Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Hãy phân tích hững đặc điểm của doanh nhân việt nam trong nền kinh tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.62 KB, 18 trang )

BÁO CÁO CÁ NHÂN
MÔN QUẢN TRỊ MARKETING

Hãy phân tích hững đặc điểm của doanh nhân Việt Nam trong nền kinh tế hiện
nay

NỘI DUNG

I.

DOANH NHÂN LÀ AI? DOANH NHÂN LÀ GÌ ?

Hiện tại theo nghiên cứu thì chưa có khái niệm nhất quán về Doanh nhân, khái niệm
Doanh nhân được hình thành trên nhiều quan điểm và lập trường khác nhau. Một số
ví dụ điển hình hay nghiên cứu về định nghĩa Doanh nhân như sau :
Quan niệm thứ nhất : định nghĩa doanh nhân theo tiêu chí nghề nghiệp của họ trong
xã hội. Cách định nghĩa này dựa vào sự giải thích từ “doanh nhân” của các từ điển.
Có sự khác nhau trong quan niệm của giới học thuật nước ta về việc giải nghĩa
từ doanh dẫn đến cách hiểu không giống nhau về danh từ doanh nhân. Từ điển Từ
và ngữ Hán - Việt của GS. Nguyễn Lân(1) chú giải từ “doanh” theo ba nghĩa: (1)
doanh là lo toan làm ăn; (2) là đầy đủ và (3) là biển lớn. Hiểu theo nghĩa (1),
thì doanh nhân có nghĩa rất rộng, gồm tất cả những người biết lo toan làm ăn; là
tất cả những người làm việc trong lĩnh vực kinh tế, trước hết là nhóm những
người làm công việc quản lý kinh tế, bao gồm những người làm công việc
quản lý Nhà nước về kinh tế và những người hoạt động trong các doanh nghiệp,
cả doanh nghiệp công ích không có mục tiêu vị lợi lẫn doanh nghiệp kinh doanh
vị lợi. Quan niệm như trên là quá rộng, không phân biệt được doanh nhân với
những dạng người khác cùng trong lĩnh vực hoạt động kinh tế. .(Nguyễn Lân (2003),
Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, NXB Văn học, HN, tr.168. )
Quan niệm thứ hai : về doanh nhân lại quá hẹp, chỉ bao gồm các ông chủ doanh
nghiệp tư nhân, không bao gồm những người lãnh đạo các “Doanh nhân Việt Nam




hiện nay là một cộng đồng rất đa dạng, hình thành từ nhiều giai cấp, tầng lớp
khác nhau trong xã hội nhưng họ có một đặc điểm chung là làm công việc kinh
doanh với mục tiêu đạt được sự giàu có và thành đạt”. Evaluation notes were
added to the output document. To get rid of these notes, please order your copy of
ePrint 5.0 now.Đ.M. Cương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh
25 (2009) 253-261 254 doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Tác giả Nguyễn Đức Thạc định nghĩa: “Doanh nhân là những người làm chủ thực
sự những quan hệ kinh tế trong các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp tư nhân,
từ quan hệ sở hữu đến quan hệ điều hành và quan hệ phân phối. Doanh nhân là
những “ông chủ” doanh nghiệp tư nhân”(2)
Quan niệm như vậy đã loại những người làm kinh doanh cá thể, hộ gia đình và
trong DNNN khỏi khái niệm doanh nhân.
Quan niệm thứ ba: về doanh nhân đã cố gắng khắc phục tính chất quá rộng
hoặc quá hẹp của hai quan niệm trên. GS. Trần Ngọc Thêm chú giải kinh doanh
theo nghĩa đen là "quản lý kinh tế", còn doanh nhân là "người quản lý (việc
làm ăn)", "là người làm kinh doanh"(3)
Cuốn Bài giảng Văn hoá kinh doanh do Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản năm
2006(4) chọn cách giải thích từ Hán - Việt “doanh” là lãi, “nhân” là người;
“doanh nhân” là người làm kinh doanh để kiếm lời. Chúng tôi muốn bổ sung thêm,
nên hiểu “doanh” ở đây là kinh doanh. Doanh nhân là những người làm kinh
doanh, là các nhà kinh doanh (hiểu là người làm kinh doanh lớn).
Muốn biết doanh nhân là ai thì cần nhận biết thế nào là kinh doanh. Kinh
doanh, theo nghĩa rộng, là tất cả các hành vi có mục đích vị lợi, nhằm đạt được lợi
nhuận cho chủ thể. Doanh nhân là một khái niệm rộng chỉ nhiều (2) GS. Phạm
Ngọc Quang (2008), Doanh nhân là một bộ phận đặc thù của trí thức, Tạp chí
Cộng sản điện tử
<www.tapchicongsan.org.vn>, số 20(164). (3)
Trần Ngọc Thêm (2006), Văn hóa doanh nhân và văn hóa doanh nhân Việt Nam,

Báo cáo tại Hội thảo Văn hóa doanh nhân Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh. (4)
Dương Thị Liễu (chủ biên) (2006), Bài giảng Văn hoá kinh doanh, NXB. Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội., tr.196. loại đối tượng người theo lĩnh vực hoạt


