Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Các giải pháp quản lý hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.29 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THU TRANG

CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI VIỆT NAM

Ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN QUANG THUẤN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản trị kinh doanh Đề tài: “Các giải pháp quản
lý hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công
nghệ thông tin tại Việt Nam” được thực hiện dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Nguyễn
Quang Thuấn. Kết quả nghiên cứu Đề tài góp phần phục vụ công tác quản lý nhà
nước của Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và Công nghệ - Bộ Khoa
học và Công nghệ và là tài liệu tham khảo, có tính chất tư vấn cho các cấp có thẩm
quyền trong việc xây dựng các văn bản pháp quy, các chương trình, kế hoạch hành
động cụ thể nhằm thực hiện các giải pháp thúc đẩy hoạt động đăng ký chứng nhận
DNKHCN trong lĩnh vực CNTT.


Tôi xin cam đoan đây sẽ là công trình nghiên cứu của riêng mình, không có
sự sao chép nguyên văn từ bất cứ luận văn hay đề tài nghiên cứu nào khác, mọi
tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về cam
đoan của mình.

Học viên thực hiện

Lê Thị Thu Trang


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC&CÔNG NGHỆ, DOANH NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN .... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của DNKHCN ...................................................................... 5
1.2. Công nghệ thông tin và doanh nghiệp công nghệ thông tin ....................................... 12
1.3. Vai trò của DN KH&CN đối với phát triển KH&CN và kinh tế xã hội .................... 16
1.4. Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam về phát triển doanh nghiệp khoa học và công
nghệ và doanh nghiệp công nghệ thông tin ....................................................................... 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA ................................................................................. 29
2.1. Thực trạng hình thành và phát triển DNKHCN từ DNCNTT trong thời gian
qua ....................................................................................................................... 29
2.2. Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và doanh
nghiệp công nghệ thông tin ............................................................................................... 34
2.4. Đánh giá thực trạng khó khăn trong việc chứng nhận DNKHCN cho một số
DNCNTT ........................................................................................................................... 41
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DNKHCN TRONG LĨNH VỰC CNTT

TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................ 47
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển DN KHCN trong lĩnh vực CNTT tại Việt Nam
trong thời gian tới .............................................................................................................. 47
3.2. Giải pháp phát triển DN KHCN trong lĩnh vực CNTT tại Việt Nam ........................ 49
3.3. Khuyến nghị với Nhà nước và Bộ Khoa học và Công nghệ ...................................... 60
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 64
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 67


DANH MỤC VIẾT TẮT

CNTT

Công nghệ thông tin

DN

Doanh nghiệp

DNCNTT

Doanh nghiệp công nghệ thông tin

DNKHCN

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ

R&D


Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

NATEC

Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ
- Bộ Khoa học và Công nghệ

Nghị định 115

Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy
định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học
và công nghệ công lập

Nghị định 80

Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 của Chính phủ quy
định về DNKHCN

Nghị định 96

Nghị định số 96/2010/Đ-CP ngày 20/9/2010 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 115 và Nghị định 80

Thông tư 06

Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV của liên
Bộ Khoa học và Công nghê, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ ngày
18/6/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 80/2007/NĐ-CP



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển DNKHCN cả về số lượng và chất lượng là một trong những nhiệm vụ
ưu tiên hàng đầu trong hoạt động quản lý nhà nước về doanh nghiệp KHCN tại Cục
Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (NATEC).
Để đạt được mục tiêu nói trên, việc nghiên cứu phát triển DNKHCN nói chung
và DN thuộc lĩnh vực CNTT nói riêng là rất thiết thực. Nói như vậy bởi lẽ lĩnh vực
công nghệ này đã và đang phát triển mạnh mẽ, số lượng doanh nghiệp đông đảo, đa
dạng. Các DNCNTT đã tiên phong trong các hoạt động ươm tạo, phát triển, đổi mới và
ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế dù cho
có nhiều chính sách ưu đãi nhưng đến nay số lượng các DNCNTT được cấp chứng
nhân doanh nghiệp KH&CN vẫn còn rất ít.
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện Đề tài “Các giải pháp quản lý hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin tại
Việt Nam”để tìm ra những giải pháp thỏa đáng nhằm tháo gỡ các vướng mắc, gia tăng
số lượng các DNKHCN hoạt động trong lĩnh vực CNTT là rất cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới hiện có nhiều trung tâm nghiên cứu và phát triển thuộc nhiều lĩnh
vực công nghệ như công nghệ sinh học, công nghệ điện tử bán dẫn, công nghệ cơ khí
chính xác…, đặc biệt là lĩnh vực CNTT. Từ các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Đức,
Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada đến các quốc gia mới nổi trong lĩnh vực này như
Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Malaysia, CNTT luôn được chú trọng nghiên cứu, tạo
điều kiện phát triển như là một trong những yêu cầu then chốt để phát triển kinh tế đất
nước. DNKHCN trong lĩnh vực CNTT vì thế, cũng khá phổ biến trên thế giới – đặc
biệt với các quốc gia có nền kinh tế gắn chặt với các ngành công nghệ cao như các
nước Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Các tài liệu có nội dung
nghiên cứu hỗ trợ phát triển DN trong lĩnh vực này vì thế cũng có nhiều. Tuy nhiên
theo tìm hiểu của chúng tôi, không có nghiên cứu chuyên sâu về việc công nhận doanh
nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ chuyên biệt, đặc biệt là


1


CNTT. Đối với một số nước phát triển cao về CNTT, có tiềm lực nghiên cứu khoa học
mạnh, thường không thấy có sự đề cập đến những vấn đề khác biệt và giống nhau giữa
DNCNTT và DNKHCN.
Ở Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu, phân tích, đề xuất các
giải pháp phát triển DNCNTT ví dụ đề tài của Bộ Khoa học và công nghệ ““Nghiên
cứu thực tiễn và đề xuất các giải pháp thúc đẩy việc chứng nhận DNKHCN trong một
số lĩnh vực công nghệ ưu tiên”. Tuy nhiên vẫn chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào
nghiên cứu, đánh giá thực tiễn và đề xuất các khuyến nghị thúc đẩy phát triển các
DNKHCN trong lĩnh vực CNTT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng phát triển DN KHCN trong lĩnh vực CNTT ở Việt
Nam thời gian qua, đề xuất các giải pháp hình thành và phát triển các DNKHCN thuộc
lĩnh vực CNTT trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu: Doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin
Nội dung và giới hạn nghiên cứu:
-

Tổng quan lý luận và thực tiễn về DNKHCN, doanh nghiệp CNTT;

-

Thực trạng phát triển DNKHCN trong lĩnh vực CNTT tại Việt Nam;

-


Đề xuất giải pháp phát triển DNKHCN trong lĩnh vực CNTT tại Việt Nam.

