Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học mối QUAN hệ và NHỮNG vấn đề cơ bản về xã hội và tự NHIÊN TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.24 KB, 15 trang )

MỐI QUAN HỆ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. KHÁI NIỆM XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN

3

1.1. Tự nhiên

3

1.2. Xã hội

3

2. MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN

5

2.1. Vai trò của tự nhiên đối với sự phát triển của xã hội

5

2.2. Xã hội tác động vào tự nhiên


6

2.3. Tự nhiên và hoạt động quân sự

9

3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN TRONG

11

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1. Vấn đề môi trường sinh thái

11

3.2. Vấn đề dân số

13

3.3. Vấn đề chiến tranh

14

KẾT LUẬN

16


2

LỜI NÓI ĐẦU

Xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên, là sản phẩm đặc biệt của tự
nhiên. Đến lượt nó, xã hội tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên, lúc
đó xã hội là chủ thể, tự nhiên là sản phẩm (tự nhiên thứ hai) của con người. Vì
vậy, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội có ý nghĩa
hết sức to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
1. KHÁI NIỆM XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN

1.1. Tự nhiên

Tự nhiên theo nghĩa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách
quan. Quá trình phát triển của tự nhiên sản sinh ra sự sống và theo qui luật
tiến hoá, trong những điều kiện nhất định, con người xuất hiện. Như vậy với
nghĩa này con người và xã hội là một bộ phận, hơn nữa là một bộ phận đặc
thù của tự nhiên.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các qui luật sinh học
mà còn là kết quả của quá trình lao động. Đây là quá trình con người tác động
vào tự nhiên khai thác và cải biến tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của
mình. Trong quá trình lao động con người ngày càng phát triển hoàn thiện
hơn, từ đó ngôn ngữ và chữ viết ra đời.
Đồng thời, thông qua hoạt động thực tiễn và lao động sản xuất đã hình
thành nên các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên… Có thể nói, bằng quá trình lao động sản xuất xã hội - một phương
thức trao đổi chất đặc thù giữa tự nhiên và xã hội, con người trở thành khâu
gắn bó tự nhiên và xã hội thành một môi trường duy nhất, trong đó con người
sống vận động và thể hiện mình.
Tự nhiên, theo nghĩa hẹp là một bộ phận của thế giới vật chất nằm
ngoài xã hội, độc lập với xã hội nhưng tác động trực tiếp đến xã hội. Như vậy,
với nghĩa này tự nhiên thuần tuý là: đất, rừng, sông, biển… hay nói cách khác

tự nhiên là một bộ phận của thế giới vật chất không kể đến xã hội loài người.
1.2. Xã hội

Theo nghĩa rộng, xã hội được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất,
là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này


3

lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người
làm nền tảng.
Con người là thực thể của hình thức vận động xã hội. Mọi quá trình xã
hội đều là quá trình hoạt động của chính con người. Không có con người thì
không có xã hội. Việc hiểu tính qui định đặc trưng cho xã hội không nên dừng
lại ở quan niệm chỉ cho rằng xã hội là tập hợp, cộng đồng những con người.
Vì trong xã hội ngoài sự hiện diện của tập hợp người còn có những mối liên
hệ nối liền những con người, những bộ phận khác nhau trong nó thành một hệ
thống chỉnh thể duy nhất. Những mối liên hệ này được tái tạo trong hoạt động
của con người và mang tính bền vững đến mức nhiều thế hệ người thay thế
nhau mà hình thức của những liên hệ đặc trưng cho một xã hội cụ thể vẫn tồn
tại. Vì vậy, C.Mác viết: "xã hội không phải là những cá thể người, mà là biểu
hiện tổng số những mối liên hệ và quan hệ của chúng, trong đó những cá thể
đó tồn tại với nhau"1 xã hội là "sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người
với người"2.
Xã hội có lịch sử hình thành. Sự hình thành xã hội không tách rời quá
trình phát triển của giới tự nhiên và cũng không tách rời quá trình hình thành
của chính bản thân con người. Đây là hai mặt của quá trình thống nhất: Con
người - xã hội và tự nhiên.
Trong quá trình biến đổi tự nhiên, thực chất là quá trình lao động, các
qui luật xã hội, mà trước hết là qui luật của sản xuất vật chất ngày càng giữ

