nhiều thế hệ, bên cạnh đó, các thế lực thù địch, các tổ chức giáo hội và
chức sắc tôn giáo ra sức tuyên truyền, lôi kéo giáo dân để duy trì sự tồn tại
của tôn giáo, chúng lén lút nuôi dưỡng và lợi dụng tôn giáo, cố tình khoét sâu
mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm thần học với thế giới quan khoa học
của chủ nghĩa Mác – Lênin cùng những hạn chế, yếu kém trong giải quyết


4

vấn đề tôn giáo dưới chủ nghĩa xã hội để chống phá cách mạng. Vì vậy, trong
xã hội xã hội chủ nghĩa tôn giáo vẫn còn tồn tại là tất yếu khách quan.

1.2. Những chuyển biến của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội

- Chuyển biến trong giáo hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giáo hội và các tổ chức của
giáo hội không còn quyền lực như trước. Tôn giáo tách ra khỏi Nhà nước, nhà
thờ tách ra khỏi trường học, giáo hội không còn chi phối đến hệ thống giáo
dục như trong xã hội cũ. Vì vậy phạm vi ảnh hưởng và vai trò của tôn giáo chỉ
ở một giới hạn nhất định.
Trong chủ nghĩa xã hội, giáo hội tôn giáo cũng không còn đặc quyền,
đặc lợi về kinh tế như trước. Nếu như trước kia giáo hội có đặc quyền, đặc lợi
về kinh tế rất lớn nên chi phối, tác động nhiều đến tín đồ.
Chủ nghĩa xã hội, giáo hội trở thành tổ chức chăm lo việc tín ngưỡng
và động viên tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
hướng dẫn tín đồ chấp hành pháp luật, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
- Chuyển biến trong chức sắc tôn giáo.
Trong chủ nghĩa xã hội, hàng ngũ giáo sĩ và tu hành phần lớn đi vào con
đường chuyên lo việc đạo, có tiến bộ góp phần vào việc xây dựng đất nước, bên
cạnh đó vẫn còn một bộ phận ôm chân chủ nghĩa đế quốc chống phá chủ nghĩa
xã hội, chẳng hạn như ở Việt Nam (Nguyễn Văn Lý; Thích Quảng Độ; Thích
Thiện Quang), quần chúng nhân dân có đạo trở thành chủ nhân của đất nước, tin
tưởng và tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Chuyển biến trong giáo lý, luật lệ, lễ nghi.
Trong chủ nghĩa xã hội, giáo lý có sự thay đổi mềm dẻo, bớt khắt khe,
gò bó. Tín đồ đạo Thiên chúa được thờ cúng ông bà tổ tiên, tham gia vào các
lễ hội dân gian…, linh mục được lấy vợ, Phật giáo cho phép tu tại gia.
- Chuyển biến trong tín đồ các tôn giáo.
Trong chủ nghĩa xã hội, niềm tin của tín đồ các tôn giáo đã có sự thay
đổi, tín đồ vừa được tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa được làm chủ xã hội.
Những chuyển biến trong bản thân tôn giáo chủ yếu là ở hình thức bề

ngoài chứ không làm thay đổi bản chất của tôn giáo. Tôn giáo vẫn luôn bị các


5

thế lực phản động triệt để lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị của
chúng. Cho nên giải quyết vấn đề tôn giáo là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải
có phương pháp khoa học, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.
2. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với vấn đề tôn giáo

- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với vấn đề tôn giáo.
Trước hết, cần khẳng định thế giới quan duy vật và thế giới quan duy
tâm tôn giáo là đối lập với nhau. “Mác và Ăngghen đã tuyên bố nhiều lần, cơ
sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một chủ
nghĩa đã hoàn toàn hấp thụ truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật biện
chứng thế kỷ XVIII ở Pháp và của Phơ - Bách ở Đức (nửa đầu thế kỷ XIX),
tức là chủ nghĩa duy vật tuyệt đối vô thần, kiên quyết thù địch với mọi tôn
giáo”1. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng phê phán giáo hội là thế lực che giấu
lợi ích tư sản, giáo sĩ là quan chức mặc áo chùng thâm… Nhưng không vì thế
tuyên chiến với tôn giáo, đặt vấn đề đấu tranh với tôn giáo lên trên cuộc đấu
tranh giai cấp, mà ngược lại tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân,
quan điểm mác - xít coi tôn giáo là việc tư nhân đối với nhà nước, nhưng đối
với Đảng của giai cấp công nhân xã hội chủ nghĩa, tôn giáo không phải là việc
tư nhân. Lênin nhấn mạnh: “Tôn giáo phải được tuyên bố là một việc của tư
nhân đó là câu nói mà người ta thường dùng để chỉ thái độ của người xã hội

chủ nghĩa đối với tôn giáo. Nhưng cần phải xác định rõ ý nghĩa của câu nói để
khỏi gây ra mọi sự hiểu lầm. Chúng ta đòi hỏi rằng, đối với Nhà nước mà nói
tôn giáo phải là việc tư nhân, nhưng đối với Đảng của chính chúng ta thì bất
luận thế nào chúng ta không thể coi tôn giáo là một việc tư nhân được” 2. Tôn
giáo luôn bị giai cấp thống trị và các thế lực phản động lợi dụng để nô dịch
quần chúng. Việc giải phóng quần chúng nhân dân ra khỏi ảnh hưởng tiêu cực
của tôn giáo là lập trường của những người cộng sản, là yêu cầu khách quan
1
2

V.I Lênin: Toàn tập, t.7, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr.510.
V.I Lênin: Toàn tập, t.12, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr.171.


6

của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề tôn giáo dưới
chủ nghĩa xã hội là giải quyết những mâu thuẫn về ý thức tư tưởng, chính trị,
giữa vô thần và có thần, giữa các tôn giáo với nhau, giữa tôn giáo và chủ
nghĩa xã hội. Đó là công việc phức tạp và lâu dài.
Đối với nhân dân lao động, họ có quyền lựa chọn niềm tin cho riêng
mình. Lênin khẳng định: “Mỗi người cứ việc tin vào điều mình muốn hoặc là
chẳng tin bất cứ cái gì”1.
Những người cộng sản không đối lập với quần chúng nhân dân theo tôn
giáo, sẵn sàng kết nạp những người có tín ngưỡng vào Đảng. “Chúng ta
không những phải sẵn sàng kết nạp mà còn cố gắng để thu hút vào trong Đảng
dân chủ xã hội tất cả những công dân nào tin ở thượng đế, chúng ta phải nhất
định phản đối họ, bất cứ sự xúc phạm nhỏ nào đến những tín ngưỡng tôn giáo
của họ và ngay cả với chức sắc tôn giáo: Nếu có linh mục nào lại cùng đi với
chúng ta để cùng hoạt động chính trị, tận tâm làm tròn nhiệm vụ của mình

trong Đảng, không chống lại cương lĩnh của Đảng, thì chúng ta có thể kết nạp
người ấy vào hàng ngũ Đảng dân chủ xã hội”2.
Trong khi khẳng định chủ nghĩa duy vật tuyệt đối vô thần, nhưng các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin kịch liệt phê phán những phần tử “tả
khuynh” vô chính phủ dùng bạo lực đối với tôn giáo. Đồng thời, cũng phê
phán những ai dùng vũ khí tư tưởng thuần túy, tách khỏi cuộc đấu tranh giai
cấp trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
- Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề tôn giáo, cốt lõi là
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo, từ thực tiễn hoạt động và lãnh đạo cách
mạng, Người đã có quan điểm, thái độ và cách ứng xử đúng đắn, sáng tạo
trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong khi khẳng định thế giới quan duy vật vô thần: Chủ nghĩa duy
linh và chủ nghĩa duy vật là ngược nhau rõ ràng là thế, nhưng cũng không
phải vì thế mà bài xích, nghi kị đối với nhau, cần phải tôn trọng tự do, tín
1
2

V.I Lênin: Toàn tập, t.36, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr.668.
V.I Lênin: Toàn tập, t.17, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr.519.