Đề tài tập trung khảo sát, phân tích đánh giá trên nhóm đại diện 150 DN thuộc
lĩnh vực CNTT và tiến hành thử nghiệm trên một số DN tiêu biểu
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng, phân tích thống kê,
nghiên cứu tổng quan có kế thừa các kết quả nghiên cứu đã được công bố từ nguồn tài
liệu trong và ngoài nước; tham khảo, trao đổi ý kiến với các chuyên gia, các nhà khoa
học; khảo sát thực tế bằng phỏng vấn và/hoặc gửi phiếu điều tra về tình hình hoạt động
của các DN trong lĩnh vực CNTT; phân tích thông tin thu nhận được để phân tích sự
kiện, tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tổng quan có kế thừa các kết quả nghiên
cứu đã được công bố từ nguồn tài liệu trong và và ngoài nước; tham khảo, trao đổi ý

2


kiến với các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; khảo sát thực tế bằng
phỏng vấn và/hoặc gửi phiếu điều tra về tình hình hoạt động của các DN trong hai lĩnh
vực CNTT và CNSH; phân tích thông tin thu nhận được để phân tích sự kiện, tìm ra
nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả mới về mặt khoa học của Đề tài:
-

Tổng quan về lý luận DNKHCN và CNTT, phân tích kinh nghiệm của một
số nước phát triển DNCNTT.

-


Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động phát triển DNKHCN trong lĩnh vực
CNTT.

-

Kinh nghiệm rút ra từ việc tiến hành thử nghiệm đăng ký chứng nhận
DNKHCN.

-

Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy phát triển DNKHCN trong lĩnh vực
CNTT.

Những giá trị của Đề tài:
Đối với việc xây dựng cơ chế chính sách phục vụ công tác quản lý nhà nước:
Kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo, có tính chất tư vấn cho Cục
Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN – Bộ Khoa học và Công nghệ và các
cấp có thẩm quyền trong việc xây dựng các văn bản pháp quy, các chương trình, kế
hoạch hành động cụ thể nhằm thực hiện các giải pháp thúc đẩy hoạt động đăng ký
chứng nhận DNKHCN trong lĩnh vực CNTT.
Đối với phát triển kinh tế - xã hội: Kết quả nghiên cứu sẽ thúc đấy các
DNCNTT đăng ký chứng nhận DNKHCN, nhận được các ưu đãi của Nhà nước đối
với các DNKHCN để nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội lâu dài.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan lý luận và thực tiễn về Doanh nghiệp KH&CN, Doanh
nghiệp CNTT


3


Chương 2: Thực trạng phát triển DNKHCN trong lĩnh vực CNTT tại Việt Nam
trong thời gian qua
Chương 3: Giải pháp phát triển DNKHCN trong lĩnh vực CNTT tại Việt Nam
trong thời gian tới

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC&CÔNG NGHỆ, DOANH NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

1.1. Khái niệm và đặc điểm của DNKHCN
1.1.1. Khái niệm DNKHCN
DNKHCN, hiểu theo thông lệ chung, là doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất,
kinh doanh được bắt đầu từ việc ứng dụng hoặc sử dụng công nghệ hay bí quyết công
nghệ được tạo ra từ kết quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu, các trường đại học
hoặc các tổ chức và cá nhân có hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ. Hiện nay cũng có nhiều thuật ngữ khác nhau khi nói đến đối tượng DNKHCN
như doanh nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ (technology-based enterprises); doanh
nghiệp dựa trên nền tảng tri thức (knowledge-based enterprises); doanh nghiệp dựa
trên nền tảng công nghệ mới/cao (new/high technology-based enterprises); doanh
nghiệp dựa trên nền tảng khoa học (science-based enterprises),…
Tại Việt Nam, theo quy định tại Nghị định 80/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 5
năm 2007 (điều 1 và điều 2), DNKHCN là doanh nghiệp do cá nhân, tổ chức có quyền
sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và

Luật Khoa học và Công nghệ.
Nghị định 80 cũng quy định rằng hoạt động chính của DNKHCN là thực hiện
sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Ngoài các hoạt động này, DNKHCN có thể thực hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản
phẩm hàng hoá khác và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
Luật KH&CN năm 2013 (Điều 58) quy định: “Doanh nghiệp KH&CN là doanh
nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ KH&CN để tạo ra sản phẩm, hàng hóa
từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”.
Doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng các điều kiện sau:
Là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp;