địa vị chủ đạo chi phối hoạt động nói chung của con người. Con người tồn tại
được là nhờ có tự nhiên nhưng giới tự nhiên trở thành tự nhiên của con người
lại là kết quả của sự biến đổi của con người với tự nhiên.
C.Mác cho rằng: "Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con
người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên"3, con người thực hiện được điều
đó là nhờ có lao động. Lao động là quá trình diễn ra giữa con người với tự
nhiên. Đây là quá trình con người cải biến tự nhiên và cũng là quá trình chế
tạo, sử dụng công cụ lao động. Và chính nhờ có lao động con người có thể tác
động sâu hơn vào giới tự nhiên, biến giới tự nhiên nguyên sinh thành tự nhiên
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG,H,1998, Tập 46, P1, Tr355.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG,H,1996, Tập 27, Tr657.
3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG,H,2000, Tập 42, Tr137.
2


4

của con người. Như vậy, nhờ lao động mà lực lượng vật chất và những quan
hệ xã hội vật chất của cộng đồng người được hình thành. Đó là cơ sở hình
thành, phát triển xã hội.
Theo nghĩa hẹp, xã hội được hiểu là một hệ thống xã hội cụ thể trong
lịch sử (những hình thái kinh tế - xã hội) hoặc là những xã hội riêng biệt, cụ
thể (ví dụ: xã hội Việt Nam, xã hội Trung Quốc…). Cùng với quá trình tiến
hoá tiếp tục của tự nhiên, xã hội cũng có quá trình phát triển lịch sử của mình
thể hiện bằng sự vận động biến đổi và phát triển không ngừng trong cơ cấu xã
hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội đặc thù. Và
mỗi hình thái kinh tế - xã hội được coi như những nấc thang của sự phát triển

xã hội.
Như vậy, theo nghĩa rộng xã hội là một bộ phận đặc biệt của giới tự
nhiên, xã hội nằm trong lòng tự nhiên. Nhưng theo nghĩa hẹp thì xã hội là vị
trí, phạm vi hoạt động của con người và xã hội loài người, trong thời gian,
không gian và những giai đoạn lịch sử nhất định.
2. MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN

Tự nhiên và xã hội loài người là hai mặt đối lập của một thế giới thống
nhất. Chúng không tách rời nhau nhưng không đồng nhất, mà giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng khăng khít với nhau, vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau trong suốt quá trình phát triển của con người.
2.1. Vai trò của tự nhiên đối với sự phát triển của xã hội

Tự nhiên là điều kiện khách quan, là môi trường tồn tại và phát triển
của xã hội. Con người sống trong môi trường tự nhiên - là một bộ phận của tự
nhiên. Con người gắn liền với môi trường tự nhiên bằng "các quan hệ máu
thịt". Chính đây là cơ sở tự nhiên của đời sống con người. Thiếu những cơ sở
này con người không thể tồn tại. Vì chỉ có môi trường tự nhiên mới cung cấp
được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ
có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho hoạt động xã
hội. Theo C.Mác, "con người không thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có
giới tự nhiên"1. Vai trò này của tự nhiên không có gì thay thế được và cũng
không bao giờ mất đi, cho dù xã hội phát triển đến trình độ nào đi chăng nữa.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG,H,1998, Tập 42, Tr112.


5


Với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có
thể tác động thuận lợi hoặc khó khăn cho sản xuất xã hội, thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển chính bản thân xã hội.
Môi trường tự nhiên có vai trò to lớn đối với đời sống con người. Ảnh
hưởng của nó đến xã hội loài người mang tính tự nhiên và tính lịch sử. Vì
những ảnh hưởng này thẩm thấu vào đời sống con người đến mức độ nào là
kết quả của sự tác động "chéo" giữa tự nhiên với con người và con người với
tự nhiên. Cho nên không thể tuyệt đối hoá mặt này hay mặt kia khi xem xét
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội.
2.2. Xã hội tác động vào tự nhiên