7

ngưỡng, tự do ngôn luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc lên án tố cáo
những kẻ đội lốt tôn giáo để phản lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Với các giáo sĩ, Bác luôn tranh thủ chừng nào có thể tranh thủ, lôi kéo
họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Bác khai thác tìm kiếm sự
tương đồng, điểm chung giữa học thuyết Mác - Lênin với mục đích của các

tôn giáo làm cho tôn giáo gần với chủ nghĩa xã hội. Bác viết: “Khổng tử, Giê
- su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao. Họ muốn mưu
cầu hạnh phúc cho loài người”1. Bác ca ngợi lòng nhân ái của đức chúa Giê su “Cả đời chỉ lo cứu thế độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng”; “Đức Phật là
đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn. Người
phải hy sinh để diệt lũ ác ma”2; sự tu dưỡng đạo đức cá nhân của Khổng Tử,
và Bác “cố gắng làm người học trò của các vị ấy”. Bác tỏ lòng khâm phục và
kính trọng các vị giáo chủ, chức sắc trong các tôn giáo kết hợp đạo đức bác ái
theo lời dạy với tinh thần nồng nàn yêu nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến đời sống đồng bào tín đồ các tôn giáo, Bác vui niềm vui của
giáo dân; buồn, thông cảm khi bà con gặp khó khăn. Sinh thời, trong những
dịp lễ Nô - en, Phật đản, Bác thường gửi thư cho giáo dân với lời lẽ chân
thành, xúc động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng của nhân dân
không chỉ thể hiện trong lời nói mà cả ở việc làm. Khi Đảng và Nhà nước ta
tổ chức thực hiện chính sách có sai lầm, Bác nhận trách nhiệm và kiên quyết
sửa chữa. Người viết: “Trong cải cách ruộng đất, tuy có nơi đã phạm sai lầm
trong việc thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng Đảng và
Chính phủ đã có chính sách kiên quyết sửa chữa”3. Đoàn kết toàn dân không
phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc khác nhau để cứu nước và kiến quốc là
tư tưởng xuyên suốt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn có những quan điểm và phương pháp giải quyết
1

2
3

“Nho giáo xưa và nay”, NXB khoa học xã hội, H. 1971, tr.16.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb CTQG, H. 2000, tr.197.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb CTQG, H. 2000, tr.290.


8

đúng đắn vấn đề tôn giáo ở nước ta, những quan điểm đó được Đảng ta trình
bày trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 (khoá IX) với những nội dung cụ
thể là:
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là quan điểm cơ bản bao trùm để chỉ đạo công tác tôn giáo trong
tình hình mới; tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn
tồn tại lâu dài; đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào; các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật
Nhà nước.
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật; đoàn kết đồng bào theo hoặc không theo tôn giáo; phát
huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên; nghiêm cấm
phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo; chống lợi dụng tôn giáo để hoạt động mê
tín dị đoan, chia rẽ đoàn kết dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia. “Đồng bào
các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo
tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các
chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt

động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào
các tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước,
vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân”.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng; công tác vận động quần chúng là phải động viên đồng bào nêu cao


9

tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
động viên đồng bào các tôn giáo thực hiện tốt chính sách kinh tế - xã hội,
quốc phòng an ninh; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói
chung trong đó có đồng bào tôn giáo.
Nhiệm vụ cơ bản của công tác tôn giáo hiện nay được hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX xác định:
Một là: Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân
dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Hai là: Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng
chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Ba là: Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt
đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở.
Bốn là: Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và
phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
Năm là: Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp
với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Sáu là: Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về

công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn góp phần
cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của các cấp,
các ngành do Đảng lãnh đạo trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách là lực
lượng tham mưu nòng cốt.
Vấn đề theo đạo và truyền đạo; mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo
tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo qui định của pháp luật.
2.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội

- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, phải gắn liền
với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.