5


Có năng lực thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng KH&CN;
Doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa hình thành từ kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ quy định.
Theo quy định tại Luật KH&CN năm 2013, doanh nghiệp KH&CN còn phải là
doanh nghiệp có năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN (kể cả với nghĩa doanh nghiệp
tiếp nhận và ứng dụng kết quả KH&CN). Năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN được
định lượng bởi các chỉ số như: số lượng và trình độ đội ngũ cán bộ nghiên cứu – phát
triển của doanh nghiệp, trang thiết bị phục vụ hoạt động nghiên cứu, ươm tạo công
nghệ cũng như khả năng thương mại hóa sản phẩm của doanh nghiệp. Trong một số
trường hợp, đây cũng là yếu tố giúp phân biệt doanh nghiệp KH&CN với các doanh
nghiệp thông thường.
Các doanh nghiệp KH&CN có vai trò dẫn đường và đòn bẩy cho sự đột phá của
các ngành công nghiệp trong nước, là tác nhân tích cực tạo ra lợi thế cạnh tranh, sức
mạnh và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Với chức năng chủ yếu là thương mại
hóa các kết quả KH&CN, các doanh nghiệp KH&CN thể hiện sự gắn kết hiệu quả giữa

nghiên cứu khoa học, cải tiến công nghệ và sản xuất công nghiệp. Trong bối cảnh
chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở nghiên cứu đào tạo, việc gây dựng và phát
triển các doanh nghiệp KH&CN trong nước sẽ tạo ra môi trường hấp dẫn lực lượng lao
động trẻ có tri thức cao được đào tạo ở trong và ngoài nước. Với tư cách vừa là bên
mua vừa là bên bán công nghệ, các doanh nghiệp KH&CN có vai trò quan trọng trong
việc hình thành và phát triển thị trường KH&CN trong nước.
Để hình thành nên một doanh nghiệp KH&CN cần có các yếu tố sau:
DN phải có người nghiên cứu sáng tạo, ứng dụng công nghệ – là những cá
nhân hoặc tổ chức có công nghệ được hình thành trong các giai đoạn của quá trình đổi
mới, sẵn sàng để chuyển giao;
Là một tổ chức mẹ – là nơi thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển;
Người đứng đầu DN phải là người giám áp dụng công nghệ đã được nghiên
cứu sáng tạo ra để hình thành một doanh nghiệp mới;
Tồn tại các nhà đầu tư mạo hiểm – là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp
mới và sở hữu một số cổ phiếu hoặc chia sẻ lợi ích trong doanh nghiệp mới.

6


1.1.2. Đặc điểm của DNKHCN
Thông thường, doanh nghiệp KH&CN được hình thành dựa trên cơ sở áp dụng,
khai thác kết quả nghiên cứu KH&CN được tạo ra ở các viện nghiên cứu, trường đại
học, tổ chức nghiên cứu tư nhân; cá nhân hoặc tập thể nhà khoa học, chủ công nghệ.
Doanh nghiệp KH&CN thường là các doanh nghiệp khởi nguồn, là một tổ chức thuộc
viện nghiên cứu, trường đại học; hoặc doanh nghiệp khởi nghiệp nằm trong các vườn
ươm công nghệ, công viên công nghệ; hoặc doanh nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ
có hoạt động chính là thương mại hóa kết quả nghiên cứu, cung cấp sản phẩm công
nghệ phục vụ các doanh nghiệp sản xuất.
Doanh nghiệp KH&CN trước hết, cũng là một loại hình doanh nghiệp hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp. Do đó, một doanh nghiệp KH&CN có đầy đủ những đặc điểm

chung của doanh nghiệp: được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động, được sản
xuất, kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ mà pháp luật không cấm và phù hợp với giấy
phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh những đặc điểm của doanh
nghiệp nói chung, doanh nghiệp KH&CN còn có những đặc điểm riêng khác biệt so với
doanh nghiệp thông thường, kể cả với ý nghĩa doanh nghiệp sản sinh công nghệ (nghiên
cứu, phát triển công nghệ và chuyển giao cho doanh nghiệp khác khai thác, ứng dụng)
và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ (doanh nghiệp tiếp thu và ứng dụng công nghệ
trong sản xuất, kinh doanh của mình). Các doanh nghiệp này đòi hỏi có nguồn vốn đầu
tư mạo hiểm và luôn phải đối mặt với khả năng rủi ro cao do tính rủi ro của công nghệ
và những biến động trên thị trường. Bản thân các chủ thể tạo dựng và điều hành các
doanh nghiệp này cũng có những đặc điểm riêng biệt, họ thường là các nhà khoa học,
thông thạo môi trường nghiên cứu hơn là môi trường kinh doanh.
1.1.3. Tiêu chí nhận biết doanh nghiệp khoa học và công nghệ
* Cơ sở vật chất
Diện tích đất đai:
Thông qua tỷ lệ diện tích đất dành cho nghiên cứu phát triển trong tổng diện
tích sẽ góp phần xác định doanh nghiệp KH&CN, bởi đây là một trong những điều
kiện cơ bản để đảm bảo các hoạt động nghiên cứu phát triển trong doanh nghiệp được
thực hiện thường xuyên và ổn định. Thông thường diện tích đất dành cho nghiên cứu

7


phát triển chiếm tỷ lệ đáng kể trong các doanh nghiệp KH&CN, đặc biệt là trong các
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ cao.
Hạ tầng cơ bản:
Công năng của các công trình hạ tầng cũng là một trong những chỉ tiêu nhận
biết doanh nghiệp KH&CN và được chia làm các thang đo cơ bản như:
Phục vụ nghiên cứu phát triển.
Phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Phục vụ hành chính.
Trong các doanh nghiệp KH&CN, công năng của các công trình hạ tầng phục
vụ sản xuất kinh doanh và nghiên cứu phát triển nhiều hơn là dành cho các hoạt động
hành chính;
Thiết bị phụ trợ
Giống như đối với hạ tầng cơ bản, công năng của các thiết bị phụ trợ cũng có
thể được chia làm 3 thang đo là: phục vụ nghiên cứu phát triển, phục vụ sản xuất kinh
doanh, phục vụ hành chính và được xem xét theo các mức độ khác nhau từ không có,
đến trung bình hoặc nhiều.
Đặc điểm chung của hầu hết doanh nghiệp KH&CN là công năng của hệ thống
thiết bị phụ trợ chủ yếu dành nhiều nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và/hoặc
nghiên cứu phát triển.
Thiết bị kỹ thuật sản xuất
Thiết bị sản xuất là một trong những yếu tố quan trọng đối với hoạt động của
các doanh nghiệp nói chung, bởi đây là yếu tố góp phần quyết định đến hiệu quả sản
xuất, kinh doanh của đơn vị.
Thông qua các chỉ tiêu về tuổi, xuất xứ và tình trạng sử dụng của thiết bị kỹ
thuật sản xuất có thể xác định được doanh nghiệp KH&CN. Thông thường trong các
đơn vị này, hệ thống thiết bị sản xuất thường có độ tuổi trung bình (thiết bị tương đối
mới), có xuất xứ từ các địa chỉ uy tín và tình trạng sử dụng còn tốt.
Thiết bị nghiên cứu ứng dụng