Lịch sử xã hội là sự tiếp tục lịch sử của tự nhiên. Từ khi xuất hiện con
người và xã hội loài người, lịch sử của tự nhiên không chỉ phụ thuộc vào sự
tác động của các yếu tố tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối ngày càng mạnh mẽ
của các yếu tố xã hội. Và nếu tự nhiên là nguồn cung cấp các tư liệu sinh hoạt
và các tư liệu sản xuất cho con người và xã hội, thì con người và xã hội là
người tiêu thụ và biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất
cả chu trình khác của quá trình sinh học. Sự phát triển của lịch sử xã hội
không thể tách rời các yếu tố tự nhiên, bởi vì chỉ có mối quan hệ với tự nhiên,
và quan hệ với nhau con người mới làm nên lịch sử của mình. Điều đó có
nghĩa là, có sự tiếp tục, sự gắn bó qui định lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên.
Quá trình quan hệ với tự nhiên con người đã cải biến giới tự nhiên. Bởi vì,
trong quá trình tồn tại, con người không thể thoả mãn với những gì mà tự
nhiên sẵn có. Thông qua hoạt động có ý thức của mình, con người cải tạo tự
nhiên nhằm làm cho tự nhiên ngày càng phục vụ nhiều hơn cho con người. Xã
hội tác động vào tự nhiên có vai trò vô cùng quan trọng, đồng thời nó xuất
phát từ sản xuất vật chất của con người. Nền sản xuất vật chất của xã hội là
phương thức trao đổi chất giữa xã hội và tự nhiên, xét về mặt xã hội đó đồng
thời là quá trình con người đồng hoá các đối tượng tự nhiên trong phạm vi của
một hình thái xã hội xác định.

Như vậy, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được thực hiện thông
qua lực lượng sản xuất, hay lực lượng sản xuất là biểu hiện sự chinh phục tự
nhiên của con người. Điều này có nghĩa là: sự tác động của con người vào tự


6

nhiên tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của con người mà biểu hiện trực tiếp là
trình độ phát triển của khoa học công nghệ, của lực lượng sản xuất ở mỗi thời
đại lịch sử, nó gắn liền với những hình thức tác động cải tạo sâu sắc, toàn diện
hơn của xã hội với tự nhiên.
Nếu như sự tác động của tự nhiên vào xã hội mang tính chất tự phát, thì
xã hội tác động vào tự nhiên là sự tác động có ý thức. Sự tác động của con
người vào tự nhiên có thể diễn ra theo hai chiều hướng: nếu đúng qui luật thì
làm cho tự nhiên ngày càng phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất
và đời sống của con người; ngược lại, tác động không đúng qui luật sẽ làm
cho tự nhiên ngày càng nghèo nàn kiệt quệ, sự cân bằng sinh thái sẽ bị phá vỡ
và tự nhiên sẽ "trả thù" con người. Ph.Ăngghen: "sự nhắc nhở chúng ta từng
giờ, từng phút rằng chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như
một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự
nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc
chúng ta, là thuộc vào giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng tự nhiên, và tất
cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả
sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể
sử dụng được những qui luật đó một cách chính xác" 1.
Việc nhận thức qui luật của giới tự nhiên và sử dụng những qui luật đó
một cách có hiệu quả để đảm bảo sự cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội
không thể tách rời khỏi việc nhận thức qui luật và sử dụng những qui luật xã
hội. Đây vừa là tiền đề, vừa là từng bước thực hiện việc điều khiển một cách
có ý thức mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên. Chỉ có nắm vững các qui luật

của xã hội và triệt để vận dụng nó, con người mới xác định đúng đắn mục
đích của quá trình sản xuất và mới có ý thức tự giác lựa chọn những công cụ,
phương tiện hợp lý để thực hiện mục đích đó, đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của toàn xã hội trong mối quan hệ hài hoà tự nhiên - xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, con người không chỉ coi tự nhiên như môi
trường sống, như kho tài nguyên mà chủ yếu coi như đối tượng để khai thác
vơ vét nhằm thu lợi nhuận tối đa. Mối quan hệ "dã thú" của con người với đối
tượng tự nhiên đã đưa lại những hậu quả khôn lường. Khủng hoảng sinh thái
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG,H,1993, Tập 20, Tr 655.


