Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ sản XUẤT HÀNG hóa và các QUY LUẬT KINH tế của sản XUẤT HÀNG hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.83 KB, 17 trang )

2
SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG
HÓA

LỜI NÓI ĐẦU

Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó những người sản
xuất ra sản phẩm để bán trên thị trường. Trong lịch sử, không phải ngay từ
khi loài người xuất hiện đã có sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá chỉ xuất
hiện, tồn tại, phát triển trong một số phương thức sản xuất xã hội, gắn liền với
những điều kiện lịch sử nhất định. Nghiên cứu điều kiện ra đời của sản xuất
hàng hoá cũng như hàng hoá, tiền tệ và các quy luật kinh tế của nền sản xuất
hàng hoá là cơ sở nhận thức lý luận giá trị của C.Mác, một trong những học
thuyết rất quan trọng của Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Đồng thời, là cơ sở
lý luận để hiểu rõ nền sản xuất hàng hóa trong thực tiễn.

1. SẢN XUẤT HÀNG HOÁ VÀ QÚA TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA SẢN
XUẤT HÀNG HOÁ

1.1. Sản xuất hàng hoá và điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu
tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá.
Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm làm ra nhằm
thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra để
trao đổi hoặc bán trên thị trường. Quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất
được biểu hiện qua thị trường, qua việc mua, bán sản phẩm lao động của nhau.
Sản xuất hàng hoá là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại khi
đồng thời có hai điều kiện:
Một là, phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra


các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao
động và theo đó là chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác
nhau. Do có phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ sản xuất
ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại có
nhu cầu rất nhiều loại sản phẩm khác nhau, để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi cần


3
có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau. Tuy nhiên, phân công lao động mới
tạo ra điều kiện cần nhưng chưa đủ yếu tố cho trao đổi hàng hoá. C.Mác đã
chứng minh rằng, trong công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ, đã có sự phân công lao
động khá chi tiết, nhưng các sản phẩm của lao động không trở thành hàng
hoá. Bởi vì, tư liệu sản xuất là của chung, sản phẩm làm ra là của chung, do
đó công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng, vì thế trao đổi sản phẩm chưa thể thực hiện được. Như vậy, phân công
lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần cho sự trao đổi hàng hoá, mà chưa
thể thực hiện trao đổi hàng hoá. Muốn trao đổi hàng hoá được thực hiện và
sản xuất hàng hoá ra đời phải có điều kiện thứ hai.
Hai là, Có chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất.
Chính chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, sản phẩm họ sản
xuất ra cũng như lợi ích kinh tế mang tính chất là lao động tư nhân, làm cho
sản xuất và tái sản xuất của họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Và họ có
quyền chi phối sản phẩm của mình làm ra. Trong điều kiện như vậy, khi
muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau họ phải thông qua mua – bán sản phẩm,
có nghĩa trao đổi dưới hình thái hàng hoá.
Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội tạo ra mối liên
hệ giữa những người sản xuất hàng hoá và lao động của họ mang tính chất là
lao động xã hội; chế độ tư hữu hoặc các hình thức khác nhau về tư liệu sản

xuất thì tạo nên sự biệt lập tương đối giữa những người sản xuất hàng hoá và
lao động của họ mang tính chất lao động tư nhân. Mâu thuẫn này chỉ được
giải quyết khi sản phẩm được trao đổi dưới hình thức hàng hoá. Sản xuất hàng
hoá ra đời, tồn tại và phát triển khi đồng thời có hai điều kiện trên.
1.2. Quá trình phát triển của sản xuất hàng hoá

Lịch sử phát triển sản xuất xã hội là từ sản xuất tự cấp, tự túc tiến lên
sản xuất hàng hoá (hay từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá). So với nền
sản xuất tự cấp, tự túc, sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn: làm cho
sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng,
mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển của