động (sản xuất, dịch vụ, thương mại...) và quy mô khác nhau (cá thể, hộ gia đình,
doanh nghiệp...).
“Doanh nhân là một tính cách không phải là một nghề”. Nói cách khác, theo kiểu Việt
Nam, doanh nhân không phải là nghề mà là nghiệp”. Schumpeter
Nhà kinh tế học Schumpeter nhấn mạnh: “Doanh nhân là một tính cách không
phải là một nghề”. Nói cách khác, theo kiểu Việt Nam, doanh nhân không phải
là nghề mà là nghiệp.
Ngoài ra còn khái niệm: Doanh nhân Xã hội.
Doanh nhân xã hội, doanh nghiệp xã hội là những khái niệm còn khá mới mẻ đối với
Việt Nam. Vì vậy, bài viết này sẽ nhằm tóm tắt một cách khái quát nhất để bạn đọc có
cở sở tìm hiểu thêm về lĩnh vực này.
Doanh nhân xã hội (social entrepreneur): là những người nhìn nhận được những
vấn đề của xã hội và sử dụng những nguyên lý của kinh doanh (entrepreneurship) để
tổ chức, quản lý và tạo ra những thay đổi về mặt xã hội nhằm giải quyết những vấn đề
đó. Nếu các doanh nhân thông thường đo sự thành công của mình bằng lợi nhuận hay
doanh thu thì các doanh nhân xã hội lại tập trung vào việc tạo ra các nguồn vốn xã
hội. Một doanh nghiệp do doanh nhân xã hội thành lập nên có được coi là thành công
hay không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đó có giải quyết được những vấn đề xã
hội như mình đề ra hay không.
Về thành phần doanh nhân từ các tầng lớp khác nhau có thông kê không chính
thức như sau: Trong bài báo của bà Phạm Chi Lan - VCCI, đã có một số cuộc khảo
sát
tiến
hành
trong

mỗi
nhóm
kinh
doanh.
Theo các cuộc điều tra nói trên, khoảng 66% các doanh nhân đến từ các gia đình của
các quan chức nhà nước (bao gồm cả các gia đình của Đảng và các đoàn thể, quân sự,
các doanh nghiệp nhà nước, cấp trung ương và địa phương) và 16% đến từ việc bán
doanh nghiệp gia đình từ phần còn lại của các tầng lớp lớp của xã hội.

II ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM
A. ĐẶC ĐIỂM CHUNG DOANH NHÂN VIỆT NAM


Nguồn gốc sinh ra Doanh nhân là từ kinh tế thị trường, do vậy Doanh nhân Việt Nam
hiện tại cũng có những đặc điểm giống các doanh nhân thế giới là:
-

Sinh sống và phát triển liên quan đến giai đoạn đổi mới và phát triển của đất
nước theo con đường kinh tế thị trường.

-

Hầu hết các doanh nhân hiện tại đều tương đối trẻ, độ tuổi và thực hành trong
quá trình đổi mới, tinh thần yêu nước và niềm tự hào quốc gia.

-

Ứng dụng những công nghệ hiện đại nối gần khoảng cách giữa doanh nhân
Việt Nam và doanh nhân thế giới. Mau chóng hội nhập và tiếp nhận được
nhiều thông tin tiên tiến, độc lập và bản lĩnh.


-

Có tinh thần kinh doanh, sẽ thành lập các doanh nghiệp, làm giàu, dám chấp
nhận rủi ro và thách thức.

-

Làm việc chăm chỉ, làm việc chăm chỉ để học các kỹ năng và tiếp cận những
cái mới, là người tiên phong trong một số lĩnh vực.

-

Cuộc sống giữ gìn được bản chất nhân văn, với ý thức trách nhiệm cao với
cộng đồng, (Doanh nhân Văn Hóa, Doanh nhân Xã hội) có sự phù hợp với lối
sống với văn hóa, giữ gìn truyền thống gia đình của các nhóm xã hội và dân
tộc.

-

Biết Tập trung vào kinh doanh hơn là vào qui mô và vẻ hào nhoáng của doanh
nghiệp .

-

Có khao khát mãnh liệt để chứng tỏ mình.Dù kinh doanh bất cứ ngành hàng
hay lĩnh vực nào, mọi doanh nhân đều có điểm chung là khao khát thành công
một cách mạnh mẽ. Bản

-


Tự tin: Doanh nhân thành đạt có sức mạnh và sự tự tin trong từng bước đi, lời
nói, biểu hiện.

-

Tập trung vào mục tiêu đã định: Khi kinh doanh nghiêm túc.Luôn kiên trì bền bỉ:Doanh nhân là những người biết cách lập kế hoạch từng bước vươn đến
mục tiêu. Họ có chiến lược quản lý thời gian hiệu quả và kiên trì thực hiện.

-

Đầu tư tri thức: Các nhà tri thức Việt Nam và đặc biệt là giới Doanh nhân đã
biết đầu tư cho tri thức và học tập dể luôn làm mới mình, luôn cập nhật được
thông tin mới nhất của trong nước và thế giới.Một Nguồn tri thức vô giá.


B: HẠN CHẾ CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM:
1. Nhưng vẫn có nhiều doanh nghiệp cố tạo ra bảng hiệu công ty thật to lớn, cố tạo
ra nhiều hình ảnh trên báo, có nhiều nhân sự mặc đồng phục, trước khi có hoạt
động thực sự. Thực ra, doanh nghiệp nên tập trung sử dụng các nguồn lực hiện có
một cách hiệu quả nhất để tạo ra lợi nhuận và tạo những đóng góp có ích cho xã
hội.
2. Công tác Tuyển dụng nhân sự có năng lực, không phải là vì “thuận tiện” mà là vì
những quan hệ gia đình quen biết. Khi khởi nghiệp, doanh nghiệp trong nước
thường thuê người quen biết trong gia đình làm việc cho doanh nghiệp vì thấy
thuận tiện chứ không phải là vì năng lực của người đó.; nhưng cũng thông thường
những người này không phù hợp với công việc, và đặc biệt rất khó kỷ luật và đuổi
việc họ khi không đáp ứng được yêu cầu công việc. Việc sử dụng người như thế
này thường ảnh hưởng tiêu cực đến những nhân viên khác trong công ty. Bạn có
thể tưởng tượng xem chuyện gì sẽ xảy ra khi người chủ doanh nghiệp thuê một

