Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về bạo lực các MẠNG và GIÁ TRỊ đối với sự NGHIỆP CÁCH MẠNG của ĐẢNG và NHÂN dân TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.64 KB, 17 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẠO LỰC CÁC MẠNG VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
BẠO LỰC CÁCH MẠNG

3

1.1. Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân chống lại
bạo lực phản cách mạng để giành và giữ chính quyền

3

1.2. Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân, có tổ
chức và được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng
1.3. Về hình thức bạo lực cách mạng

5
7

1.4. Tư tưởng bạo lực cách mạng phản ánh sâu sắc giá trị nhân văn,
nhân đạo và hòa bình

10


2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẠO LỰC CÁCH MẠNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA

12

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng - cơ sở cho hoạt
động của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

12

2.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
hiện nay

14

KẾT LUẬN

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO

17


2
LỜI NÓI ĐẦU

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng là một bộ phận quan
trọng trong di sản tư tưởng của Người. Đó là những quan điểm cơ bản về

phương pháp đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc bị áp bức dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân đế
quốc, giành và giữ chính quyền cách mạng.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng giúp học viên
có cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc hệ thống các quan điểm của Người về
đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa vũ trang, đồng thời là cơ sở để nhận thức
đầy đủ hơn về sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
BẠO LỰC CÁCH MẠNG

1.1. Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân chống lại bạo
lực phản cách mạng để giành và giữ chính quyền

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng là vấn đề chính quyền, chỉ có dùng bạo lực cách mạng của quần chúng,
đập tan bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống trị mới giành được chính
quyền về tay nhân dân lao động. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản: "Những người cộng sản… công khai tuyên bố rằng
mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ
trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc
cách mạng cộng sản chủ nghĩa…"1.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin tiếp tục phát triển quan điểm
trên và cho rằng: nhà nước tư sản bị thay thế bằng nhà nước vô sản không thể
bằng con đường tiêu vong mà chỉ có thể theo quy luật chung bằng công cuộc
cách mạng bạo lực. Luận điểm này đã được hiện thực hóa bằng thắng lợi của
cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
Thấm nhuần sâu sắc lý luận về bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam - một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực

1

Các Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 4, tr.646.


3
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền" 2. Hồ Chí
Minh đã nhận rõ bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Dưới
chiêu bài "khai hóa văn minh”, chúng thi hành chính sách áp bức, bóc lột tàn
bạo. Chúng dựng lên bộ máy cai trị khổng lồ bằng bạo lực phản cách mạng và
thẳng tay đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Người chỉ rõ:
"Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu rồi"2; "Lịch sử việc người Âu xâm chiếm châu Phi - cũng như
bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc địa nào - thì từ đầu đến cuối đều được viết
bằng máu của những người bản xứ"3.
Do đó, để lật đổ ách thống trị của thực dân phong kiến, giành lấy quyền
sống, quyền tự do, quyền được làm người, không thể ảo tưởng trông chờ sự
"khai hóa văn minh" của thực dân Pháp, càng không thể cầu xin sự ban ơn và
những cải cách của kẻ thù. Độc lập, tự do chỉ có thể giành được bằng cuộc
chiến đấu anh dũng, bằng bạo lực cách mạng.
Những năm 1920-1930, trong quá trình hình thành tư tưởng của Người
về con đường cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường
đó chỉ có thể thực hiện được bằng sức mạnh bạo lực của quần chúng. Từ năm
1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập
khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Để khởi nghĩa nổ ra
và thắng lợi, Người chỉ ra một trong các điều kiện tất yếu là: phải có tính chất
một cuộc khởi nghĩa bằng bạo lực của quần chúng chứ không phải là cuộc nổi
loạn, phải được chuẩn bị trong quần chúng… Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ
tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá I do Người chủ trì đã đưa ra
nhận định: cách mạng Đông Dương sẽ kết thúc bằng một cuộc khởi nghĩa vũ

trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương, … mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây
dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang,
chủ động tạo lập và chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám,
giành được chính quyền trên phạm vi cả nước chỉ trong 10 ngày.
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.304.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.96.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.326.
2