4
sản xuất hàng hoá đã xoá bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh
quá trình xã hội hoá sản xuất.
Sản xuất hàng hoá từ khi ra đời đến nay trải qua các giai đoạn: sản xuất
hàng hoá giản đơn; sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa; sản xuất hàng hoá
dưới chủ nghĩa xã hội.
Sản xuất hàng hoá giản đơn (bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ xã hội
cộng sản nguyên thuỷ tan rã và tồn tại trong phương thức sản xuất chiếm hữu
nô lệ và phong kiến), là sản xuất hàng hoá của nông dân, thợ thủ công dựa
trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
giản đơn: về kinh tế - xã hội, sản xuất dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu
sản xuất và lao động cá nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ; về kinh
tế - kỹ thuật, quy mô sản xuất nhỏ, công cụ và kỹ thuật giản đơn, thủ công,
năng suất lao động thấp.
Sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa là sản xuất của các nhà tư bản với
mục đích làm giàu bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Đặc trưng kinh tế xã hội, Sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu của các
nhà tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Đặc trưng kinh tế

- kỹ thuật, là nền sản xuất lớn đại công nghiệp cơ khí máy móc, năng suất lao
động xã hội cao.
Đến chế độ xã hội chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại, phát triển
với những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, là nền sản xuất đại công nghiệp, quy
mô lớn, công cụ sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, năng suất lao động
cao. Về mặt kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa dựa trên chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, mục đích sản xuất thoả mãn nhu
cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sản xuất hàng hoá còn tồn tại lâu dài và phát
huy tác dụng nâng cao đời sống nhân dân, xấy dưng chủ nghĩa xã hội. vì vậy
cần nhận thực rõ và có những chủ trương, chính cách kinh tế đúng đắn thúc
đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
2. HÀNG HOÁ

2.1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá

Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi mua - bán.


5
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, tồn tại dưới 2 dạng: dạng vật thể,
như: áo, quần, giày, dép, bàn, ghế… và dạng phi vật thể: như chất xám, dịch
vụ, phát minh, sáng chế…).
Hàng hóa có hai thuộc tính:
- Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu
nào đó của con người.
Mỗi hàng hóa đều có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của con người. Có thể là nhu cầu tiêu dùng cá nhân
như lương thực, thực phẩm để ăn; áo, quần để mặc; xe để đi lại… cũng có thể

là nhu cầu cho sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu; nhu cầu vật
chất hoặc nhu cầu tinh thần…
Bất cứ một vật phẩm nào cũng có một hoặc một số công dụng nhất
định. Chính công dụng của vật phẩm làm cho nó trở thành một giá trị sử
dụng. Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá quy
định, vì vậy giá trị sử dụng của hàng hoá là một phạm trù vĩnh viễn. C.Mác
viết: Giá trị sử dụng cấu thành cái nội dung vật chất của của cải, chẳng kể
hình thái xã hội của cái đó như thế nào.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được con người phát hiện dần dần cùng
với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và trình độ lực lượng sản xuất. Ví dụ,
than đá ngày xưa chỉ dùng làm chất đốt, về sau được dùng làm nguyên liệu
cho một số công nghiệp hoá chất… gỗ không chỉ để làm củi mà còn là nguyên
liệu làm giấy, làm bàn ghế, giường tủ… xã hội càng phát triển, khoa học càng
tiến bộ, lực lượng sản xuất và phân công lao động phát triển thì số lượng giá
trị sử dụng càng nhiều, chủng loại càng phong phú, đa dạng, chất lượng càng
cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho cuộc sống của con người. Giá trị sử dụng
không phải cho bản thân người sản xuất ra hàng hoá mà là cho người khác,
cho xã hội. Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc tiêu dùng nó thông
qua trao đổi. Trong nền kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật
mang giá trị trao đổi.
- Giá trị hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá.


6
Muốn hiểu được giá trị hàng hoá phải nghiên cứu hiểu rõ giá trị trao đổi.
Bởi vì, giá trị sử dụng của hàng hoá là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là
quan hệ về số lượng, một tỷ lệ trao đổi giữa những giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 1 m vải = 5 kg thóc. Trong tỷ lệ đó, số lượng những hàng hóa
trao đổi với nhau, giá trị trao đổi của hàng hoá được biểu hiện ra.