người chú ruột của mình làm Trưởng phòng Tổ chức Hành chính.
3. Thường tiếp nhận những đối tác cần thiết cho việc kinh doanh Doanh nghiệp
trong nước một cách rất hồ hởi với những đối tác, đặc biệt đối tác nước ngoài, mà
quên mất thẩm định trước liệu đối tác này có cần thiết cho phát triển kinh doanh
của công ty hay không.
4. Kém về kỹ năng quản lý, kỹ năng tài chính, nghiệp vụ quản lý tài sản, thiếu kiến
thức quản trị doanh nghiệp.
5. Không được đào tạo bài bản, chỉ có số ít được đào tạo bài bản từ nước ngoài hay
các trường có chất lượng trong nước.
6. Hay tập trung phát triển ngành nghề mà công ty không có thế mạnh. Doanh
nghiệp không nên sa đà vào nhiều việc kinh doanh, cái gì cũng lao vào làm, hưng
không có cái gì làm đến nơi đến chốn. Doanh nghiệp trong nước thường hay thích
những thuật ngữ như “đa dạng hóa ngành ghề, dịch vụ”, “tổng hợp những nguồn
lực hiện có”, “theo trào lưu gia nhập WTO”, “tập đoàn đa ngành''... Nhưng thực
chất, khi doanh nghiệp tham gia vào đại cuộc “đa dạng hóa ngành nghề, dịch vụ”,
thì doanh nghiệp thường mất tập trung vào ngành nghề mà họ đã có thế mạnh và


dần dần họ trở nên yếu hơn đối thủ... Nhưng số ít vẫn còn mê khuếch trương, phô
diễn mà không đi vào thực tế. Kinh doanh không hiệu quả.
7. Phạm vi quyền hạn và trách hiệm của mỗi cá nhân làm trong doanh nghiệp không
rõ ràng, ôm đồm, doanh nhân có tính định hướng tốt còn ít. Doanh nghiệp trong
nước thường bị hạn chế rất nhiều trong việc phân quyền cho các quản lý. Có nhiều
doanh nghiệp khi ông/bà chủ doanh nghiệp đi vắng (không có mặt tại văn phòng
công ty), thì mọi hoạt động bị ngưng trệ. Cái mà người ta gọi là “No Boss, No
Business” trở nên rất thật (tạm dịch: Không có sếp, không có kinh doanh/hoạt
động). Nên khi xảy ra những vấn đề rắc rối, thì họ không biết qui trách nhiệm cho
ai, và ai có quyền được giải quyết. Cách giải quyết tốt nhất là phải có ai đó “bị”
kết án để làm gương cho người khác. Nhiều người cho việc giải quyết này là một
“sự hy sinh” hay “tổn thất cần thiết” cho sự phát triển của công ty. Hãy thử nhìn

vào một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động hiệu quả tại Việt Nam, họ sẵn
sàng giao phó quyền hạ n cho ngư ời Việt Nam về cả tài chính, hoạt động.
8. Doanh nhân Việt Nam thường xuyên lập các công ty siêu nhỏ (Dưới 10 nhân sự)
hoạt động cầm chừng, không đào tạo, không chiến lược, không định hướng, do
vậy với một khoảng thời gian ngắn lại giải thể.
9. Còn nhiều doanh nhân vẫn còn thiếu trách nhiệm, thiếu đạo đức trong kinh doanh
và đời sống văn hóa, vì vậy tôi có hành vi xấu có hại đến lợi ích của doanh
nghiệp, xã hội và Cộng sản các công ty.
10. Rất thích dùng tiền mặt, kể cả người trả lẫn người nhận. Không biết rằng rủi ro
trên đường vận chuyển và trong giao dịch (kể cả khả năng bị lẫn tiền giả cũng khó
kiểm chứng khi khối lượng tiền nhiều quá mà nhân lực kiểm, máy móc kiểm ngân
thiếu, khả năng mất an toàn trong vận chuyển khá cao).
11. Trong giao tiếp, rất thích gặp người đứng đầu mà không biết rằng người giải quyết
trọng điểm cho công việc có thể chỉ là một thuộc cấp nhỏ hơn (có thể là cô bồ nhỏ
nhắn của Sếp).
12. Rất thích đưa người nhà vào bộ máy quản lý bất kể trình độ, chất lượng công tác
có phù hợp hay không nên khi xảy ra sự cố bởi những người này gây ra thường rất
khó xử lý.


13. Dễ bị cuốn theo trào lưu. Khi phát hiện thấy ai đó, doanh nghiệp nào đó đang phát
triển theo một định hướng nào đó là “cày” theo, bất kể hệ quả của nó thế nào.
Không tính đến những phát sinh khi hàng loạt doanh nghiệp cùng “chen vai thích
cánh” trên một con đường hẹp. Việc tập trung đầu tư vào đất đai ở Phú Quốc năm
2005 và việc ào vào Thủy điện gần đây là một ví dụ, thường khi “cao trào” xẹp
xuống là phải trả giá đắt.
14. Khi có vi phạm, không ưa tháo gỡ theo trình tự hợp lý rồi phân tích, rút đúc mà ưa
chọn cách “bôi trơn” hệ thống cầm quyền để xả áp lực cho nhanh, không biết rằng
thói xấu này để lại một loạt di hại khó lường, nhiều khi mất kiểm soát.
15. Các đặc điểm mang tính cá nhân của các doanh nhân Việt Nam trong từng hoàn