4
Tiếp thu tư tưởng của Lênin: giành chính quyền đã khó, giữ chính
quyền càng khó hơn, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề bảo vệ chính
quyền và thành quả cách mạng, Người đã đánh giá đúng thực trạng tình hình
đất nước sau ngày 02/9/1945 và chủ trương động viên toàn dân khẩn trương
xây dựng lực lượng để bảo vệ chính quyền và mọi thành quả của cách mạng.
Nghĩa là trong thời bình cũng phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang vững
mạnh, không ngừng củng cố quốc phòng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, hành
động xâm lược, phá hoại của kẻ thù để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Luận điểm này xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc giá trị cao quý của độc lập,
tự do, hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Do đó, để bảo vệ chính
quyền, Hồ Chí Minh chủ trương phải dùng bạo lực cách mạng của quần
chúng, phải xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để
ứng phó với mọi tình huống.

Khi buộc phải kháng chiến thì kiên quyết động viên toàn dân đứng lên
chiến đấu với tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ"1. "Hễ còn một tên xâm lược trên đất
nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"2.
Tư tưởng về tính tất yếu của bạo lực cách mạng đã được khẳng định
trong thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trở thành cơ sở quan trọng
để Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng cách mạng cả trước, trong
và sau khi giành chính quyền, góp phần đưa cách mạng đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đó cũng là vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng vô
sản ở các nước thuộc địa. Chỉ có thể tiến hành một cuộc cách mạng bằng bạo
lực của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thì các dân tộc bị
áp bức mới có thể giành được độc lập, tự do thực sự.
1.2. Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân, có tổ chức
và được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, kế thừa truyền thống của dân tộc, truyền thống toàn
dân đánh giặc, "trăm họ là binh", Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: cách mạng là
việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người. Người còn
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.480.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.407.


5
khẳng định: "Dân khí mạnh thì không quân lính nào, súng ống nào chống lại
nổi"1, "Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái
giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ chờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9,

10 anh quan là được"2. Như vậy, có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực
cách mạng khẳng định sức mạnh của bạo lực cách mạng là ở nơi dân, phải
dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh trong dân; có dân là có tất cả. Nguyên lý
đó đã thành niềm tin, nếp nghĩ, thành chân lý phản ánh đặc trưng của bạo lực
cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một sáng tạo lớn của Hồ Chí
Minh, thể hiện trí tuệ vượt trước so với nhiều người Việt Nam đương thời.
Khẳng định bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân, Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ phải tổ chức tập hợp toàn dân trong Mặt trận dân tộc
thống nhất chống đế quốc xâm lược, phải xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc trong quan điểm phát huy sức
mạnh toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để thực hiện điều đó, Hồ Chí
Minh chỉ ra phải động viên toàn dân, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng
nhân dân thành các đạo quân chính trị ngày càng hùng hậu. Từ các đạo quân
chính trị của quần chúng qua đấu tranh cách mạng, khi yêu cầu đòi hỏi sẽ tổ
chức ra các lực lượng vũ trang cách mạng.
Để tập hợp, giáo dục, rèn luyện quần chúng, trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Hồ Chí Minh đã hướng dẫn cách tổ chức và hoạt động của Công
hội, Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ, tổ chức Cứu tế… để chuẩn bị cho cao trào
cách mạng khi thời cơ đến. Từ sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ,
tình thế cách mạng đặt ra một cách trực tiếp, Người chủ trương thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt minh nhằm thực hiện toàn
dân đánh giặc, cả nước một lòng giành lại độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, việc tổ chức xây dựng lực lượng chính trị của
quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt
trong đấu tranh giành và giữ chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, trong cuộc
đấu tranh quyết liệt, mặt đối mặt với kẻ thù hung ác nếu chỉ sử dụng lực
1
2


Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.274.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.276.