Sở dĩ hai hàng hoá có công dụng khác nhau có thể trao đổi được cho nhau
theo tỷ lệ nhất định, vì chúng đều là sản phẩm của lao động. Thực chất của trao
đổi hàng hoá cho nhau là trao đổi lao động ẩn giấu trong các hàng hoá ấy.
Ví dụ: Người thợ dệt mất 2 giờ để sản xuất ra 1m vải. Người nông dân
mất 2 giờ để sản xuất ra 5kg thóc; 1m vải có thể trao đổi với 5kg thóc chẳng
qua là trao đổi 2 giờ lao động làm ra vải với 2 giờ lao động làm ra thóc.
Như vậy, lao động hao phí của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá là cơ sở chung của việc trao đổi, được gọi là giá trị hàng hoá. Giá trị
là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức
biểu hiện của giá trị. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hoá, là một phạm trù lịch sử, gắn liền với kinh tế hàng
hoá. Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính cùng
tồn tại và thống nhất với nhau ở một hàng hoá. Người sản xuất làm ra hàng
hoá để bán, nên mục đích của họ là giá trị chứ không phải là giá trị sử dụng,
trong tay họ có giá trị sử dụng, nhưng cái họ quan tâm là giá trị. Để đạt được
mục đích đó, họ phải chú ý đến giá trị sử dụng. Ngược lại người mua, mục
đích của họ là giá trị sử dụng, song để có giá trị sử dụng, họ phải trả giá trị
cho người sản xuất ra nó. Tức là thực hiện được giá trị của hàng hoá thì mới
chi phối được giá trị sử dụng. Do vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng thì
phải thực hiện giá trị của nó; nếu không thực hiện được giá trị thì sẽ không
thực hiện được giá trị sử dụng.
2.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuât hàng hoá

Hàng hoá có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, là do lao động sản xuất
hàng hoá có tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là
người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
- Lao động cụ thể, là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
ngành nghề chuyên môn nhất định. Ví dụ, lao động cụ thể của người thợ mộc, thợ
may, thợ dệt, thợ cơ khí… Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng, công cụ,



7
phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng. Chẳng hạn, lao động của người
nông dân có mục đích là tạo ra lúa gạo để ăn, đối tượng lao động là đất, giống,
phân…công cụ là cày, bừa… phương pháp là cày xới, gieo hạt, bón phân.
Mỗi Lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ
thể càng nhiều thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng. Lao động cụ thể tồn
tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất xã hội. Khoa học kỹ thuật, phân
công lao động xã hội càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng
phong phú và đa dạng.
- Lao động trừu tượng, là sự hao phí sức lao động, tiêu hao thần kinh,
cơ bắp của người sản xuất hàng hoá. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng
hoá. Lao động trừu tượng nói ở đây không phải là sự tiêu hao sức lực của con
người nói chung, mà là tiêu phí sức lực của người sản xuất hàng hoá. Chỉ có
lao động sản xuất hàng hoá mới có tính chất là lao động trừu tượng.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất háng hoá có ý
nghĩa rất to lớn, đem lại cho lý luận giá trị lao động một cơ sở khoa học thực
sự, đã giải thích được những hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự
vận động trái ngược: Khối lượng của cải vật chất càng tăng lên, đi liền với
khối lượng giá trị của nó giảm xuống hoặc không thay đổi.
Trong nền sản xuất hàng hoá, lao động cụ thể biểu hiện thành lao động
tư nhân, lao động trừu tượng biểu hiện thành lao động xã hội. Tính chất tư
nhân và tính xã hội trong quá trình lao động là hai mặt thống nhất, nhưng
đồng thời cũng luôn mâu thuẫn với nhau; mâu thuẫn đó được biểu hiện thành
mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn này chỉ được
giải quyết khi lao động sản xuất hàng hoá hợp với nhu cầu xã hội, Giá trị
hàng hoá được thực hiện qua trao đổi.
2.3. Lượng giá trị hàng hoá

Lượng giá trị hàng hoá là lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất ra

hàng hoá, được đo bằng thời gian lao động.
Khi trao đổi, một loại hàng hoá nào đó do nhiều người sản xuất với thời
gian lao động cá biệt khác nhau nên giá trị xã hội của hàng hoá ấy được tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Thời gian
lao động xã hội cần thiết là thời gian để sản xuất ra một hàng hoá trong điều