cảnh cụ thể.
“NGUỒN – TAMNHIN.NET”
Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên
con đường đổi mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục,
Tr.1129-1134.
C: THỰC TRẠNG, MỨC ĐỘ VÀ VAI TRÒ TRÊN 3 PHƯƠNG DIỆN RA
SAO?
Đặc điểm đầu tiên: Mức dám chấp nhận rủi ro.:
Theo kết quả điều tra, khoảng 70% các doanh nhân lãnh đạo các doanh nghiệp tư
nhân ở độ tuổi dưới 45, cho các doanh nghiệp nữ có tỷ lệ là 62%, với doanh nghiệp
nhà nước có tỷ lệ là 20 - 25%. Doanh nhân trẻ tuổi ảnh hưởng đến sự năng động, dám
chấp nhận rủi ro và thách thức, khả năng học tập và làm việc năng lực của các doanh
nhân. Như Giáo sư Đinh Xuân Bá, Chủ tịch công ty Secoin cho biết: "Một trong
những yếu tố quan trọng nhất của người kinh doanh dám chấp nhận rủi ro Không biết
rằng họ không có một doanh nghiệp mạnh mẽ.." Tôi một doanh nhân cũng được
VTV1 trong chương trình truyền hình “Người Việt Tre: ”Dám chấp nhận rủi do,quyết
thay đổi vị thế, đứng vững trên đôi chân của mình là chàng luật sư – Giám đốc Vũ
Ngọc Dũng”
Một số lớn doanh nhân thành đạt là thế hệ 7x, 8x còn rất trẻ, có những doanh nhân 8x
năm trong Top 100 người giàu nhất Việt Nam.


Tuy nhiên, vẫn còn một phần không nhỏ doanh nhân Việt Nam không dám chấp nhận
rủi ro. Họ thiếu sự sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ và dám làm việc trong một cơ bản
khoa học, nhưng dừng lại nhiều lần tốt nhất, không ổn định, không đi tiên
phong. Điều này được thể hiện rõ nhất trong "tâm lý bầy đàn" trong kinh doanh trong
những năm gần đây.Các bài học đau đớn của "chứng khoán bầy đàn", " bất động sản
theo nhóm ", "bầy đàn trong mô hình tập đoàn, công việc-đa chức năng, dịch vụ đủ
thứ, không chuyên sau" ... nó đã gây ra vô số các doanh nhân vào bờ một phần của sự
phá sản và đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.

Trong một góc độ khác nhau, để dám đối mặt với rủi ro trong các quyết định trên
một phần của các doanh nghiệp địa phương vẫn còn là một "liều thuốc" và quyết định
đi sự thiếu nhận thức và hiểu biết. Có thể nhận ra những "rủi ro trong các quyết định
dám chấp nhận rủi ro" của các doanh nghiệp Việt Nam như sau:
-

Thiếu quy định khôn ngoan trong việc chấp nhận rủi ro, nhiều người trong số
họ thường tự nhiên, cảm tính, không có chiến lược, phát triển tự phát.

-

Thiếu kỷ luật trong việc tuân thủ nguyên tắc này kinh doanh, thiếu sự chuẩn bị
kỹ lưỡng khi quyết định.

-

Không có phương pháp luận khoa học khi ra quyết định hay sự vội vàng không
chín chắn, kém về phần giữ uy tín.

-

Đơn giản hoá các quy trình kinh doanh một cách không cần thiết, giản lược
những thứ quan trọng còn thứ không quan trọng thì lại áp dụng.

-

Không thể đủ chuyên môn để đo lường và định lượng rủi ro khi tham gia kinh
doanh và tham gia thị trường.

Do đó ta thấy rằng là bí quyết để một rủi ro đầu tư mạo hiểm đang cẩn thận xem

xét và tính toán trước. Mỗi cơ hội đầu tư luôn luôn mang lại những rủi ro tiềm
ẩn.Trong một số đầu tư kinh doanh, một loại rủi ro có thể chiếm ưu thế và rủi ro
khác chỉ là thứ yếu. Hoàn toàn hiểu được những rủi ro và cung cấp các giải pháp
giả định là sự cần thiết cho kinh doanh và từ đó đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả
cho tương lai.


Thông thường các loại rủi do trong hoạt động kinh doanh: Rủi ro mặc định; rủi ro
kinh doanh, rủi ro thanh khoản, mua bán điện hoặc có nguy cơ rủi ro lạm phát, rủi
ro công nghệ, chính sách chính trị, nguy cơ, rủi ro thị trường ... .
Đối với doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh với yếu tố nước ngoài, mức thấp rủi
ro của các doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh với Việt Nam khi đó đã có
biện pháp đầu tư kỹ lưỡng ngien nghiên cứu thị trường, mặt khác đã có một kinh
nghiệm tuyệt vời, khả năng tài chính, do đó, tốt cỏ dại nguy cơ kinh doanh của hai
đối tượng được sắp xếp theo điểm số thấp của tôi là một số điểm.
Bên cạnh đó có nhiều doanh nghiệp nhà nước đã chấp nhận những rủi ro, cơ hội
nắm bắt được cần phải có được thành công như một số ngành như ngân hàng, viễn
thông… Kết quả phân tích chỉ ra rằng các doanh nghiệp trong các kết quả ngành
dịch vụ trong kinh doanh thành công hơn nữa. Kinh doanh hiệu quả của ngành
kinh doanh dịch vụ lớn là cao hơn so với ngành công nghiệp rất nhiều. Một trong
những lý do chính là thấp hơn và cạnh tranh không cao, rủi ro kinh doanh trong
ngành công nghiệp sản xuất.
Trong khi đó, có thể nói rằng không có một phần nhỏ của các doanh nhân Việt
Nam, chủ yếu là công ty tư nhân nhỏ và vừa, là thiếu thị trường và kiến thức đặc
biệt. Vì vậy, họ sợ rủi ro, hầu như thiếu sáng tạo, đổi mới, doanh nghiệp và tiên
phong.
Chúng tôi nhận thức có thể "rủi ro trong kinh doanh hay ra quyết định của
các doanh nhân Việt Nam như sau:
-


Thiếu sự phân tích khoa học đối với quy định thông minh trong dám rủi ro.