8


Hệ thống thiết bị nghiên cứu ứng dụng có vai trò rất quan trọng đối với hoạt
động của các doanh nghiệp KH&CN, bởi đây là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc
đảm bảo các hoạt động nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp.
Một số chỉ tiêu về thiết bị nghiên cứu ứng dụng có thể nhận biết doanh nghiệp
KH&CN như sau:

Về tuổi: thông thường tuổi của các thiết bị ở mức trung bình hoặc cao (tuổi thọ
trung bình khoảng 20-30 năm).
Về xuất xứ:các thiết bị có nguồn gốc xuất xứ uy tín, tin cậy.
Về tình trạng sử dụng: các thiết bị luôn ở trong tình trạng sử dụng tốt.
Về khả năng đáp ứng nhu cầu: hệ thống thiết bị đáp ứng khá cao các nhu cầu
của doanh nghiệp cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Công nghệ chủ yếu
Đặc điểm công nghệ là một trong những chỉ tiêu nhận biết doanh nghiệp
KH&CN, thông qua xem xét một số chỉ tiêu công nghệ như sau:
Về xuất xứ công nghệ: thường có nguồn gốc từ hoạt động R&D hoặc chuyển
giao công nghệ từ địa chỉ có độ tin cậy.
Về thế hệ công nghệ: công nghệ sử dụng thường ở tình trạng mới hoặc mới
nhất so với thị trường trong nước với nhiều ưu thế tích cực, do đó nó có khả năng góp
phần nâng cao đáng kể năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mức độ đáp ứng nhu cầu của công nghệ: công nghệ áp dụng có mức độ đáp
ứng nhu cầu cao.
* Nhân lực
Nhân lực có trình độ, nhân lực trình độ cao và công nhân kỹ thuật/trung cấp
(có thể là nhân lực nghiên cứu và phát triển công nghệ hoặc có thể là nhân lực quản
lý, sản xuất, kinh doanh).
Đối với nhân lực nghiên cứu và phát triển công nghệ trình độ chuyên sâu
(GS/PGS): thường ít xuất hiện trong các doanh nghiệp KH&CN.
Đối với nhân lực nghiên cứu và phát triển công nghệ trình độ cao (TS/ThS):
hầu hết nhân lực nghiên cứu và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp KH&CN

9


đều có trình độ sau đại học, đây là điểm khác biệt giữa doanh nghiệp KH&CN so với
các doanh nghiệp thông thường.

Đối với nhân lực nghiên cứu và phát triển công nghệ trình độ đại học/cao đẳng:
đây không phải là lực lượng có ý nghĩa quyết định đến kết quả nghiên cứu sáng tạo,
nhưng có vai trò quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ của
doanh nghiệp.
Các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực KH&CN
Sử dụng các chuyên gia đầu ngành là một trong những đặc điểm hay gặp và
khác biệt giữa doanh nghiệp KH&CN với doanh nghiệp thông thường.
* Tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN
Chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ: mức độ chi cho hoạt
động nghiên cứu và phát triển công nghệ trong các doanh nghiệp KH&CN có tính
thường xuyên trong kế hoạch chi của doanh nghiệp.
Chi cho đổi mới công nghệ: đây là hoạt động thường xuyên trong kế hoạch chi
của các doanh nghiệp và thường tập trung nhiều cho nghiên cứu cải tiến, mua máy
móc thiết bị và công nghệ mới nhằm phục vụ hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp.
* Hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ và sở hữu sáng
chế/công nghệ
Về số đề tài/dự án nghiên cứu đã triển khai và tham gia triển khai: các doanh
nghiệp thường tập trung vào các đề tài/dự án phục vụ sản xuất kinh doanh, với số
lượng ít hoặc trung bình.
Về số sáng chế/giải pháp hữu ích: có số lượng ít hoặc trung bình.
1.1.4 Những phương thức chủ yếu trong hình thành và phát triển doanh nghiệp
KH&CN
• Thành lập mới hoàn toàn một doanh nghiệp theo các tiêu chí của doanh
nghiệp KH&CN
Trong thực tế có những doanh nghiệp đáp ứng ngay các tiêu chí của doanh nghiệp
KH&CN và đang kinh doanh hết sức thành công. Các doanh nghiệp này thường được
phát triển từ ý tưởng của những nhóm sinh viên, giảng viên, các nghiên cứu viên của các
trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước.