8
kiện sản xuất trung bình, trình độ kỹ thuật trung bình, cường độ lao động
trung bình trong xã hội.
Lượng giá trị hàng hoá luôn thay đổi, do thời gian lao động xã hội cần
thiết không cố định và chịu sự tác động của năng suất lao động và tính chất
của lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động
được đo bằng số lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay lượng
thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng
tăng thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị
của một đơn vị sản phẩm càng ít và ngược lại. Lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng
suất lao động. Như vậy, muốn giảm giá trị mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta
phải tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, năng suất lao động phụ thuộc vào
trình độ, phương tiện và cách tổ chức quản lý lao động …
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau
đối với lượng giá trị hàng hóa. Tăng cường độ lao động là tăng mức khẩn trương
của công việc làm cho hao phí lao động tăng lên dẫn đến tổng giá trị hàng hóa
tạo ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa không thay đổi. Bởi vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài
thời gian lao động tương ứng với một cường độ lao động trung bình.
Lượng giá trị hàng hóa phụ thuộc vào tính chất lao động, đó là tính giản
đơn hay phức tạp của lao động. Lao động giản đơn là loại lao động cụ thể mà
người bình thường có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là loại lao động cụ

thể đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao và được huấn luyện chuyên môn.
Trong cùng thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra lượng giá trị lớn
hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân
gấp bội lên. Quá trình trao đổi, để đảm bảo bình đẳng và công bằng người ta
quy giá trị lao động phức tạp thành bội số của giá trị lao động giản đơn.
C.Mác chỉ rõ: “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên luỹ
thừa, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử một lượng lao động phức
tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn”1.
3. TIỀN TỆ

3.1. Nguồn gốc, bản chất của tiền tệ
1

C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t20, tr.277.


9
C.Mác là người đầu tiên phát hiện bí mật nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
- Nguồn gốc của tiền tệ
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất
và trao đổi hàng hoá, các hình thái giá trị của hàng hoá từ hình thái giản đơn
đến hình thái đầy đủ nhất là tiền tệ.
Một là, hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
Hình thái này xuất hiện khi xã hội cộng đồng nguyên thuỷ tan rã, hàng
hoá sản xuất ra còn ít, quá trình trao đổi còn mang tính ngẫu nhiên và trực tiếp.
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc, hay 1m vải có giá trị bằng 5 kg thóc.
Ở đây, giá trị của hàng hoá vải được biểu hiện ở hàng hoá thóc làm
hình thái biểu hiện của vải. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá này trở
thành hình tức biểu hiện giá trị của hàng hoá kia. Hình thái giản đơn hay ngẫu
nhiên của giá trị là mầm mống phôi thai của hình thái tiền. Tuy nhiên, tỷ lệ

trao đổi chưa thể cố định, khi sản xuất hàng hoá phát triển thì hình thái này
không còn phù hợp nữa.
Hai là, hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
Lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn, năng
suất lao động tăng, sản phẩm thặng dư nhiều hơn, trao đổi trở nên thường
xuyên hơn và đều đặn hơn. Đòi hỏi một hàng hóa A có thể quan hệ với nhiều
hàng hóa khác, giá trị có hình thái đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ:
1m vải =
5kg thóc
hoặc
=
1 cái rìu
hoặc
=
2 con cừu hoặc
=
0,5 gr vàng hoặc
=

Giá trị của 1m vải được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều háng hoá
khác: thóc, rìu, cừu, vàng có tác dụng làm vật ngang giá. Hình thái này quá
trình trao đổi vẫn là trực tiếp giữa các loại hàng hoá, khi cần hàng hoá này
phải có hàng hoá khác để trao đổi, nên bất tiện.
Ba là, hình thái chung của giá trị
Lực lượng sản xuất và phân công lao động tiếp tục phát triển cao hơn
sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển mở rộng hơn nữa. Hình thái trao đổi
trực tiếp không còn thích hợp, gây trở ngại cho việc trao đổi. Bởi có thể nguời
có hàng hoá A cần hàng hoá B, nhưng người có hàng hoá B lại không cần