-

Thiếu quy tắc trong thực hiện theo các quy định. Simplize thủ tục kinh
doanh hoặc thiếu phương pháp và không đo lường và đánh giá rủi ro.

-

Trong kinh doanh, doanh nhân là lãnh đạo của các công ty và họ phải biết
và phân tích các dự án đầu tư kỹ lưỡng. Nói cách khác, đầu tư tiết được
tham gia vào các hoạt động nguy hại; với tính toán rủi ro.

-

Mỗi cơ hội đầu tư được gắn với rủi ro tiềm năng.Trong một số dự án đầu
tư, một loại rủi ro là đa số và những người khác là thiểu số.


-

Hiểu thấu đáo về rủi ro là yếu tố cần thiết để dám mạo hiểm với phân tích
các ưu và khuyết điểm và cung cấp đầu tư nhanh nhạy.

-

Học hỏi về các bí quyết thành công trong kinh doanh.

Trong khi gia nhập WTO, Việt Nam của các nhà lãnh đạo và doanh nhân tin rằng
chúng ta sẽ đi đến một biển lớn. Điều đó có nghĩa chúng ta chấp nhận nguy cơ của

cơn bão lớn và thách thức. Khi truy cập vào WTO, các công ty cần các nhà lãnh
đạo giáo dục và ổn định công cụ và personels mà có khả năng đặc biệt và kinh
nghiệm trên thị trường.Hơn 90% các công ty hiện tại của Việt Nam là quy mô vừa
và nhỏ, trong số những người chủ yếu là nhỏ hoặc rất nhỏ. Để cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, nó phải được các công ty lớn trên thị trường. Có một nghịch lý mà
Việt Nam là thiếu các công ty lớn với khả năng cạnh tranh quốc tế. Các công ty
cần một hệ thống bảo hiểm đáng tin cậy.Ngay cả khi các công ty dám đối phó với
rủi ro, họ cũng cần tìm ra giải pháp để giảm thiểu và phân tán rủi ro. Ở đây, vai trò
của nhà nước là rất quan trọng. Chúng ta phải hiểu và tôn trọng luật pháp quốc tế
và địa phương.
Trên quy mô của mức độ dám chấp nhận rủi ro cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong trung bình của tôi ở cấp độ (trung bình) 3
Đánh giá mức độ chấp nhận rủi ro của các công ty Việt Nam:
Khu vực tư nhân : Cấp 5

Nhà nước của ngành: Cấp 3

Liên doanh doanh: Cấp 3

Khu vực nước ngoài: Cấp 3

Thứ hai đặc điểm: sáng tạo
(Đối với sản phẩm, kênh phân phối, hoạt động xúc tiến ...)
Một thực tế chúng ta thừa nhận rằng sự đổi mới là một trong những đóng góp
không nhở của doanh nhân Việt Nam. Chúng ta đánh giá Việt Nam doanh nhân
khá thông minh, sáng tạo và sáng tạo, nhưng đôi khi nó mang tính chất manh
mún, không đáp ứng và tư duy dài hạn.
Vấn đề này xảy ra, các gốc rễ của nó? Đầu tiên, một số doanh nghiệp Việt



Nam đã hạn chế mức độ, kỹ năng kinh doanh thấp. Trong một cuộc khảo sát của
chương trình phát triển dự án Mekong MPDF, chỉ có khoảng 25% doanh nghiệp
có trình độ đại học, giáo dục đại học, trong khi 32,5% không phải tham dự và kết
thúc trung học.
Đó là một khoảng cách lớn, hạn chế khả năng của tầm nhìn của doanh nghiệp
được gọi là thế giới kinh doanh hiện đại, nó bằng cách nào đó trực tiếp ảnh hưởng
đến sự sáng tạo của doanh nghiệp. Giải thích trong các góc Việt Nam đang chịu
ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Nho giáo vốn có tầm quan trọng lễ nghi,
hình thức phân cấp. Phật Giáo khuyến khích mọi người sống tự nhiên, không đặt
tiền bạc, đơn giản. Hai luồng tư tưởng không khuyến khích người dân của chúng
tôi năng động, sáng tạo, sẵn sàng chiến đấu và tăng lên trong một môi trường cạnh
tranh tự do khốc liệt.
Ngày nay chúng ta biết nhiều về các lý thuyết về quản lý kinh doanh, quản
lý sản xuất, quản lý nhân sự, quản lý marketing, quản trị chiến lược ... Các doanh
nghiệp phải "thị trường mục tiêu, định hướng khách hàng," phải được đưa ra thị
trường các sản phẩm khách hàng cần, tốt nhất các sản phẩm, giá cả cạnh tranh, để
xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề, đầu tư trang thiết bị hiện đại ... Đây là
mục đích của tư duy chiến lược doanh nghiệp của Việt Nam.
Nên có một cái nhìn tổng quan và toàn diện, trong bối cảnh của một "thế
giới phẳng", một chiến lược "đại dương xanh" và kinh tế tri thức. Chúng tôi thấy
rằng: Tổng công ty Nike, Reebook không có một nhà máy ở tất cả, hầu hết các sản
phẩm Nokia Chí na ... Cả một tòa nhà khổng lồ ở trung tâm của thành phố New
York Nike quản lý chỉ có ba lĩnh vực chính: Hệ thống nghiên cứu và phát triển (R
&
D),
hệ
thống
phân
phối


quản

thương
hiệu.
Các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt
Nam đã bước qua một giai đoạn khó khăn, tuy nhiên cũng có những rủi ro tiềm
tàng cho nền kinh tế cũng như những người kinh doanh.
Theo tôi, tính dự báo, tính linh hoạt trong khả năng và tư duy chiến lược kinh
doanh không phải là yếu tố tiêu chuẩn của các doanh nhân sáng tạo trong việc đưa
doanh nghiệp của họ vượt qua khó khăn.