6
lượng chính trị của quần chúng là chưa đủ để giành thắng lợi mà phải tổ chức
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Người cho rằng phải trên cơ sở lực
lượng chính trị, từ trong tổ chức chính trị mà tuyển chọn những người hăng
hái, trung kiên để đưa vào xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Khi còn ở
nước ngoài, Người đã tuyển chọn 17 hội viên của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội, đưa đi đào tạo tại Trường quân sự Hoàng Phố. Trong báo
cáo gửi Quốc tế cộng sản cuối năm 1930, Người viết: "Tổ chức tự vệ của
nông dân rất quan trọng trong các cuộc đấu tranh ở thôn xã… Để chống lại
đàn áp, phải chuẩn bị thật chu đáo và lãnh đạo có kế hoạch mọi cuộc đấu
tranh, phải phát triển và huấn luyện đội tự vệ nông dân" 1. Khi tình thế cách
mạng xuất hiện, Người đứng ra tổ chức, lãnh đạo các đội du kích làm nòng
cốt, hỗ trợ quần chúng đấu tranh, khi phong trào cách mạng lên cao, Người ra
Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, với tư cách là lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà
nước, Người đã không ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang vững
mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Quan điểm bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân có
tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta. Với quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút, tập hợp mọi lực
lượng, mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Từ các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp phong kiến, đội ngũ trí thức, những
người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài đến các tầng lớp nhân dân ở trong
nước, không phân biệt giàu, nghèo; không phân biệt gái, trai; già, trẻ; miền
ngược, miền xuôi… đều tin theo cách mạng, tập hợp quanh ngọn cờ đại nghĩa

của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Quan điểm đó đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
có thể huy động mọi nguồn lực trong nhân dân tạo nên sức mạnh to lớn của cả
dân tộc để giành thắng lợi cho cách mạng. Các phong trào "tuần lễ vàng"
trong những ngày cách mạng mới thành công; phong trào "hũ gạo kháng
chiến", "mùa đông binh sĩ" trong kháng chiến chống Pháp; các tấm gương
tiêu biểu "xe chưa qua nhà không tiếc", "thóc không thiếu một cân, quân
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.566-567.


7
không thiếu một người", "tất cả vì miền Nam ruột thịt" trong kháng chiến
chống Mỹ là những biểu hiện sinh động của việc phát huy sức mạnh toàn dân
tộc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đó cũng là nét độc đáo, đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng.
1.3. Về hình thức bạo lực cách mạng

Hình thức sử dụng bạo lực cách mạng có vai trò rất quan trọng nhằm
phát huy tối đa sức mạnh bạo lực của quần chúng, đó là một nghệ thuật. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: "Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu
tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu
tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng"1.
Sự nghiệp cách mạng mà nhân dân ta tiến hành nhằm giành chính
quyền và giữ chính quyền là sự nghiệp vô cùng gian khổ, khó khăn. Vì vậy,
muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, những người cộng sản không tự giới hạn
ở một hình thức, phương pháp nào. Quá trình đấu tranh là quá trình vận dụng
sáng tạo, linh hoạt nhiều hình thức, biện pháp phù hợp với hoàn cảnh lịch sử
cụ thể nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp, to lớn của bạo lực cách mạng, giành

thắng lợi với những nhiệm vụ, mục tiêu đã được đề ra.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy thực dân Pháp và bè lũ tay sai
sử dụng nhiều thủ đoạn, hình thức để duy trì ách thống trị của chúng và đàn
áp các lực lượng cách mạng. Vì vậy, bạo lực cách mạng trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam cũng phải sử
dụng nhiều hình thức, biện pháp đấu tranh, không đơn thuần chỉ là đấu tranh
quân sự mà là sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự;
kết hợp giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự với đấu tranh trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, ngoại giao, v.v… Ngay trong từng lĩnh vực cũng phải
biết sáng tạo ra nhiều hình thức, biện pháp cụ thể nhằm phát huy thế mạnh
của các lực lượng cách mạng, khắc phục mọi hạn chế, khai thác các điều kiện
thiên thời, địa lợi, nhân hòa làm cho lực lượng của ta ngày càng lớn, sức của
ta càng ngày càng mạnh. Trong chiến tranh khi phải chống kẻ địch mạnh hơn,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: "… nó lấy vũ lực ta không sợ. Nó
lấy chính trị, ta không mắc mưu. Nó lấy kinh tế phong tỏa, thì ta lấy kinh tế ta
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.304.