7

đe doạ nhân loại, đe doạ sự sống của cả hành tinh. Như vậy, con người "làm
chủ tự nhiên" không phải bất chấp qui luật của tự nhiên mà phải nhận thức để
vận dụng đúng và có hiệu quả qui luật đó. Sự "thống trị" của con người với tự
nhiên có thể thu được kết quả nào đó bằng cách vi phạm các qui luật thì kết
quả đó chỉ là thành công tạm thời, tổn thất sẽ là rất to lớn đối với cả tự nhiên
và con người. Do đó, con người vừa khai thác vừa phải bảo vệ tự nhiên. Đảng
ta nhấn mạnh: "Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý và
tiết kiệm; xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về phục hồi môi trường
các khu khai thác khoáng sản và các hệ sinh thái đã bị xâm phạm, bảo đảm
cân bằng sinh thái"1.
Sự tác động của xã hội vào tự nhiên còn phụ thuộc vào trình độ nhận
thức của con người và vận dụng các qui luật trong hoạt động thực tiễn của
mình. Bởi vì, trình độ chinh phục tự nhiên nói lên trình độ nhận thức của con
người, trình độ nhận thức của con người ngày càng phát triển kéo theo sự tác
động của xã hội đối với tự nhiên cũng có sự biến chuyển.

Tuy nhiên, nếu chỉ thay đổi nhận thức không thôi thì chưa đủ. Bởi vì,
"những quan hệ nhất định đó với tự nhiên, là do hình thức của xã hội quyết
định", nghĩa là tính chất của mối quan hệ lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên
trước hết phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, vào chế độ xã hội, vào tính chất
của những điều kiện chính trị và kinh tế - xã hội mà trong đó con người sống
và hoạt động. Như vậy, chế độ xã hội qui định tính chất mục tiêu, phương
hướng của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên, ở mỗi chế độ
chính trị - xã hội khác nhau có sự tác động vào tự nhiên khác nhau. Chủ
nghĩa tư bản trong quá trình phát triển lâu dài bằng sự kết hợp giữa sở hữu
tư nhân tư bản với quá trình công nghiệp hoá, đã tập trung vơ vét, khai thác
đến mức tối đa không chỉ sức lao động của con người, mà cả những nguồn
tài nguyên thiên nhiên và môi trường nhằm thu được lợi nhuận cao nhất,
nhanh nhất cho sự phát triển kinh tế, là nguyên nhân cơ bản của những mâu
thuẫn giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Chủ
nghĩa xã hội là "sự giải quyết thực sự mâu thuẫn giữa con người với tự
nhiên, giữa con người và con người" 2. Chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, con
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,H,2006, Tr 223.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG,H,2000, Tập 42, Tr167.


8

người mới được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, mới được hành động tự
do, theo cái nghĩa là con người sẽ có đầy đủ các điều kiện xã hội và những
tri thức cần thiết để nắm bắt các qui luật của tự nhiên, lẫn những qui luật xã
hội và biết tự giác sống và tuân theo những qui luật đó... Vì vậy, tiến lên chủ
nghĩa cộng sản chính là tiến đến xây dựng mối quan hệ công bằng, bình

đẳng thật sự giữa con người với tự nhiên.
Mặt khác, sự tác động của xã hội đối với tự nhiên, không chỉ đòi hỏi
phải biết sử dụng các thành tựu khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa
học nhân văn, mà còn phải có sự hợp tác hợp lý của các quốc gia trên thế giới.
Đảng ta đã nhấn mạnh: "mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về bảo vệ môi
trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên" 1.
2.3. Tự nhiên và hoạt động quân sự

Hoạt động quân sự là một mặt của hoạt động xã hội cho nên hoạt động
quân sự cũng chịu sự chi phối của các yếu tố tự nhiên. Tuy nhiên trong quá
trình phát triển của lịch sử xã hội, hoạt động quân sự có tác động rất lớn đến
môi trường tự nhiên và ngược lại.
Tự nhiên có vai trò quan trọng trong hoạt động quân sự, là yếu tố tác
động mạnh đến hoạt động quân sự, tuy tự nhiên không phải là yếu tố suy đến
cùng việc thành hoặc bại của một cuộc chiến tranh nhưng nó có thể tạo điều
kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho cuộc chiến tranh đó.
Điều kiện tự nhiên, trước hết là hoàn cảnh địa lý đã ảnh hưởng đến việc
hình thành phương án tác chiến việc sử dụng vũ khí, phương tiện quân sự và
bố trí địa hình. Bởi vì, điều kiện tự nhiên là lực lượng dự trữ nguyên liệu
chiến lược phục vụ cho quốc phòng có vai trò to lớn trong xây dựng tiềm lực
sức mạnh quân sự, của mỗi quốc gia, có ý nghĩa quyết định đến khả năng cơ
động của lực lượng vũ trang và tác động rất lớn đến sức sống của nền kinh tế.
Đồng thời địa bàn hoạt động quân sự qui định việc bố trí chiến dịch, chiến
thuật, việc sử dụng cũng như khả năng phát huy công lực của các loại vũ khí
trang bị, phương tiện chiến tranh của mỗi bên tham chiến. Do đó, trong hoạt
động quân sự, người chỉ huy giỏi phải đánh giá được điều kiện tự nhiên, lợi
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, Tr223.