Các công ty Việt Nam không ngừng sáng tạo, xây dựng những nhận diện cơ bản,
thương hiệu, nhanh chóng xây dựng các chiến lược:
-

Chiến lược phát triển kinh doanh

-

Chiến lược phát triển thương hiệu

-

Chiến lược phát triển sản phẩm

-

Chiến lược phát triển nhân sự


-

Chiến lược phát triển mạng lưới khách hàng

-

Chiến lược ngoại giao

-

Chiến lược tài chính

-

Chiến lược vốn

Điều đặc biệt là chúng ta không ngừng tiếp thu và sáng tạo trong quá trình kinh
doanh, hoạt động doanh nghiệp trên quy mô từ nhỏ tới lớn, phát triên công ty theo các
pr vết dầu loang.
Chúng tôi thấy rằng câu chuyện là không xa Warrren Buffett thành công trên các
nguyên tắc của thị trường chứng khoán "cho nhà đầu tư khi thị trường sợ ..." là bằng
chứng và những câu chuyện của thị trường bất động sản tại Việt Nam: Khi tăng bất
động sản, đổ xô đi mua, trong khi thị trường lên xuống, người dân ít mua vậy tại sao
chúng ta không dám làm ngược lại, đây là quyết định là sáng tạo ?
Ví dụ điển hình như:
1. Mọi người đổ xô đi nhập khẩu các sản phẩm Tương ớt Trung Quốc vào những năm
1998 thì Công ty Trung Thành đã nhập khẩu dây truyền về để sản xuất và sử dụng lao
động rẻ tại Việt Nam.
2. Nguyễn Văn Hòa, Trường THPT Hiệp Hòa số 2, Hiệp Hòa, Bắc Giang với sản
phẩm "Robot đa năng phục vụ nông nghiệp".

3. Hai trong số những gương mặt trẻ nhận giải thưởng tại Festival Sáng tạo trẻ toàn
quốc năm 2007 là Giang Thiên Phú và Lê Trung Minh Quân. Hai chàng trai đều sinh
năm 1989 này đã biến Webcam thành kính hiển vi và tạo robot phun sơn.


4. Với mong muốn giảm bớt được sức lao động, anh Lâm Văn Liêm, dân tộc Cao Lan
ở thôn Ruồng, xã vùng cao Đèo Gia (Lục Ngạn - Bắc Giang) đã miệt mài nghiên cứu
và chế tạo thành công chiếc máy tróc vỏ và thái sắn...
5. Đến xã Nhơn Mỹ huyện Chợ Mới tỉnh An Giang hỏi anh Đặng Văn Thắng chế tạo
máy xới đất thì ai cũng biết và nói: Máy của anh sản xuất “xịn” lắm. Hai Thắng vừa
được Bộ Công nghiệp thưởng 50 triệu đồng về sáng kiến cải tiến kỹ thuật để mua
máy móc sản xuất máy xới cải tiến phục vụ bà con nông dân...
6. Bộ Tiết Kiệm Nhiên Liệu cho động cơ Đặng Hoàng Sơn về tiết kiệm xăng cho
động cơ.
7. Đó là những Đặng Lê Nguyên Vũ - người đã tạo ra một sản phẩm cà phê mang
thương hiệu Việt mà nó đã vượt xa ra ngoài biên giới Việt Nam. Anh trở thành thần
tượng trong suy nghĩ của giới trẻ với những hoài bão lớn lao, những ý tưởng táo bạo
cùng sự thành công thần kỳ của mình.
8. Hay như Võ Quốc Thắng - một cái tên quen thuộc trong giới kinh doanh vật liệu
xây dựng và trang trí nội thất. Anh đã được nhiều Doanh nhân trẻ cho rằng đã gây
ảnh hưởng đến những quyết định kinh doanh và cách đối nhân xử thế của họ.
9. Hay những nữ Doanh nhân tiêu biểu chúng ta đã từng thấy tên tuổi của họ xuất
hiện trên nhiều phương tiện thông tin, như bà Phạm Thị Loan Chủ tịch kiêm Tổng
giám đốc Tập đoàn Việt Á, đại biểu Quốc hội, thành viên của Mạng lưới Nữ doanh
nhân Hà Nội. Bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường , Chủ tịch HĐQT tập đoàn đầu tư phát
triển Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá XII.
Bản chất của người Việt Nam nói chung và Việt Nam nói riêng, các doanh nhân quan
tâm đến sáng tạo, cần cù và sáng tạo. Chúng tôi thấy rằng quá trình hội nhập trước
khi kinh tế thế giới, nhiều nhà lãnh đạo nhà nước và quản lý có nhiều lo lắng như là
sự tích hợp của hàng hóa nước ngoài sẽ được lấp đầy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ

gặp khó khăn. .
Nhưng trong thực tế, các doanh nhân - doanh nghiệp Việt Nam đã rất nhạy với thị
trường trong nước, nắm bắt cơ hội của môi trường pháp lý và kinh doanh, hợp tác
kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, tranh thủ vốn, tiếp thu khoa học công
nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý mới và ứng dụng sáng tạo phù hợp điều kiện ở
Việt Nam, kinh doanh.