10

Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo đã được các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin nghiên cứu và trên cơ sở triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Các ông chỉ ra rằng muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết
cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh
trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều
cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp
bức, bất công, nghèo đói và thất học… cùng những tệ nạn nảy sinh trong xã
hội. Đó là một quá trình lâu dài không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ có thông qua quá trình cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho
con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo trong đời sống xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, chỉ có thông qua công cuộc xây dựng xã

hội mới, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, trí tuệ của nhân
dân, củng cố niềm tin của quần chúng tín đồ tôn giáo vào chế độ mới thì
mới khắc phục, gạt bỏ dần tâm lý sùng tín tôn giáo trong đời sống xã hội.
Sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người mà chủ nghĩa xã
hội phải thực hiện cho được là sáng tạo lên “một thiên đường” ở trái đất
nhằm từng bước khắc phục những nguyên nhân, nguồn gốc nảy sinh tôn
giáo, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo.
- Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân.
Điều cần lưu ý là tôn giáo với nhiều hình thức khác nhau vẫn tồn tại
trong một xã hội. Nhưng cho đến nay, ý đồ khai thác sự khác biệt hoặc lợi
dụng tôn giáo vẫn còn là nguy cơ đối đầu dẫn đến khả năng xảy ra những
xung đột, những cuộc chiến tranh dưới nhiều hình thức tôn giáo…
Trong chủ nghĩa xã hội việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng là nguyên tắc. Quyền ấy không chỉ thể hiện về
mặt pháp lý mà còn được thực hiện trên thực tiễn.
Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng tôn giáo là: mọi công dân đều có quyền tự do theo hoặc không theo
bất kỳ một tôn giáo nào. Việc vào đạo, chuyển đạo hay bỏ đạo theo quy định


11

của pháp luật hiện hành là quyền tự do của mỗi người. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa thừa nhận và bảo đảm cho mọi công dân có hoặc không có tín ngưỡng
tôn giáo đều bình đẳng về mặt nghĩa vụ và quyền lợi, không có sự phân biệt
đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Các tôn giáo được Nhà nước thừa nhận
đều bình đẳng trước pháp luật. Các giáo hội có trách nhiệm động viên tín đồ
của mình thực hiện bổn phận của giáo dân và nghĩa vụ của công dân, phấn
đấu sống “tốt đời, đẹp đạo” phù hợp với lợi ích của dân tộc, quốc gia.

- Quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của những tôn giáo
đối với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội,
chức sắc giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác
biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và
ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích
của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến thành
công cụ của giai cấp bóc lột, thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo luôn
luôn đồng hành cùng với dân tộc, nhưng cũng có những người đã hợp tác với
các thế lực phản động, đi ngược với lợi ích của quốc gia, của dân tộc. Có những
vị chân tu luôn “kính Chúa, yêu nước”, thiết tha muốn sống “tốt đời, đẹp đạo”,
nhưng lại có những người sẵn sàng hy sinh quyền lợi Tổ quốc cho lợi ích của
giáo hội. Điều khiến cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn cần có thái độ, cách cư
xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể đó là điều mà V.I.Lênin đã nhắc nhở:
“người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”1.
- Phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, tín ngưỡng tôn giáo chỉ biểu hiện
thuần túy về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn chính
trị ít nhiều đều có trong tôn giáo. Và từ đó hai mặt chính trị và tư tưởng
thường thể hiện và có mối quan hệ trong tôn giáo.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thực chất là phân
biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn luôn tồn tại trong bản
1

V.I Lênin, Toàn tập, t.17, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr. 518.