9

dụng tự nhiên xây dựng kế hoạch tác chiến hợp lý, mới nâng cao được hiệu
quả của hoạt động quân sự, tăng khả năng giành thắng lợi trong chiến tranh.
Tự nhiên có mối quan hệ khách quan, tồn tại cùng với sự phát triển của
xã hội loài người. Cho nên hoạt động quân sự bao giờ cũng gắn liền với điều
kiện tự nhiên nhất định và đó cũng là yếu tố hết sức quan trọng của hoạt động
quân sự, nhưng bao hàm cả những yếu tố thuận lợi hoặc khó khăn để khai
thác giành được triệt để ưu thế trên chiến trường, đó là một nghệ thuật hết sức
quan trọng của cán bộ chỉ huy các cấp.
Hoạt động quân sự không những chịu ảnh hưởng quan trọng của môi
trường tự nhiên, mặt khác nó tác động to lớn trở lại môi trường tự nhiên. Vì
vậy, trong lịch sử cũng đã có những quan niệm trái ngược nhau đối với loại
hoạt động đặc biệt này - hoạt động quân sự. Đó là những tư tưởng đề cao hoạt
động quân sự và chiến tranh coi đó như một phương thức tuyệt vời để giải
quyết những mâu thuẫn xã hội. Trái lại một số quan điểm lại phản đối chiến
tranh dù cuộc chiến tranh đó mang tính chất chính nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm duy vật biện chứng trong xem
xét mối quan hệ giữa hoạt động quân sự với môi trường tự nhiên đã cho rằng:
Hoạt động quân sự (đặc biệt là chiến tranh) gây tác động đến tự nhiên, tàn phá
huỷ hoại môi trường gây hậu quả rất lớn thậm chí kéo dài trong lịch sử. Tuy
nhiên xét về ý thức chính trị xã hội của hoạt động quân sự cần thấy sự tác
động đến môi trường tự nhiên đều diễn ra theo hai chiều hướng:
Thứ nhất: đối với hoạt động quân sự (các cuộc chiến tranh) do giai cấp
thống trị lỗi thời, các lực lượng phản cách mạng tiến hành vì lợi ích của các
giai cấp bóc lột, là thủ phạm chính gây tàn phá môi trường tự nhiên, tàn phá
môi trường sống của con người. Đó chính là hậu quả mà các cuộc chiến tranh
bẩn thỉu vì mục đích nô dịch áp bức bóc lột của giai cấp thống trị phản động
trong lịch sử gây ra (ví dụ: chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế

giới thứ hai và hàng trăm ngàn cuộc chiến trong lịch sử nhân loại).
Thứ hai: đối với hoạt động quân sự (các cuộc chiến tranh) của nhân dân
các nước, các lực lượng cách mạng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ, mặc dù
trong những chừng mực nhất định để tiến hành chiến tranh tự bảo vệ mình và
nhằm đập tan các lực lượng phản cách mạng ngăn ngừa chiến tranh, đều có


10

tác động nhất định đến môi trường. Nhưng xét đến cùng thì sự tác động của
nó là mang ý thức chính trị xã hội tích cực. Bởi vì, thông qua hoạt động đó
mà chiến tranh được ngăn chặn giảm bớt và nhất định loài người sẽ loại bỏ
chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Đó là cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phản đối với
chiến tranh phi nghĩa, các hoạt động chạy đua vũ trang trên thế giới, đồng thời
ủng hộ các cuộc chiến tranh chính nghĩa cách mạng, bảo vệ hoà bình. Mặt
khác các giai cấp, lực lượng cách mạng trong khi chuẩn bị và thực hành các
hoạt động quân sự phải quan tâm bảo vệ môi trường giảm thiểu đến mức thấp
nhất sự tác động xấu đến môi trường sinh thái do hoạt động quân sự gây ra.
Tóm lại, mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội là mối quan
hệ khách quan vốn có xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Thực chất của mối quan hệ này vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau,
đó là động lực thúc đẩy cho tự nhiên và xã hội phát triển.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÃ HỘI VÀ TỰ NHIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