10
háng hoá A, mà cần hàng hoá C. Trong trường hợp này việc trao đổi giữa
hàng hoá A và B sẽ không thực hiện được. Khắc phục trở ngại trên, trong quá
trình trao đổi, đã xuất hiện một hàng hoá tách ra khỏi thế giới hàng hoá làm
vật ngang giá chung. Hình thái chung của giá trị ra đời.
Ví dụ:
1 m vải
hoặc 20 kg thóc
= 1 cái rìu
hoặc 1 con dê

Ở đây, các hàng hoá: vải, thóc, dê… đều biểu hiện giá trị của mình ở
giá trị sử dụng của một hàng hoá đóng vai trò làm vật ngang giá chung. Các
hàng hoá: vải, thóc, dê… đều đem đổi lấy rìu, rồi dùng rìu đổi lấy hàng hoá
mà mình cần. Tuy nhiên, lúc đầu mỗi địa phương, vùng chọn một vật ngang
giá chung khác nhau: có nơi dùng vàng, có nơi dùng súc vật, có nơi dùng rìu,
dùng da, lông thú, có nơi dùng bạc… làm cho quá trình trao đổi, giao lưu kinh
tế giữa các địa phương, các vùng không tiện lợi và gặp khó khăn.

Bốn là, hình thái tiền tệ.
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn
nữa, sản xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có
nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó
khăn, do đó, cần thiết phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi
vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật và phổ biến thì xuất hiện hình
thái tiền tệ của giá trị.
Ví dụ:
1 m vải
20 kg thóc

= 0,5 gr vàng (vàng trở thành tiền tệ)
1 con cừu

Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố
định ở kim loại quý: vàng và bạc, và cuối cùng là vàng. Bạc và vàng là những
hàng hoá có những đặc điểm thích hợp nhất với vai trò tiền tệ như đặc tính lý,
hoá: ít hao mòn, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, dễ bảo quản, với một lượng thể
tích nhỏ nhưng có giá trị cao.
Như vậy, tiền tệ xuất hiện là kết quả của sự giải quyết liên tục những mâu
thuẫn trong quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Tiền tệ


11
xuất hiện, thế giới hàng hoá phân làm hai cựu: một cực là những hàng hoá thông
thường, cực khác là hàng hoá đóng vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị.
- Bản chất của tiền tệ
Tiền lệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho
tất cả hàng hoá, nó thể hiện lao động xã hội và phản ánh mối quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hoá.
Với tính cách là hàng hoá thông thường, vàng cũng có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị vàng thể hiện ở chổ, nó được dùng làm
nguyên liệu cho các ngánh công nghiệp, làm đồ trang sức… Giá trị của vàng
cũng do lao động trừu tượng xã hội của người khai thác vàng, sản xuất vàng
kết tinh. Với vai trò là tiền tệ, vàng có giá trị sử dụng đặc biệt, là vật ngang
giá chung, đo lường giá trị của các hàng hoá khác. Từ đó nảy sinh tệ sùng bái
tiền, vì tiền được coi là có quyền lực vạn năng.
3.2. Chức năng tiền tệ và quy luật lưu thông tiền tệ

Trong điều kiện kinh tế hàng hoá phát triển cao, tiền tệ có năm chức năng.
- Thước đo giá trị, là chức năng cơ bản nhất của tiền tệ, tiền được dùng để

biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của hàng
hoá khác, bản thân tiền phải có giá trị. Vì vậy, tiền làm chức năng thước đo giá trị
phải là tiền vàng. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá.
Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.
- Phương tiện lưu thông, với chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm
môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Thực hiện chức năng này, lúc đầu
tiền xuất hiện trực tiếp dưới hình thức vàng thoi, bạc nén, dần dần được thay
thế bằng tiền đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất định. Trong quá
trình lưu thông tiền đúc mòn dần, mất một phần giá trị của nó. Nhưng trong
thực tế lưu thông, tiền đúc không đủ giá trị vẫn được chấp nhận làm phương
tiện lưu thông như thường lệ. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời tiền giấy. Bản
thân tiền giấy không có giá trị, mà chỉ là ký hiệu của giá trị. Nhà nước phát
hành và buộc xã hội công nhận. Vì vậy, thực hiện chức năng này tiền không
nhất thiết là tiền vàng mà có thể là ngân phiếu, tiền giấy…
Khi mua – bán xong thì hàng hoá ra khỏi lưu thông đi vào tiêu dùng,
còn tiền tệ đọng lại trong lưu thông làm chức năng phương tiện lưu thông. Do
đó, việc xác định lượng tiền trong lưu thông là rất quan trọng. C.Mác là người