10



• Thành lập doanh nghiệp KH&CN từ việc phát triển các tổ chức nghiên
cứu KH&CN
Con đường thứ hai để thành lập các doanh nghiệp KH&CN chính là từ các tổ
chức KH&CN. Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập đã yêu cầu các tổ
chức KH&CN công lập phải chuyển đổi tổ chức và hoạt động (điều 4, chương I) sang
mô hình tổ chức KH&CN tự trang trải kinh phí hoặc mô hình doanh nghiệp KH&CN.
Nghị định 80/2007/NĐ-CP cũng hướng dẫn cụ thể các bước khi thực hiện chuyển đổi
tổ chức KH&CN công lập sang mô hình doanh nghiệp KH&CN.
Hình thành doanh nghiệp KH&CN là bước đi cần thiết để nâng cao năng lực
nghiên cứu phát triển và khả năng thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu của các tổ
chức KH&CN.
Việt Nam có số lượng khá đông các tổ chức nghiên cứu và phát triển (chủ yếu
là các tổ chức nghiên cứu công lập). Các tổ chức KH&CN có tiềm năng sẵn có về
nghiên cứu, bao gồm cả nguồn nhân lực trình độ cao và nguồn cơ sở vật chất phục vụ
nghiên cứu. Chỉ cần có những tác động vào khâu ươm tạo, thương mại hóa các kết quả
khoa học công nghệ của tổ chức là có thể hình thành nên doanh nghiệp KH&CN.
Một số doanh nghiệp KH&CN hình thành từ con đường này đã bước đầu đã gặt
hái được thành công đáng kể trong nghiên cứu phát triển, cải tiến công nghệ và thương
mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học. Một số điển hình có thể kể đến là Viện Máy
và Dụng cụ công nghiệp và Viện Kinh tế kỹ thuật thuốc lá (thuộc Bộ Công Thương),
Công ty cổ phần dịch vụ thương mại và phát triển chăn nuôi Việt Nam; công ty BKAV
(thuộc trường Đại học Bách Khoa Hà Nội).
• Thành lập doanh nghiệp KH&CN từ những nhân tố nội tại trong một
doanh nghiệp thông thường đang hoạt động
Trong bối cảnh xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam còn thấp, phần lớn các
doanh nghiệp khởi nghiệp khó có các điều kiện để đi ngay vào công nghệ cao, công
nghệ hiện đại. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận doanh nghiệp đã có bề dày phát triển,

tạo lập được chỗ đứng nhất định trên thương trường, có tiềm lực tốt. Những doanh

11


nghiệp này là đội ngũ có tiềm năng để phát triển thành doanh nghiệp khoa học công
nghệ và có thể tạm chia ra làm hai loại.
Đối với những doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất, kinh doanh chính dựa trên
nền tảng công nghệ thuộc bản quyền, nếu hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về
doanh nghiệp KH&CN thì có thể chuyển đổi toàn bộ doanh nghiệp sang mô hình
doanh nghiệp khoa học công nghệ. Điển hình cho đối tượng doanh nghiệp này chính là
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp chuyên sản xuất các giống cây trồng, vật
nuôi. Tiêu biểu như Công ty giống cây trồng Trung ương 1 có trụ sở chính tại Hà Nội
nhưng hoạt động trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, sở hữu và sử dụng
hợp pháp 39 giống cây trồng, đã chuyển đổi thành công sang hình thức doanh nghiệp
KH&CN, doanh thu hàng năm đạt hàng trăm tỷ đồng.
Đối với những doanh nghiệp đa ngành, đa lĩnh vực mà hoạt động sản xuất dựa
trên công nghệ thuộc quyền sử dụng không tạo ra doanh thu chính cho công ty, thì có
thể thành lập các doanh nghiệp KH&CN trực thuộc để sản xuất, kinh doanh các sản
phẩm KH&CN (nếu đáp ứng điều kiện về doanh nghiệp KH&CN). Các doanh nghiệp
điển hình có thể chuyển đổi theo phương thức này có thể kể đến như Công ty cổ phần
Chế tạo máy điện Việt Nam-Hungarry, Công ty máy nông nghiệp miền Nam Vikyno,
Công ty cổ phần Khí cụ điện, Công ty cổ phần Hóa chất Sơn Hà Nội,…
1.2. Công nghệ thông tin và doanh nghiệp công nghệ thông tin
1.2.1. Khái niệm và vai trò của CNTT
1.2.1.1. Khái niệm CNTT
Cho đến nay, vẫn có nhiều cách hiểu về công nghệ thông tin (tiếng Anh:
Information Technology). Một cách chung nhất, CNTT được xem như là một ngành
ứng dụng công nghệ để xử lý thông tin. Cụ thể hơn, có thể hiểu CNTT là ngành sử
dụng máy tính, thiết bị vi xử lý và các phương tiện truyền thông để thu tập, truyền tải,

lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền thông tin.
Tại Việt Nam, theo quy định tại Luật Công nghệ thông tin (Luật số
67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006) thì CNTT được hiểu là “tập hợp các
phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền
đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số” (khoản 1, điều 4, chương I).

12


1.2.1.2. Vai trò của CNTT
• Đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ
CNTT giúp cho kho tri thức của nhân loại giàu lên nhanh chóng cũng như hỗ
trợ con người tiếp cận với những kiến thức đó nhanh và hiệu quả hơn. Nói cách khác,
CNTT giúp giảm thiểu tối đa thời gian và thu hẹp tối đa không gian cho việc tiếp cận
thông tin tri thức. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học và công nghệ.
• Đối với phát triển kinh tế - xã hội
Sự phát triển nhanh chóng của CNTT đã tạo ra những tác động to lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội.
CNTT tạo cơ hội cho các phát minh, sáng chế được phổ biến rộng hơn và ứng
dụng nhanh hơn trong thực tiễn. Từ đó làm cho năng suất lao động trong xã hội được
nâng lên
CNTT trở thành công cụ hiệu quả cho hoạt động quản lý, giúp cho các quá trình
quản lý trong hoạt động kinh tế - xã hội được thu gọn, giảm bớt các bước trung gian
mà vẫn đảm bảo tính kịp thời và chặt chẽ.
CNTT đã làm cho cơ cấu nghề nghiệp trong xã hội biến đổi rất nhanh. Một số
ngành nghề truyền thống đã bị vô hiệu hóa, thậm chí bị xoá bỏ (chẳng hạn như một số
tờ báo uy tín như The New York Times, Financial Times Deutschland,… đã dừng phát
hành bản in); đồng thời nhiều ngành nghề mới, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ được
hình thành và phát triển (như mua bán trực tuyến, thư viện điện tử.)
• Đối với hoạt động quản lý xã hội

Xã hội càng phát triển các mối quan hệ ngày càng nhiều, độ phức tạp càng lớn
làm cho việc quản lý xã hội ngày càng trở nên khó khăn hơn. Sự ra đời, phát triển của
công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo nên một phương thức quản lý xã hội mới,
hiện đại là quản lý bằng Chính phủ điện tử.
Chính phủ điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để
các cơ quan của chính quyền từ trung ương và địa phương đổi mới, làm việc có hiệu
lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân thực
hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý Nhà nước.