3.1. Vấn đề môi trường sinh thái

Sinh thái là phương hướng khoa học tổng hợp, nghiên cứu các qui luật

tác động qua lại giữa hữu sinh với điều kiện ngoại cảnh của chúng nhằm duy
trì sự cân bằng động của hệ thống "xã hội - tự nhiên".
Môi trường sống của con người không đơn giản chỉ là môi trường địa
lý, các điều kiện địa lý như trước đây đã từng quan niệm, cũng không phải
môi trường tự nhiên thuần tuý, mà phải là môi trường tự nhiên - xã hội hay
môi trường "tự nhiên người hoá", bởi vì, con người là một thực thể thống nhất
sinh học - xã hội hay một động vật xã hội. Ngày nay môi trường sống của con
người và xã hội thường được gọi là môi trường sinh thái.
Vấn đề môi trường sinh thái là một trong những vấn đề cấp bách toàn
cầu và khó giải quyết nhất trong thời đại ngày nay. Hiện nay, môi trường sinh
thái đang nổi lên nhiều vấn đề căng thẳng, phức tạp và cấp thiết, có liên quan
trực tiếp không chỉ đến sự sống của sinh vật mà còn đe dọa đến sự sống của
con người, sự tồn tại của xã hội loài người. Trước hết là sự khan hiếm và cạn


11

kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cả tái tạo được lẫn không tái tạo
được như: đất, nước, rừng, động - thực vật, các loài tài nguyên khoáng sản,
các kim loại quí hiếm, vật liệu xây dựng… nền sản xuất xã hội đã tiêu tốn một
khối lượng khổng lồ các nguồn tài nguyên tự nhiên với một hiệu quả kinh tế
rất thấp so với những gì mà tự nhiên đã mất đi, và với một hiệu quả sinh thái
tai hại đã dẫn đến nạn ô nhiễm nặng nề môi trường sống. Các hiện tượng
"hiệu ứng nhà kính", "lỗ thủng tầng ôzôn", mưa axít, sự tăng lên nhiệt độ toàn
cầu, sa mạc hoá, sự thu hẹp diện tích đất canh tác do bị xói mòn, sự biến khỏi
trái đất nhiều loài động, thực vật… là những bằng chứng về sự phá hoại tự
nhiên của con người, và đó cũng chính là hậu quả tất yếu của một nền sản
xuất và một lối sống phi sinh thái, suy đến cùng là phi nhân tính. Bởi vì, tất cả
những hậu quả tiêu cực do nền sản xuất xã hội mang lại cho tự nhiên đó cũng
làm suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng môi trường sống, đã gây ra những

cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu, đe dọa toàn bộ sự sống trên hành tinh
chúng ta, trong đó có con người và xã hội loài người.
Ở Việt Nam trải qua hàng ngàn năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới, nhất là trên 30 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược, môi trường tự nhiên
bị tàn phá nghiêm trọng. Hàng trăm km 2 rừng bị tàn phá, đất canh tác bị chất
độc hoá học và bom đạn của chiến tranh xâm lược huỷ diệt. Sau chiến tranh,
hoà bình phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên ở nước ta cũng chưa được coi
trọng đúng mức, 40 năm qua đã mất đi 1/2 diện tích rừng. Việc xây dựng các
khu công nghiệp và khai thác các tài nguyên thiếu quy hoạch, việc khai thác
và săn bắt thú rừng, hải sản một cách bừa bãi không được ngăn chặn một cách
tích cực bằng tuyên truyền giáo dục, bằng các biện pháp hành chính và pháp
luật, bằng các chính sách phù hợp. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước và
không khí cũng như những vùng khí hậu bất bình thường của những vùng khí
hậu nhất định đang đặt trước chúng ta những khả năng thực sự của quá trình
mất cân bằng sinh thái. Đại hội Đảng X chủ trương: "áp dụng các biện pháp
mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi huỷ hoại hoặc gây ô nhiễm môi trường,
từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp cải thiện chất lượng môi trường,