12
đầu tiên phát hiện ra ba nhân tố quy định khối lượng tiền cần thiết trong lưu
thông. Đó là khối lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá và số vòng quay của đồng
tiền, được xác định bởi công thức sau.
M =

Trong đó:

P.Q
V


P: Giá cả của một đơn vị hàng hóa
Q: là khối lượng hàng hóa và dịch vụ đem ra lưu thông
M: là lượng tiền cần thiết trong lưu thông
V: Tốc độ lưu thông của tiền

Tiền với chức năng phương tiện lưu thông, làm cho việc lưu thông, trao
đổi hàng hoá trở nên thuận lợi, thúc đẩy sản xuất phát triển, song cũng chứa
đựng cả khả năng khủng hoảng.
- Phương tiện cất trữ, làm phương tiện cất trữ, tiền tạm thời rút khỏi lưu
thông đi vào cất trữ. Chỉ có tiền có đủ giá trị mới làm được chức năng cất trữ:
tiền vàng, bạc, khi cần thì quay trở vào lưu thông.
- Phương tiện thanh toán: thực hiện chức năng này, tiền dùng để chi trả
sau khi công việc giao dịch, mua – bán chịu đã hoàn thành, như: trả nợ, trả
tiền mua chịu hàng hoá, hoặc khi nộp thuế…
Khi tiền làm cả chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh
toán thì khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông sẽ là:
M=

PQ − ( PQb + PQk ) + PQd
V

Trong đó: M là khối lượng

tiền cần thiết cho lưu thông

PQ: là tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ đem lưu thông,
PQb là giá cả hàng hoá bán chịu,
PQk là tổng giá cả hàng hoá khấu trừ cho nhau,
PQd là tổng giá cả hàng hoá đến thời hạn thanh toán,
V là số vòng chu chuyển trung bình của đồng tiền.

Đây là quy luật lưu thông tiền tệ, có ý nghĩa chung cho mọi hình thái
kinh tế - xã hội có sản xuất và lưu thông hàng hoá.
- Tiền tệ thế giới, khi trao đổi hàng hoá mở rộng ra ngoài biên giới
quốc gia và hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước thì tiền tệ có chức


13
năng tiền tệ thế giới. Làm chức năng tiền tệ thế giới thì phải là tiền vàng hoặc
tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
Việc đổi tiền nước này ra tiền của nước khác được tiến hành theo tỷ giá hối đoái
– là giá cả đồng tiền của quốc gia này được tính bằng đồng tiền của quốc gia khác.
Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa có quan hệ mật
thiết với nhau. Sự phát triển của các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển
của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
4. CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

4.1 Quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng
hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại hoạt động và
phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
- Nội dung của quy luật giá trị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở
hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất
tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị hàng hóa
không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản
xuất, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng
hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải làm cho hao phí lao
động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận.
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội

cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, giá cả phải trên cơ sở
giá trị, những hàng hoá có giá trị bằng nhau thì có thể trao đổi được cho nhau.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng
hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả. Hàng hóa nào có giá trị nhiều thì giá cả của
nó càng cao. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc các nhân tố:
canh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. sự tác động của các nhân tố này
làm cho giá cả trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xung quanh trục
giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá
trị chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của
giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
- Tác dụng của quy luật giá trị
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.