8
đánh nó. Ta tăng gia sản xuất…"2. "Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn
tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định
thua, ta nhất định thắng"2.
Như vậy có thể thấy, bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
luôn luôn chú trọng khai thác và phát huy tối đa sức mạnh to lớn của quần
chúng thông qua việc tổ chức xây dựng lực lượng và kết hợp sáng tạo, tài tình
nhiều hình thức đấu tranh. Những hình thức, biện pháp đó có thể khái quát
thành hai hình thức cơ bản, chủ yếu là: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang. Sử dụng hai lực lượng là lực lượng chính trị của quần chúng và lực

lượng vũ trang nhân dân để đập tan bộ máy cai trị của bọn đế quốc và tay sai,
giành chính quyền về tay nhân dân. Lực lượng vũ trang kết hợp với lực lượng
chính trị, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, đó là hình thức cơ
bản của bạo lực cách mạng ở Việt Nam.
Khi nói đến hoạt động quân sự và đấu tranh vũ trang, Hồ Chí Minh
luôn gắn với chính trị. Người vạch rõ: quân sự phải phục tùng chính trị, phải
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra. Người thường phê bình những
thiên hướng chỉ thấy quân sự, không thấy chính trị, chỉ biết tác chiến mà
không biết vận động quần chúng và xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân.
Người khẳng định: "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô
dụng mà có hại"3.
Vì vậy, xây dựng lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ
trang, đấu tranh chính trị bao giờ cũng là cơ sở để triển khai đấu tranh trên
lĩnh vực quân sự. Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, cố Tổng Bí thư
Lê Duẩn cũng đã khẳng định: "Không có lực lượng chính trị và đấu tranh
chính trị của quần chúng thì đấu tranh quân sự và lực lượng vũ trang không
thể giành được thắng lợi"4.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế các hình thức của bạo lực cách
mạng luôn kết hợp chặt chẽ với nhau và tùy theo tình hình cụ thể mà hình
thức này hoặc hình thức kia có thể nổi lên. Kinh nghiệm cách mạng Việt Nam
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.58.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.485.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.318.
4
Lê Duẫn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.51.
2



9
chứng minh rằng muốn giành thắng lợi cho cách mạng thì ngoài lực lượng
chính trị cần có lực lượng vũ trang. Không chuẩn bị sẵn sàng lực lượng kể cả
lực lượng vũ trang thì không chống lại được sự tấn công của kẻ thù. Bởi vì
lực lượng quân sự và đấu tranh vũ trang giữ vai trò trực tiếp quyết định đối
với những trận chiến đấu trên chiến trường, trong đối đầu trực tiếp với các lực
lượng tiến công của địch, trong công việc tiêu diệt lực lượng quân sự của
địch. Chính điều này có tác động tích cực trở lại đối với xây dựng lực lượng
chính trị và đấu tranh chính trị, định hướng cho việc kết hợp các lực lượng và
các hình thức đấu tranh giành thắng lợi. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng
cho thấy trong đấu tranh với kẻ thù để giành và giữ chính quyền không chỉ có
kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang mà còn có đấu tranh
trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, ngoại giao, v.v… Việc kết hợp các lực
lượng và hình thức đấu tranh là một vấn đề có tính nguyên tắc trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng.
1.4. Tư tưởng bạo lực cách mạng phản ánh sâu sắc giá trị nhân văn,
nhân đạo và hòa bình

Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc: trọng nhân nghĩa, yêu hòa
bình, trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chú trọng sử dụng các hình thức đấu tranh ít đổ máu nhất.
Khi đối phương chủ trương gây chiến, Người tìm mọi cách ngăn chặn các
cuộc xung đột vũ trang, đẩy lùi chiến tranh xâm lược bằng kiên trì đàm phán,
thương lượng, chấp nhận những nhân nhượng có nguyên tắc. Khi phải tiến
hành chiến tranh Người cũng không bỏ lỡ cơ hội đàm phán hoà bình với địch
để sớm kết thúc chiến tranh trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Người tuyên bố: "Chúng tôi muốn hoà bình ngay
để máu người Pháp và người Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi
đều quý như nhau. Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử

chỉ mang lại hoà bình…"1.
Người tiên đoán chính xác thời cơ và những bước ngoặt có thể xảy ra,
vận dụng linh hoạt và phối hợp tài tình các lực lượng và hình thức đấu tranh
giành thắng lợi ở những thời điểm quyết định, hạn chế đến mức thấp nhất tổn
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.19.


10
thất của lực lượng cách mạng, bớt đổ máu cho các bên tham chiến. Với
phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn,
Hồ Chí Minh có nhiều bước đi tài trí, cơ mưu, vận dụng sáng tạo sách lược
đấu tranh, khi cần có thể thực hiện việc nhân nhượng có nguyên tắc, loại bớt
kẻ thù, tranh thủ thời gian củng cố, tăng cường lực lượng cách mạng, tập
trung vào kẻ thù chủ yếu. Người luôn mong muốn cho đất nước có cuộc sống
hòa bình. Khát vọng của Người là hòa bình trong độc lập, tự do, là cuộc sống
yên bình, hạnh phúc của nhân dân. Người nói: "Nhân dân Việt Nam rất yêu
chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân chính trong độc lập tự do thật sự.
Nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ để
bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình" 1. Điều này, ngay
nhà lãnh đạo của nước Pháp sau này cũng phải thừa nhận: "Tôi nhớ đến Ông
Hồ Chí Minh đã sang nước Pháp năm 1946 để tìm một người đối thoại nhưng
không thấy, Ông muốn đàm phán để tránh chiến tranh"2.
Mong muốn hòa bình, không muốn chiến tranh. Nhưng từ kinh nghiệm
của dân tộc mình và nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí Minh không
chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn áp bức và xâm lược. Vì vậy, Người
luôn kiên định quan điểm bạo lực cách mạng. Mục đích của bạo lực cách
mạng theo Hồ Chí Minh, suy cho cùng là đem lại nền hoà bình thực sự cho
nhân dân lao động trong nước và trên thế giới chứ không phải thứ bạo lực để

đi xâm lược, nô dịch dân tộc khác. Quan điểm đó được Người vận dụng sáng
tạo trong khởi nghĩa cũng như trong chiến tranh, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
Người chủ động tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng và khi thời cơ
đến đã kịp thời lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền, khi đã giành được
chính quyền thì khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để đánh thắng kẻ thù xâm lược
bằng bạo lực cách mạng để giữ vững chính quyền nhân dân. Khi buộc phải
kháng chiến Người đã kêu gọi cả nước đứng lên đánh giặc với quyết tâm "thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm

1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.489.
Lời phát biểu của R.Mittơrăng trong cuộc họp báo tháng 2 năm 1993 tại Hà Nội.


11
nô lệ"3. Người động viên toàn dân kiên quyết chiến đấu: "Hễ còn một tên xâm
lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi" 2. Dù có phải 5
năm, 10 năm hay lâu hơn nữa, dù một số thành phố, làng mạc có thể bị tàn
phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. "Không có gì quý hơn độc lập,
tự do, đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đoàng hoàng
hơn, to đẹp hơn"3.
Với lòng nhân đạo đối với con người và tinh thần yêu chuộng hoà bình
giữa các dân tộc, Người bày tỏ lòng yêu mến những thanh niên Pháp cũng
như thanh niên Việt Nam, những người rất cần cho xây dựng ở cả hai nước lại
phải đổ máu trên chiến trường: "Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến
sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm
ngùi thương xót cho những người Pháp tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái thì

máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng
đều là người"4.
Đối với tù hàng binh, người luôn nhắc nhở quân dân phải đối xử tử tế
với tinh thần nhân đạo. Đối với những người lầm đường lạc lối đã biết hối cải,
Người có thái độ khoan dung độ lượng để giúp họ cải tà quy chính, làm được
những việc có ích cho xã hội.
Đối với quân Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh cũng nhiều lần gửi thông
điệp cho các nhà cầm quyền Mỹ yêu cầu đàm phán hoà bình để sớm kết thúc
chiến tranh. Người luôn tìm cách vừa đánh, vừa đàm để bớt đổ máu và thực
hiện phương châm "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào", sẵn sàng mở
đường cho quân xâm lược rút lui khỏi đất nước ta.
Có thể nói: chí quyết tâm chiến đấu gắn với khát vọng hòa bình, độc
lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân phản ánh sâu sắc giá trị nhân văn, nhân
đạo, hòa bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng.
2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẠO LỰC CÁCH MẠNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TA

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.480.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.407.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.109.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.457.
2


12
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng có ý nghĩa to lớn cả về

mặt lý luận và thực tiễn. Là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng quân sự
Hồ Chí Minh, trên thực tế tư tưởng bạo lực cách mạng của Người đã trở thành
tài sản tinh thần vô giá, chỉ đạo tiến trình cách mạng của Đảng và nhân dân ta
ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành chính quyền đến công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng - cơ sở cho hoạt động
của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Ngay từ khi mới ra đời, vận dụng quan điểm bạo lực cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chỉ ra con đường giành chính quyền phải
bằng cách mạng bạo lực. Phương thức bạo lực là khởi nghĩa vũ trang của
quần chúng có tổ chức, được giáo dục, rèn luyện từ thấp đến cao. Đảng đã
chăm lo tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng của quần chúng, đưa quần
chúng lên trận tuyến đấu tranh, khởi đầu là cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 1931. Quần chúng công nông hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã nổi dậy đánh đổ bọn thực dân và bọn quan lại, cường hào ở địa
phương, thành lập các xô viết công nông ở một số vùng nông thôn. Cuộc nổi
dậy tuy thất bại nhưng đã để lại những kinh nghiệm quý báu về sử dụng bạo
lực cách mạng.
Từ năm 1936 – 1939, đón trước thời cơ, Đảng đã lấy việc xây dựng lực
lượng chính trị của quần chúng làm cơ sở, đã khéo phối hợp hoạt động không
hợp pháp với hoạt động hợp pháp, giữa bí mật, công khai và bán công khai,
v.v… để phát động một phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi từ thành thị đến
nông thôn đòi tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, chống chủ nghĩa phát xít và
bảo vệ hòa bình.
Năm 1945, khi thời cơ giành chính quyền xuất hiện Đảng đã kịp thời tổ
chức lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng kết
hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang để giành chính
quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của
tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng vào
điều kiện cụ thể một cách sáng tạo.



13
Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện. Trong thời kỳ này, "bạo lực cách mạng của nhân dân ta đã được thể hiện
bằng sự kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trong đó đấu tranh
quân sự là chủ yếu"1. Với tinh thần đó Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh
của toàn dân, xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc; đã sáng tạo nhiều hình thức đấu tranh: chính trị,
quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hoá - tư tưởng…, kết hợp chặt chẽ các lực
lượng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đánh thắng thực dân
Pháp xâm lược, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi
toàn thế giới.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong điều kiện lịch sử mới,
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị của quần
chúng và đấu tranh quân sự của các lực lượng vũ trang, giữa tiến công quân
sự và đấu tranh ngoại giao, giữa đánh và đàm, giữa tiến công và nổi dậy, nổi
dậy và tiến công, kết thúc bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp phát
huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy tối đa
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác
định: "Thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải được bảo đảm bằng sức
mạnh tổng hợp sức mạnh tổng hợp của chế độ mới" 2. Sức mạnh tổng hợp đó

được thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ Tổ quốc với xây dựng đất
nước; giữa kinh tế với quốc phòng; giữa quốc phòng - an ninh với kinh tế và
đối ngoại.
1

Trường Chinh, Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1983, tr.153.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1987, tr.40.