13


• Sự quan tâm của Chính phủ đối với CNTT
Phát biểu khai mạc Diễn đàn cấp cao CNTT-TT Việt Nam năm 2013 (Vietnam
ICT Summit 2013) đã diễn ra vào ngày 20 tháng 6 năm 2013 tại Hà Nội, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết: Từ năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã thực
hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm đẩy mạnh ứng dụng phát triển
CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong đó xác định
CNTT là một trong những động lực quan trọng nhất của phát triển, góp phần làm biến
đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Hơn 10 năm qua, CNTT đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng
trưởng cao, đóng góp trực tiếp gần 7% GDP của đất nước, có tác động lan tỏa thúc đẩy
phát triển nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế xã hội. Việt Nam đã có vị trí trên bản đồ
CNTT thế giới.
Tuy nhiên, với góc nhìn tổng thể về năng lực cạnh tranh và phát triển của quốc
gia, Thủ tướng lưu ý: Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức như kinh
tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng còn thấp, hiệu quả đầu tư chưa
cao, cải cách hành chính còn chậm, không ít chỉ số cạnh tranh quốc gia của Việt Nam
còn thua kém một số nước trong khu vực.
Trong bối cảnh hiện nay, Thủ tướng cho rằng CNTT là một phương thức phát

triển mới giúp Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa Việt
Nam thoát nguy cơ tụt hậu, vượt qua bẫy thu nhập trung bình và phát triển kinh tế tri
thức, tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Để CNTT thực sự trở thành nền tảng của phương thức phát triển mới, Chính
phủ yêu cầu các các Bộ, ngành, địa phương, và cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên
gia, nhà nghiên cứu cùng triển khai 7 nội dung, cụ thể:
Một là, nâng cao nhận thức, quán triệt quan điểm CNTT là 1 nền tảng của
phương thức phát triển mới trong các cấp quản lý, các ngành kinh tế xã hội, trong mỗi
doanh nghiệp và toàn xã hội. Phát triển và ứng dụng CNTT trong sản xuất, kinh doanh

14


và quản lý, hướng tới mục tiêu nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia, coi đây
là con đường ngắn nhất để Việt Nam tiến kịp các nước phát triển, tiến cùng thời đại.
Hai là, xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia, ban hành chuẩn thông tin
quốc gia, bảo đảm khả năng kết nối liên thông đồng bộ, chú trọng công tác an ninh, an
toàn bảo mật thông tin quốc gia.
Ba là, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, làm chủ các bí quyết, giải pháp công
nghệ mới, ưu tiên đào tạo phát triển nguồn nhân lực CNTT của từng ngành, lĩnh vực,
từng địa phương, doanh nghiệp và của cả quốc gia.
Bốn là, xây dựng cơ chế chính sách tạo thuận lợi và hiệu quả cao nhất nhằm
đảm bảo việc ứng dụng CNTT trở thành một yêu cầu tiên quyết trong mọi ngành, lĩnh
vực, mọi công trình, dự án đầu tư trong tiến trình phát triển.
Năm là, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường CNTT, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và xây
dựng năng lực cạnh tranh, vươn ra thị trường ngoài nước.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn

lực của người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển CNTT.
Bảy là, phát triển và ứng dụng CNTT được coi là nhiệm vụ quan trọng của toàn
bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội. Người đứng đầu tất cả các cấp, ngành, cơ quan,
đơn vị phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về triển khai ứng dụng hiệu quả
CNTT vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
1.2.2. Phân loại Doanh nghiệp CNTT và so sánh với các tiêu chí của DNKHCN
DNCNTT được hiểu là DN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp CNTT, ngành
kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghệ thông tin,
bao gồm sản phẩm phần cứng, phần mềm và nội dung thông tin số [
Phần cứng là sản phẩm thiết bị số hoàn chỉnh; cụm linh kiện; linh kiện; bộ phận
của thiết bị số, cụm linh kiện, linh kiện. Sản phẩm thiết bị số là thiết bị điện tử, máy
tính, viễn thông, truyền dẫn, thu phát sóng vô tuyến điện và thiết bị tích hợp khác được
sử dụng để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số. Bao
gồm, thiết bị điện tử nghe nhìn; thiết bị điện tử gia dụng; thiết bị điện tử chuyên dùng;
và thiết bị thông tin - viễn thông, đa phương tiện.

15


Phần mềm là chương trình máy tính được mô tả bằng hệ thống ký hiệu, mã hóa
hoặc ngôn ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện chức năng nhất định. Sản phẩm phần
mềm là phần mềm và tài liệu kèm theo được sản xuất và được thể hiện hay lưu trữ ở
bất kỳ một dạng vật thể nào, có thể được mua bán hoặc chuyển giao cho đối tượng
khác khai thác, sử dụng.
Sản phẩm nội dung thông tin số là sản phẩm nội dung, thông tin bao gồm văn
bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh được thể hiện dưới dạng số, được lưu giữ, truyền đưa
trên môi trường mạng.
Dịch vụ nội dung thông tin số là dịch vụ được cung cấp trên môi trường mạng
hoạt động trực tiếp hỗ trợ, phục vụ việc sản xuất, khai thác, phát hành, nâng cấp, bảo
hành, bảo trì sản phẩm nội dung thông tin số và các hoạt động tương tự khác liên quan