12

đặc biệt tập trung nạn cháy rừng, ô nhiễm các lưu vực sông, các đô thị và khu
công nghiệp, các làng nghề nơi có đông dân cư và nhiều hoạt động kinh tế”1.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng môi trường sinh thái
hiện nay. Trước hết là do sự tác động vô ý thức, do sự hạn chế về mặt tri thức
khoa học và công nghệ của con người trong lĩnh vực tác động qua lại giữa xã
hội và tự nhiên. Nhưng nguyên nhân quan trọng, cơ bản và sâu xa nhất của
tình trạng khủng hoảng môi trường sinh thái hiện nay là thuộc về chế độ xã
hội. Chủ nghĩa tư bản với mục đích và lợi nhuận tối đa, các tập đoàn tư bản
chỉ thấy mặt kinh tế - kỹ thuật mà không thấy hoặc cố tình che dấu mặt chính

trị, xã hội của vấn đề sinh thái.
Ngày nay vấn đề sinh thái mang tính chất toàn cầu đòi hỏi con người
phải có tư duy mới - ý thức sinh thái học. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào
những hoạt động tự giác của con người trong bước đường phát triển tiếp tục, vì
chỉ có con người là nhân tố duy nhất có ý thức trong hệ thống tự nhiên - xã hội.
3.2. Vấn đề dân số

Cùng với vấn đề sinh thái, vấn đề dân số hết sức cấp bách và khó khăn
mang tính toàn cầu, sự biến đổi của dân số phản ánh sự biến đổi cách này hay
cách khác tiến trình của sự biến đổi xã hội. Sự biến đổi ấy tác động đến tình
trạng dân số, đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật chung của sự
vận hành dân số phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở xã hội và trình độ
phát triển của khoa học, y học nói chung.
Dân số là điều kiện thường xuyên tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển
xã hội. Dân số là số lượng người làm ăn, sinh sống trong một vùng lãnh thổ
nhất định nào đó: một quốc gia, một địa phương. Vấn đề dân số bao gồm
nhiều mặt như số lượng, sự phân bố dân cư theo lãnh thổ…
Vai trò của yếu tố dân số đối với sự phát triển xã hội được thể hiện trên
hai bình diện: số lượng và chất lượng, song chúng không như nhau trong mọi
thời đại mà có tính lịch sử cụ thể. Bất kỳ một xã hội nào cũng vẫn có một số
lượng dân cư nhất định mới đảm bảo lực lượng lao động, nguồn nhân lực để
tiến hành tổ chức phân công và chuyên môn hoá lao động xã hội, để khai thác
các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất và tái sản xuất mở
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,H,2006, Tr222.


13


rộng. Sức mạnh về số lượng của dân số chỉ được phát huy mạnh mẽ khi trình
độ phát triển của xã hội còn thấp. Cùng với sự phát triển của phương thức sản
xuất, mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa số lượng dân cư và các điều kiện thuận lợi
của môi trường tự nhiên với sự phát triển của xã hội không còn nữa, nghĩa là
đến một giai đoạn lịch sử nhất định, sức mạnh về số lượng của dân số không
còn giữ vai trò quan trọng hay quyết định. Thậm chí, dân số phát triển quá
nhanh đã dẫn đến sự bùng nổ dân số, đặc biệt là những nước chậm phát triển
(trong khi đó sự phát triển lực lượng sản xuất không đáp ứng kịp), đã trở
thành vấn đề cấp bách toàn cầu hiện nay. Tốc độ tăng dân số quá nhanh tạo
nên áp lực về đời sống và việc làm cản trở việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội và nâng cao mức sống của nhân dân. Đảng ta và Nhà nước ta coi việc
giảm tốc độ tăng dân số là quốc sách, là trách nhiệm chung của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta. Mặt khác, bên cạnh việc giữ tỉ lệ gia tăng dân số
hợp lý, muốn bảo đảm sự phát triển lâu bền của tự nhiên và xã hội, còn cần
phải có chính sách bố trí hợp lý dân cư và nhất là tăng cường chất lượng dân
cư. Xã hội sẽ không phát triển được, nếu môi trường tự nhiên vốn là nơi nuôi
dưỡng con người bị tàn phá bởi chính con người, nếu chất lượng dân cư
không được nâng cao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Đại hội
Đảng lần thứ X đã nêu rõ: “tiếp tục giảm tốc độ gia tăng dân số, sớm ổn định
qui mô dân số ở mức hợp lý. Giải quyết đồng bộ từng bước và có trọng điểm
chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư”1.
Như vậy, vấn đề dân số là vấn đề mang tính chất toàn cầu, có liên quan
đến tất cả các quốc gia, dân tộc, và để giải quyết nó cần phải có sự hợp tác
của cả cộng đồng quốc tế, đặc biệt là cần phải nhận thức đúng và giải quyết
tốt mối quan hệ biện chứng với vấn đề tự nhiên.
3.3. Vấn đề chiến tranh