Sản phẩm: Tạo ra sản phẩm cho xã hội về loại, số lượng và chất lượng được cải
thiện hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên, so với các sản phẩm
nước ngoài ít hơn so với mô hình của chúng tôi, sự đa dạng và chất lượng sử
dụng. Điều này cũng cần giải thích vì đại đa số người tiêu dùng là không cao, các
công ty đầu tư PR dữ liệu rất ít hoặc không có như đã đề cập ở trên, vốn cho sản xuất,
đầu tư, khoa học và công nghệ còn thiếu, yêu cầu kiểm soát chất lượng không phù
hợp với. ... Có lẽ kinh doanh quan trọng nhất không được đánh giá cao giá trị sản
phẩm truyền thống của họ, chứ không phải tìm cách để sản phẩm tốt hơn mà luôn
luôn muốn làm kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, đôi khi do sự chuyển động, trong khi
không đủ mạnh về nguồn vốn, nguồn nhân lực, quản lý .. .
các doanh nghiệp phân phối được quan tâm nhiều hơn. Các doanh nghiệp sử dụng
chủ yếu thông qua các kênh phân phối truyền thống: như bán buôn, đại lý, bán hàng
trực tiếp và bán lẻ. Không có đột phá trong kênh bán hàng trực tuyến, giao hàng tận
nhà, không có thể đã thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng.
Trên quảng bá: đã có nhiều thay đổi so với quá khứ. Công ty đã nhìn thấy những tác
động của xúc tiến, đã dành nguồn vốn cho hoạt động này. Tuy nhiên, nhiều doanh
nghiệp đã không thúc đẩy các doanh nghiệp thực sự, làm giảm lòng tin của khách
hàng.
Trên các tiêu chí để đánh giá các đặc tính của doanh nhân Việt Nam này, tôi đánh
giá tỷ lệ quy mô của 3 (trung bình).
Đặc điểm thứ 3: Là một người tiên phong đi trước các đối thủ cạnh tranh.
Khi nói về nhiệm vụ kinh doanh, chúng ta thường nhấn mạnh vai trò hàng đầu

trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tiên phong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm:
-

Tiên phong sản phẩm mới, dịch vụ mới Công nghệ tiên phong

-

Những người tiên phong trong phương thức quản lý kinh doanh

-

Năng động và kiến thức văn hóa

-

Tiên phong trong việc hướng tới cộng đồng;

-

Tiên phong trong lĩnh vực ứng dụng khoa học;

-

Tiên phong trong đào tạo đội ngũ chuyên gia, đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp.


Khi quá trình chuyển đổi đất nước của chúng tôi để cơ chế thị trường, những người
kinh doanh chúng tôi trông mối quan hệ hợp lý giữa cung và cầu, giá - cầu, nhưng chỉ
khi Metro, Vincom, Big C, Nguyễn Kim, ... phát hành chiều Parkson siêu khuyến

mại, kinh doanh mới, chúng tôi có một cảm nhận trực quan, sự chuyển động của giá
cả theo yêu cầu, cũng như sức mạnh và hạn chế của người tiêu dùng quyết định trong
các trụ cột thứ ba tỷ lệ phát triển của nền kinh tế, bao gồm; xuất khẩu - tiêu dùng
trong
nước
tất
cả đầu


hội.
Các hoạt động của doanh nghiệp mở rộng vào thị trường lao động, buộc các
trường đại học và viện nghiên cứu để tiếp cận sáng tạo để giáo dục, nghiên cứu khoa
học và tầm quan trọng thiết thực hơn so với chỉ đạo. Lý do mà doanh nghiệp đóng
một vai trò tiên phong trong việc xây dựng, nâng cao nhận thức đổi mới, cách nhìn
như thế là bởi vì họ có thể sử dụng tài nguyên đất (đất, nước, rừng, dải tần số, nguồn
nhân lực, thông tin), và nó là họ đã làm giàu cho xã hội nhiều nhất.
Cùng với việc mở rộng thị trường năng động, những người kinh doanh đã thực hiện
các nhu cầu về biểu tượng của nền văn hóa quốc gia. Họ là những sứ giả mang bản
chất của Việt Nam với thế giới. Các sản phẩm như cà phê Trung Nguyên, Bitis Giày,
dép, sản phẩm gỗ Hoàng Anh Gia Lai, nước phân chia sản phẩm của Việt Nam, công
ty điện thoại Viettel của tôi ... Xuất hiện trong tất cả các châu lục làm cho bạn gần gũi
hơn với các bạn Việt Nam trên toàn thế giới.
Mặt khác dẫn đầu, trước các đối thủ (trong kinh doanh) của một doanh nhân
Việt Nam như sau:
Theo quan sát, một số doanh nghiệp nhà nước và đặc điểm quy mô lớn, và các
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, viễn thông ... là người tiên phong,
đi trước đối thủ cạnh tranh, không nhiều doanh nghiệp nhỏ có thể bây giờ tiên phong
trong kinh doanh. Có lẽ các doanh nghiệp lớn có đủ vốn và các quỹ dành cho nghiên
cứu và phát triển, khoa học và đầu tư công nghệ, môi trường kinh doanh, các phương
pháp

áp
dụng
quản
lý,
nâng
cao
quản
lý.