đến nội dung thông tin số [10, tr.15].
Việc phân loại DNCNTT thường được dựa trên các sản phẩm của DN. Do đó,
có DNCNTT phần cứng, DNCNTT phần mềm và DNCNT sản phẩm nội dung số.
So sánh với khái niệm và đặc điểm của DNKHCN (trình bày tại mục 1.1) có thể
thấy có nhiều DNCNTT đáp ứng các tiêu chí của một DNKHCN. Điều này xuất phát
từ thực tiễn là nhiều DNCNTT tổ chức sản xuất, kinh doanh khởi nguồn từ ứng dụng
hoặc sử dụng công nghệ, bí quyết công nghệ được tạo ra từ kết quả nghiên cứu của các
viện nghiên cứu, trường đại học hay bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có hoạt động nghiên
cứu và phát triển công nghệ (nghĩa là, các DNCNTT đó chính là DNKHCN hoạt động
trong lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông).
1.3. Vai trò của DN KH&CN đối với phát triển KH&CN và kinh tế xã hội
1.3.1. Vai trò của DN KH&CN đối với phát triển KH&CN
1.3.1.1. Đẩy nhanh ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN vào thực tiễn sản xuất, kinh
doanh
Do hoạt động chính của doanh nghiệp KH&CN là sản xuất, kinh doanh các sản
phẩm là kết quả của nghiên cứu KH&CN nên vấn đề gắn kết giữa nghiên cứu ứng
dụng với tổ chức sản xuất trong thực tiễn trong doanh nghiệp KH&CN đương nhiên
nằm trong một quy trình liên tục và chặt chẽ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp KH&CN còn
tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ cho các tổ chức kinh tế - xã hội bên

16


ngoài. Thông qua các hoạt động này sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy nhanh quá trình chọn
lọc và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực tế, ở nhiều doanh nghiệp KH&CN có quy mô lớn, vấn đề đẩy nhanh tốc
độ chọn lọc và ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN vào sản xuất, kinh doanh
luôn được quan tâm. Sự kết hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa những kết quả nghiên cứu
phát triển đột phá và sản xuất, kinh doanh đã góp phần tạo nên nhiều thương hiệu lớn
như Apple (Mỹ), Mycrosofl (Mỹ), SamSung (Hàn Quốc), FPT (Việt Nam)…

1.3.1.2. Tạo động lực phát triển thị trường KH&CN
Doanh nghiệp KH&CN được coi như một chủ thể vừa trực tiếp vừa là trung
gian trong quá trình giao dịch công nghệ. Các kết quả nghiên cứu KH&CN một phần
sẽ được chính doanh nghiệp KH&CN tiếp thu vào trong quá trình sản xuất tạo ra sản
phẩm của đơn vị mình, một phần sẽ được chuyển giao cho đơn vị khác. Quá trình
chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy hoạt động giao dịch công nghệ gia tăng, từ đó góp
phần thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN.
1.3.1.3. Góp phần nâng cao chất lượng hoạt động KH&CN nói chung và hoạt động
nghiên cứu triển khai nói riêng
Là loại hình đơn vị vừa tham gia vào hoạt động nghiên cứu phát triển vừa là
đơn vị “tiêu thụ” các sản phẩm KH&CN của các tổ chức KH&CN bên ngoài, nên
doanh nghiệp KH&CN là một chủ thể quan trọng trong hệ thống KH&CN của mỗi địa
phương hay mỗi quốc gia. Do đó, hoạt động của doanh nghiệp tất yếu sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của hoạt động KH&CN nói chung.
Quá trình nghiên cứu và tiêu thụ các kết quả nghiên cứu KH&CN, doanh
nghiệp KH&CN sẽ đặt ra những yêu cầu cao hơn cho các nhà nghiên cứu sáng tạo, từ
đó góp phần thúc đẩy cạnh tranh nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu KH&CN.
Bên cạnh đó, thông qua hoạt động nghiên cứu KH&CN, doanh nghiệp KH&CN sẽ góp
phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, nguồn lực KH&CN ở các địa phương.
1.3.2. Vai trò của DN KH&CN đối với phát triển kinh tế xã hội
1.3.2.1. Trực tiếp đóng góp giá trị cho phát triển kinh tế - xã hội
Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN và chuyển giao công nghệ, doanh
nghiệp KH&CN còn trực tiếp tổ chức sản xuất kinh doanh sản phẩm hàng hóa phục vụ

17


sản xuất và đời sống của người dân. Do vậy, doanh nghiệp KH&CN tạo ra giá trị đóng
góp vào nền kinh tế quốc dân.
Tại các quốc gia phát triển, mức đóng góp của các doanh nghiệp KH&CN

chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế và có xu hướng ngày càng tăng cao. Tại
Trung Quốc, có khoảng 2% doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp
KH&CN nhưng đóng góp giá trị gần 20% trong tổng GDP của quốc gia; tại Mỹ, các
doanh nghiệp theo mô hình KH&CN đóng góp giá trị khoảng 36% GDP, tại Nhật là
41% GDP… Tại những quốc gia này, các doanh nghiệp KH&CN không chỉ hoạt động
trong một vài lĩnh vực kỹ thuật thuần túy mà đã phát triển sâu rộng trong nhiều lĩnh
vực KT – XH góp phần nâng cao đáng kể hiệu quả sản xuất, kinh doanh cũng như chất
lượng cuộc sống của con người.
1.3.2.2. Góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Hoạt động nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong các doanh
nghiệp KH&CN sẽ góp phần thúc đẩy quá trình đi tắt, đón đầu, góp phần thực hiện
thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Thực tế, trình độ công nghệ sản xuất ở nước ta hiện còn ở mức thấp, trong khi
nguồn lực về vốn, nhân lực kỹ thuật cao và thông tin công nghệ hạn chế. Do đó, để
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, thì không có cách nào khác tốt hơn là lựa chọn
được các công nghệ tiên tiến, công nghệ phù hợp để ứng dụng vào sản xuất, từ đó gia
tăng nhanh chóng chất lượng và sản lượng sản phẩm hàng hóa ở nước ta. Điều này sẽ
được thực hiện hiệu quả nếu hình thành được hệ thống các doanh nghiệp KH&CN đủ
lớn với vai trò là đơn vị trung gian vừa tiếp thu, vừa ứng dụng và chuyển giao công
nghệ mới vào thực tiễn.
1.4. Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam về phát triển doanh nghiệp khoa học và
công nghệ và doanh nghiệp công nghệ thông tin
1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển DN KH&CN
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là quốc gia có rất nhiều kinh nghiệm trong việc triển khai và phát triển
các cơ sở ươm tạo với hàng loạt các vườn ươm trải rộng cả ở 50 bang của đất nước.
Tính đến tháng 10/2012 có khoảng 1250 vườn ươm đang hoạt động, so với 12 vườn