14
Trong nền sản xuất hàng hoá thường xảy ra tình hình: người sản xuất
bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; quy mô sản xuất của ngành này mở
rộng, trong khi ở ngành khác lại thu hẹp, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao
động được phân bố lại giữa các ngành. Sự điều tiết này được hình thành một
cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường. Có thể thấy rõ
vai trò điều tiết của quy luật giá trị thông qua những trường hợp biến động
quan hệ cung - cầu xảy ra trên thị trường.
Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ thoả mãn nhu cầu xã hội,
giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy với lãi suất cao, sản
xuất ngành này mở rộng. Do tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển
dịch vào ngành ấy tăng lên.
Khi cung lớn hơn cầu, sẩn phẩm làm ra vượt quá nhu cầu xã hội, hàng hoá
bán không chạy, giá cả thấp hơn giá trị, có thể lỗ vốn. Buộc người sản xuất ở
ngành này thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu
sản xuất và sức lao động giảm đi và tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn.

Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị
trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng
hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi
cung nhỏ hơn cầu, làm cho nơi có giá cả thấp, giá cả sẽ tăng lên kích thích sản
xuất phát triển, đồng thời làm cho nơi có giá cả cao, cung nhỏ hơn cầu, lượng
hàng hoá tăng lên, giá cả nơi đó giảm xuống đời sống của người tiêu dùng
được nâng lên. Như vậy, quy luật giá trị có tác dụng phân phối lại hay điều
tiết luồng hàng trên thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường để phát huy tác dụng
điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá của quy luật giá trị, phải xây dựng hệ
thống thị trường thông suốt, đồng bộ. Nhận thức và quán triệt tinh thần ấy,
cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, Đảng ta đã chủ trương: xoá bỏ ngăn sông
cấm chợ, chia cắt thị trường, hình thành một thị trường thống nhất trong cả
nước thông suốt thị trường khu vực và thế giới. Trong xây dựng thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương: tạo lập đồng
bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Những quan điểm, chủ trương
đúng đắn phù hợp quy luật khách quan đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất và
lưu thông hàng hoá ở nước ta trong những năm qua phát triển.


15
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng
suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển
Do yêu cầu của quy luật giá trị, trao đổi phải trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết. Vì vậy, người sản xuất nào có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá
trị xã hội thì sản xuất mới có lãi, tiếp tục tồn tại, phát triển và ngược lại,
những đơn vị kinh tế nào có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì sản xuất sẽ
thua lỗ. Vì vậy, mọi người đều tìm cách cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng kỷ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, làm
tăng năng suất lao động.

Thứ ba,Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu - nghèo giữa
những người sản xuất hàng hoá.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết qủa là: Những
người nào tận dụng được lợi thế, sẽ giảm được lao động cá biệt thu được lãi
lớn thì trở thành người giàu. Ngược lại, những người không tận dụng được,
hoặc không có lợi thế sẽ không thu được lợi dẫn đến phá sản trở thành người
nghèo. Đầu cơ, lừa đảo, khủng hoảng kinh tế làm tăng thêm sự phân hóa này.
Tác dụng này của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt, lựa chọn tự
nhiên các nhân tố tích cực, bộ phận tiến bộ tài giỏi sản xuất kinh doanh; mặt
khác, đào thải các yếu kém, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra
sự bất bình đẳng trong xã hội. Do đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần phải có sự điều tiết để hạn chế tác động tiêu
cực từ mặt trái của quy luật giá trị. Trong những năm qua, Đảng và nhà nước
ta đã có những chủ trương chính sách: giải phóng sức sản xuất, đẩy mạnh xoá
đói giảm nghèo, giúp đỡ người nghèo thoát nghèo bằng nhiều hình thức (cho
vay vốn, đào tạo kỷ thuật, tạo công ăn việc làm…), Khuyến kích làm giàu
chính đáng… Nhằm hạn chế khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ở nước ta.
4.2. Quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh

- Quy luật cung - cầu
Trong nền kinh tế thị trường, cung - cầu là những lực lượng hoạt động
trên thị trường. Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng
mua trong một thời kỳ tương ướng với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế
xác định. Tiêu dùng gồm: tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Cung là
khối lượng hàng hoá, dịch vụ mà các chủ thể kinh tế đem bán ra trên thị


16
trường trong một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá, khả năng sản
xuất, chi phí sản xuất xác định.