Trên các tiêu chí để đánh giá các đặc tính của doanh nhân Việt Nam này,
tôi sẽ tỷ lệ quy mô của 4 (khá trung bình).
Ngoài ra còn hàng loạt sáng tạo trong khuếch trương sản phẩm, khuếch trương trong
quảng cáo, hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp. Tính sáng tạo không ngừng được nâng
cao và thông minh hơn.
Để làm rõ mục tiêu của các Doanh nhân Việt Nam tôi đã phỏng vấn trực tiếp ông Võ
Quốc Thắng- Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc công ty.
Hỏi: Theo ông Với thời kỳ kinh tế hiện tại, việc kinh doanh có tồn tại nhiều rủi ro
không?
Trả lời: Rất nhiều rủi do tiềm ẩn vào giai đoạn này như: trượt giá, tỷ giá và các hạng
mục đầu tư đồng loạt tăng lên. Cơ hội đầu tư ngày càng hẹp đi và khó khăn hơn cho
các nhà đầu tư.
Hỏi: Vậy các nhà đầu tư lớn như các ngài có tiếp tục đầu tư không?Có quá lo sợ
với rủi ro có thể xảy ra với mình không?
Trả lời: Chúng tôi sẵn sàng đương đầu với khó khăn, bởi vì khó khăn đã được lường
trước, do vậy việc sẵn sàng đối mặt với khó khăn thì luôn được doanh nghiệp chúng
tôi dự kiến sẵn.Đó là bài học của năm 2008 đã trải qua!
Hỏi: Vậy theo ông các doanh nhân Việt Nam có sẵn sàng đối đầu với rủi ro
không?
Trả lời: Có, nhưng chỉ các doanh nhân đã trải qua nhiều lần gặp khó khăn trong cuộc

sống, sự phát triển mới, ngày càng khó khăn hơn để vượt qua sự tăng trưởng mạnh
mẽ. Chúng tôi cũng phải chấp nhận rủi ro mới có được thành công như ngày hôm nay
, mọi khó khăn đều có thể vượt qua được mà.
Hỏi: Vậy bước khó khăn nhất mà không phải đối mặt là gì? Và khi đó cái gì đã
giúp giải phóng ông?
Tôi khó khăn nhất là cơ cấu 3000 nhân sự ra sao cho đỡ lãng phí. Và sau chuyến đi
Nhật tôi đã tìm ra giải pháp tốt nhất cho mình. Công ty hoạt động bài bản hơn và
chuyên nghiệp mạnh mẽ hơn.


Hỏi: Làm thế nào các nguồn lực phát triển tốt nhât, đảm bảo tính sáng tạo đổi
mới?
Trả lời: Trong quá trình phát triển các nguồn lực, hầu hết mọi người đều gặp khó
khăn trong việc sáng tạo, và cơ cấu sáng tạo về nhân sự. Do vậy việc cơ cấu nhân sự
vẫn là việc phải áp dụng sáng tạo, để vừa đạt chất lượng nhưng không lãng phí.
Chúng tôi luôn đặt mục tiêu cho sự sáng tạo không ngừng và luôn mang lại kết quả
tốt nhất.
Hỏi: Việc khẳng định chất lượng sản phẩm trên thị trường bên Doanh nghiệp các
ông có gặp khó khăn gì không?
Trả lời: Luôn là khó khăn nếu không biết chọn thời điểm để đưa sản phẩm ra thị
trường. Nhưng chúng tôi luôn biết chọn điểm rơi làm sao cho hợp lý nhất.

Hỏi:Việc quảng cáo doanh nghiệp, hình ảnh, thương hiệu của các ông hiện thực hiện
ra sao? Có gặp khó khăn gì không?
Trả lời: Quảng cáo là việc chúng tôi luôn làm, nhưng quảng cáo cái gì và trong thời
kỳ khó khăn này cần phải quảng cáo thông minh. Lựa chọn đối tượng quảng cáo sao
cho chuẩn!

Nhận xét về các đặc tính của các nhà doanh nghiệp tại Việt Nam thông qua các dữ
liệu thứ cấp có sẵn, thông qua quan sát và phỏng vấn có thể không đúng bởi vì các

tiêu chuẩn của dữ liệu thứ cấp có thể phải điều tra tất cả các doanh nghiệp. Các số
liệu thu thập được và phản ánh phần nào thế giới doanh nhân Việt và những đặc tính
cơ bản của họ. Chúng ta luôn nhìn thấy một số lượng doanh nhân ngày càng lớn lên
và kinh nghiệm hơn.
Nhưng nó cũng phần nào phản ánh những đặc điểm của các nhà doanh nghiệp
tại


Việt Nam. Tình hình kinh tế hiện nay giảm, sẽ có nhiều doanh nghiệp cắt giảm ngân
sách cho tiếp thị. Nhưng các chuyên gia hàng đầu khác trong ngành công nghiệp
không phải là một ngân sách cắt giảm này, nhiều không phải là thế giới đã được cải
thiện theo hướng tối đa hóa các cơ hội thụ thai với sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng
cuộc khủng hoảng sẽ tận dụng cơ hội để thử thách khó khăn từ thách thức này và dẫn
đến nhiều thành công! .
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Xem nhân
(2) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại từ điển
Tiếng Việt, Nguyễn Như ý chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1998, tr 1705
(3) C. Mác - Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t 20, tr
489
(4) Thạc sĩ vật liệu giấy phép của Griggs Marketing tại trường Đại học Quản trị Kinh
doanh quốc tế.
(5)Tham khảo những thông tin và dữ liệu thông qua các nguồn internet.
(6) Sách Quản trị marketing của Philip Kotler
(7) Giáo trình Quản trị Marketing (Trường ÐHKTQD).
(8) Một số quan điểm của VCCI;




×