Chiến tranh và hoạt động quân sự là những hoạt động tàn phá môi
trường tự nhiên nhiều nhất và trực tiếp nhất. Chiến tranh một mặt phá vỡ
những giá trị của đời sống xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp tiêu diệt sự sống còn

của chính con người, mặt khác làm tổn hại tự nhiên, phá vỡ cân bằng sinh
thái. Bởi vì, chiến tranh diễn ra dưới hình thức nào, với phương tiện nào cũng
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,H,2006, Tr210.


14

đều gây ảnh hưởng to lớn đối với tự nhiên và xã hội, nhất là nguy cơ xảy ra
các cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí hạt nhân. Do đó, cần phải tích cực đấu
tranh ngăn ngừa và tiến tới loại bỏ nguy cơ chiến tranh. Không có con đường
nào khác là xoá bỏ hoàn toàn xã hội có giai cấp, xoá bỏ tận gốc chủ nghĩa tư
bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Hậu quả mà chiến tranh gây ra là tàn phá trên tất cả mọi mặt của đời
sống xã hội. Do đó, việc ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, loại trừ vũ khí
hạt nhân, vũ khí sinh học và các phương tiện chiến tranh hiện đại khác giết
người hàng loạt là nhiệm vụ của nhân dân toàn thế giới.
Tóm lại, tự nhiên và xã hội có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại
lẫn nhau, xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên và có vai trò to lớn đối
với tự nhiên và ngược lại, các vấn đề như môi trường sinh thái, dân số và
chiến tranh tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Nghiên cứu và nắm được quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội, cho chúng ta thấy được vai trò và
tầm quan trọng của tự nhiên cũng như xã hội đối với việc phát triển đất nước
của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, đó là cơ sở để Đảng ta
hoạch định đường lối phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh, quốc phòng cho
đất nước. Đặc biệt là, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái tuyệt đối hoá
vai trò của tự nhiên hoặc của xã hội. Trong đó thuyết định luận địa lý cường
điệu yếu tố môi trường địa lý, không thấy hết vai trò của tự nhiên, đi đến phủ

nhận vai trò biến đổi hoàn cảnh của con người. Tuy nhiên, con người muốn
cải tạo tự nhiên, muốn tự nhiên ngày càng phục vụ mình nhiều hơn thì cũng
cần nắm vững các quy luật của tự nhiên giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa
tự nhiên và xã hội.


15
KẾT LUẬN

Tự nhiên và xã hội là vấn đề quan trọng của triết học Mác Lênin. Tự
nhiên có vai trò to lớn đối với xã hội, ngược lại xã hội có tác động to lớn trở
lại đối với tự nhiên. Trong đó hoạt động của xã hội loài người là quá trình
"trao đổi chất" thường xuyên giữa con người và tự nhiên. Con người sống
bằng giới tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Sự thay đổi
tính chất, mục đích, phương hướng, quy mô hoạt động của con người là cơ sở
của sự thay đổi mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên. Hoạt động thực tiễn của
con người càng rộng thì quy mô can thiệp của con người vào tự nhiên ngày
càng lớn. Do đó, con người tác động vào tự nhiên cần phải nhận thức và vận
dụng đúng các quy luật của tự nhiên, để tự nhiên không những mang lại cho
con người nguồn lợi to lớn mà còn nhằm duy trì sự thăng bằng của hệ thống
xã hội - tự nhiên.
Trong hoạt động quân sự, người cán bộ phân đội phải thường xuyên
giáo dục bộ đội nêu cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái và vận động nhân
dân thực hiện tốt các qui định của pháp luật nhà nước về bảo vệ môi trường
sinh thái. Đấu tranh chống mọi biểu hiện sai trái, vì lợi ích cá nhân mà khai
thác tự nhiên bừa bãi gây tàn phá môi trường.




×