12


chất tôn giáo. Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế,
chính trị giữa các giai cấp và những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự
nghiệp cách mạng và lợi ích của nhân dân lao động; còn mặt tư tưởng phản
ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng giữa những người có tín ngưỡng
và những người không có tín ngưỡng tôn giáo cũng như những người có tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau.
Sự phân biệt này trên thực tế không đơn giản, bởi lẽ: Trong đời sống
xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị
và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Dù khó khăn, nhưng
việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc
“hữu” trong quá trình quản lý ứng xử những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng
tôn giáo.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động
trong tôn giáo. Ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn
giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã
hội ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp
công nhân cần nêu cao cảnh giác, giải quyết kịp thời, cương quyết với những
kẻ lợi dụng tôn giáo, nhưng cũng tránh nôn nóng vội vàng.
Quá trình giải quyết vấn đề nảy sinh tôn giáo phải thận trọng và tỉ mỉ
nhằm đạt được những yêu cầu chính sau đây:
Đoàn kết rộng rãi đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, đồng
bào các tôn giáo khác nhau nhằm phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát huy tinh thần yêu nước, thương dân, chuyên cần việc đạo của các
vị chân tu trong hàng ngũ chức sắc, tu sĩ. Hướng các giáo hội vào những tổ
chức hoạt động thuần túy tôn giáo.
Kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để hoạt
động chống sự nghiệp cách mạng của toàn dân, đi ngược lại với lợi ích của

quốc gia, dân tộc. Chống khuynh hướng “tả khuynh” tuyên chiến với tôn giáo
hoặc khuynh hướng “hữu khuynh” cơ hội, thoả hiệp với tôn giáo. “Đoàn kết
rộng rãi quần chúng có tín ngưỡng và không tín ngưỡng, đoàn kết các tôn


13

giáo và tín đồ các tôn giáo khác nhau, lấy mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa làm điểm tương đồng. Ở nước ta hiện nay mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để
củng cố và phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo”1.
Nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo
của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
tôn giáo của nhân dân và đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc giải quyết
vấn đề tôn giáo hiện nay.
Về quan điểm: Công tác tôn giáo vừa phải quan tâm giải quyết hợp lý
nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi
dụng tôn giáo phá hoại cách mạng; nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm tốt công tác tôn
giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
Về nguyên tắc: Giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn với cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân nhằm giải phóng con người toàn diện, đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và phải thực hiện thắng lợi mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân.
Theo V.I.Lênin: “giai cấp vô sản hiện đại đứng về phía chủ nghĩa xã
hội là chủ nghĩa đưa khoa học vào cuộc đấu tranh chống các đám mây mù tôn
giáo và làm cho công nhân khỏi tin vào cuộc đời ở thế giới bên kia, bằng cách

đoàn kết họ lại vì cuộc đấu tranh thực sự nhằm giành lấy một cuộc đời tốt đẹp
hơn ở trần thế”2.
Việc khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong chủ nghĩa
xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xây
dựng “một thiên đường” thực sự nơi trần thế không nóng vội, chủ quan.

1
2

Văn kiện Nghị quyết TW lần thứ bảy khoá IX, Nxb CTQG, H, 2003, tr.13
V.I Lênin: Toàn tập, t.12, bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr.171.


14

Giải quyết vấn đề tôn giáo phải có quan điểm lịch sử cụ thể, và phải
phân biệt rõ hai mặt, mặt chính trị và mặt tư tưởng, mặt tiêu cực và mặt tích
cực trong các tôn giáo để có chính sách, biện pháp phù hợp.
Thực hiện và làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo dưới sự quản lý của Nhà nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến
đấu, một bộ phận cán bộ, chiến sỹ là con em đồng bào các tôn giáo, vì vậy
phải thực hiện tốt quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước đối
với các quân nhân có đạo. Đồng thời khi đóng quân ở vùng đồng bào các tôn
giáo phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động đồng bào các tôn giáo chấp
hành và thực hiện mọi quan điểm, chính sách, và pháp luật của Nhà nước.
KẾT LUẬN

Nghiên cứu vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

cần phải thấy rõ tôn giáo còn tồn tại là tất yếu khách quan, các Đảng Cộng sản
cần phải có những quan điểm, chính sách giải quyết phù hợp với từng nước.
Thực hiện tốt quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta là vấn
đề cấp thiết, đấu tranh kiên quyết đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo
chống lại đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Việc giải quyết vấn đề tôn giáo là một vấn đề hết sức tế nhị và nhạy
cảm đòi hỏi các Đảng Cộng sản cần phải phát huy vai trò, trách nhiệm của
toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.



×