Quan hệ giữa cung và cầu là quan hệ giữa những người bán và những
người mua, giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng. Là những quan
hệ có vai trò quan trọng trong kinh tế hàng hoá. Không chỉ giả cả ảnh hưởng đến
cung - cầu, mà quan hệ cung cầu cũng ảnh hưởng tới việc xác dịnh giá cả trên thị
trường. Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm giá, giá cả hàng hoá có thể
thấp hơn giá trị hàng hoá. khi cung nhỏ hơn cầu, người bán có thể tăng giá, giá cả
có thể cao hơn giá trị. Khi cung bằng cầu, người bán sẽ bán hàng hoá theo đúng
giá trị của hàng hoá. Tuy nhiên trạng thái cân bằng này chỉ là tạm thời, sự mất cân
đối giữa cung và cầu diễn ra thường xuyên. Bởi vì, cung và cầu luôn chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố, mà các nhân tố này luôn biến đổi.


17
- Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham
gia sản xuất, kinh doanh, nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất, kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để thu lợi ích tối đa cho mình.
Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận tối đa, bảo đảm sự tồn tại
và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh
tranh giữa người bán hoặc giữa người mua với nhau; cạnh tranh trong nội bộ
ngành, cạnh tranh giữa các ngành; cạnh tranh giữa người mua và người bán;
cạnh tranh trong giới hạn quốc gia và quốc tế.
Trong nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh có vai trò to lớn tạo cơ chế
điều chỉnh linh hoạt sản xuất và xã hội và do đó làm cho sự phân bố các
nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối ưu. Cạnh tranh buộc người sản xuất,
kinh doanh phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, nhạy
bén, năng động, tổ chức quản lý có hiệu quả… Người sản xuất nào có kỹ
thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do đó,
cạnh tranh là áp lực đối với người sản xuất, buộc họ phải cải tiến kỹ thuật,
nhờ đó kỹ thuật và công nghệ sản xuất của toàn xã hội được phát triển.

Cạnh tranh góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu.
Người sản xuất nào có năng suất, chất lượng, hiệu qủa cao sẽ có thu nhập cao;
đồng thời thông qua cạnh tranh nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng.
Cạnh tranh thường dẫn đến kết qủa mạnh được yếu thua, các chủ thể
kinh tế tích ứng với thị trường sẽ tồn tại và phát triển; ngược lại, các chủ thể
kinh tế nào không thích ứng được với thị trường sẽ bị đào thải.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những mặt hạn chế, thể hiện
ở cạnh tranh không lành mạnh như: dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức xã
hội hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây
tổn tại đến lợi ích của người khác, của tập thể, xã hội… làm hàng giả, buôn
lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền.
Đối với nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới. Trong hoàn cảnh đó sự cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế,
cũng như giữa nền kinh tế nước ta với các nước trên thế giới cả trên ba cấp độ
nhà nước, doanh nghiệp và sản phẩm là rất quyết liệt. Đặt ra yêu cầu nâng cao


18
sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế. Đặc biệt tập trung đổi mới nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước, làm tốt vai trò chủ đạo, định hướng, hướng dẫn đối với
các thành phấn kinh tế khác, Đồng thời nâng cao sức canh tranh với nước ngoài.
Quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh có tác dụng đồng hành và là
những quy luật kinh tế phát sinh từ quy luật giá trị, hiểu theo nghĩa đầy đủ của
quy luật này. Do đó khi nghiên cứu quy luật giá trị phải thấy được tính bao
quát cả bản chất và nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó.
KẾT LUẬN

Sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là tất yếu khách quan do sự

phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng
hoá xuất hiện và tồn tại ở nhiều phương thức sản xuất. Tuy vậy, nội dung,
tính chất và trình độ phát triển lại khác nhau và quá trình phát triển của nó lại
luôn bị tác động bởi nhiều quy luật kinh tế khách quan. Sản xuất hàng hoá ra
đời có tính ưu việt hơn hẳn sản xuất tự cung, tự cấp. Song cũng có những hạn
chế tác động từ mặt trái của các quy luật của sản xuất hàng hoá. Do vậy, trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải nhận thức đúng các
quy luật kinh tế và tạo điều kiện để quy luật kinh tế phát huy tác dụng tích cực
đồng thời có những giải pháp điều tiết hữu hiệu hạn chế những tác động tiêu
cực làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.



×