14
Ngày nay sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta diễn
ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng và phức
tạp, chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay
gắt, quyết liệt dưới nhiều hình thức khác nhau. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X chỉ rõ: “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly
khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo
và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày
càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn diễn ra gay gắt” 1. Chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ không từ bỏ âm mưu chống phá chủ
nghĩa xã hội, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Với chiến lược
"diễn biến hòa bình" chúng chống phá chủ nghĩa xã hội quyết liệt với nhiều
hình thức, biện pháp ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn. Chúng dùng mọi thủ
đoạn để móc nối, câu kết các lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài, lợi
dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để gây rối và tiến
hành cho bạo loạn lật đổ, tạo cớ để can thiệp từ bên ngoài, không ngoại trừ
chúng có thể sử dụng sức mạnh quân sự để can thiệp hòng thực hiện ý đồ xóa

bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải luôn nắm vững và vận dụng sáng
tạo tư tưởng bạo lực cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo thế chủ động
ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay phải được
tiến hành bằng sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của các
thành phần kinh tế, của cả hệ thống chính trị; phải kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng
- an ninh với kinh tế và ngoại giao; kết hợp sức mạnh chính trị, kinh tế với
sức mạnh quân sự của đất nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, hành động
phá hoại của kẻ thù.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.73-74.


15
Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân. Một mặt, phải thường
xuyên coi trọng xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng Đảng
thực sự trong sạch vững mạnh, xây dựng cuộc sống mới gắn với cuộc đấu
tranh kiên quyết loại trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực sự đảm bảo
quyền làm chủ của dân. Tập trung chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân rộng khắp, củng cố, tăng cường
tiềm lực và sức mạnh quân sự của đất nước, đảm bảo sẵn sàng đánh thắng các

loại hình và các quy mô chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Mặt khác, phải tập
trung phát triển nhanh và vững chắc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, tạo sự nhất
trí cao, sự đồng thuận trong toàn xã hội. Đó là cơ sở vững chắc cho sức mạnh
bạo lực của quần chúng. Kinh nghiệm từ thực tế cho thấy nền quốc phòng - an
ninh của Tổ quốc và sự bền vững của chế độ không chỉ phụ thuộc vào các yếu
tố quân sự mà còn phụ thuộc chặt chẽ vào những yếu tố chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, v.v…
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng là một trong những nội
dung cơ bản trong hệ thống tư tưởng quân sự của Người. Đây là sự kế thừa
truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam, tiếp thu tư tưởng chủ nghĩa Mác –
Lênin về bạo lực cách mạng, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm các cuộc cách
mạng trên thế giới. Đó là những tư tưởng cơ bản về con đường đấu tranh của
nhân dân các dân tộc bị áp bức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân nhằm
lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, giành và giữ chính quyền cách
mạng, tạo cơ sở để tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn nhưng các thế
lực thù địch không từ bỏ âm mưu, thủ đoạn chống phá hòng thủ tiêu chủ
nghĩa xã hội. Vì thế, phải không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, coi trọng xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, củng cố lòng tin của


16
nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng
cường tiềm lực quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây
dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù. Kiên quyết
đấu tranh chống quan điểm tuyệt đối hoá xu thế hoà bình, hợp tác, “đối

thoại”, phủ nhận đấu tranh, phủ nhận bạo lực cách mạng…


17
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Các Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1993, tập 4.
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
3. Giáo trình Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Tổng cục Chính trị, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.
4. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tập
1, 2, 4, 5, 6, 8, 12.
5. Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
1976.
6. Lênin Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tập 39.
7. Trường Chinh, Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983.
8. Sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2000.



×