18



ươm vào năm 1980. Trong năm 2013, Chính phủ Mỹ đã lập ra Quỹ Đầu tư Tác động
(Impact Investment Fund) với số vốn 1 tỷ đôla Mỹ, và Quỹ Sáng kiến Giai đoạn đầu
(Early-Stage Innovation Fund) cũng có vốn 1 tỷ đôla Mỹ với mục đích tài trợ chính
thông qua các vườn ươm doanh nghiệp cho các công ty có triển vọng tăng trưởng phi
mã nhằm đột phá sự bế tắc về công nghệ sản xuất và tạo môi trường phát triển công
nghệ và doanh nghiệp mới ở Mỹ.
Hệ thống vườn ươm doanh nghiệp thực hiện 3 chức năng chính: tạo vốn cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp; truyền đạt bí quyết kinh doanh trong giai đoạn tập trung; tổ
chức diễn đàn để doanh nghiệp khởi nghiệp có cơ hội trình bày và tiếp xúc với các nhà
đầu tư. Sau khi ra khỏi vườn ươm doanh nghiệp với những DN được chứng nhận là
DN KHCN và được đầu tư để thực hiện các dự án của mình có nghĩa là Doanh nghiệp
đó đã tốt nghiệp vườn ươm.
Theo báo cáo công bố gần đây nhất của Hiệp hội Vườn ươm doanh nghiệp Mỹ,
87% doanh nghiệp tốt nghiệp vườn ươm sau 5 năm vẫn đang vận hành, 80% doanh
nghiệp nhỏ thường đều phá sản trong vòng 5 năm. Với khoảng 1250 vườn ươm đang
hoạt động của Mỹ đã góp phần tạo ra khoảng 190.000 công ty và 245.000 cơ hội việc
làm cho phát triển kinh tế.
Một trong những biện pháp hiệu quả do chính quyền tổng thống Obama thực
hiện để phát triển các vườn ươm đó là khuyến khích chuyển dịch từ mô hình ươm tạo
phi lợi nhuận trong thời gian dài (trung bình 2 năm) sang mô hình Thúc đẩy doanh
nghiệp (với thời gian ươm từ 3 đến 6 tháng). Accelerators là hệ thống các vườn ươm
đặc biệt, có khả năng sinh lời cao thông qua việc đầu tư vào các doanh nghiệp khởi
nghiệp có ý tưởng kinh doanh tốt. Hệ thống này bao gồm các doanh nhân đã thành đạt
trong việc tạo lập các doanh nghiệp, họ là những chuyên gia trong lĩnh vực tài chính,
luật pháp, quản lý công nghệ, đầu tư… họ có nguyện vọng truyền đạt kinh nghiệm và
cùng góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Với mục tiêu “hướng tới lợi nhuận và thị trường”, Accelerator đã được chứng
minh là thành công lớn trong việc tạo ra các doanh nghiệp phát triển mới với tốc độ tăng
trưởng không ngừng, minh chứng rõ ràng nhất là Thung lũng Silicon. Có hàng trăm,

thậm chí hàng ngàn doanh nghiệp khởi nghiệp được tạo ra mỗi năm, hàng chục tỷ đô la

19


Mỹ được các nhà đầu tư mạo hiểm từ khắp nơi trên thế giới đầu tư cho doanh nghiệp
khởi nghiệp, đem lại cho nền kinh tế Mỹ một giá trị đáng kể, giải quyết hàng trăm nghìn
việc làm hàng năm cho nước Mỹ.
Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp và nhà đầu tư, Accelerators đem lại thành
quả là giảm bớt rủi ro bằng cách loại trừ rủi ro cho các mô hình kinh doanh và sản
phẩm của doanh nghiệp khởi nghiệp với việc:
Chứng minh rằng doanh nghiệp có một sản phẩm thực sự hoạt động;
Chứng minh rằng sản phẩm đáp ứng một nhu cầu thiết thực của người tiêu thụ và
khách hàng sẽ thực sự mua chúng ở mức giá sẽ tạo ra lợi nhuận.
Accelerator tại Mỹ cho thấy tỉ lệ thành công được tài trợ vốn sau khi kết thúc
chương trình học là 50%-80% tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) thông thường tốt
hơn so với các công ty đầu tư mạo hiểm. Chính vì sự thành công này, Accelerators đã
trở thành một phương thức của chính phủ các bang và thành phố ở Mỹ sử dụng để thúc
đẩy và hỗ trợ nhà đầu tư để thúc đẩy thành lập của các doanh nghiệp khởi nghiệp có
khả năng tăng trưởng mạnh.
1.4.2.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, nhiều chính sách được thực hiện để khuyến khích quan điểm và
văn hoá lạc quan hướng tới xây dựng quan hệ hợp tác/liên kết. Hơn nữa, hợp tác giữa
các viện nghiên cứu của các tập đoàn và các trường đại học, hay các biện pháp chính
sách nhằm thúc đẩy hợp tác. Đặc biệt, vai trò của các viện nghiên cứu được Chính
phủ tài trợ trong phát triển công nghệ hay cung cấp thiết bị, máy móc thử nghiệm
trong các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ là quan trọng hơn bao giờ hết. Mỗi viện
nghiên cứu của Chính phủ cần giảm quyền sở hữu tập trung vào các hệ thống huy
động các nguồn lực và xây dựng hệ thống sử dụng nguồn lực khác.
Ở Hàn Quốc, các cơ sở ươm tạo công nghệ sẽ phát triển tốt hơn trong các môi

trường đặc biệt được tạo ra bởi một số trường đại học. Chính phủ và các cộng đồng
địa phương hỗ trợ cho các trường đại học về cơ sở thực nghiệm và mở rộng phù hợp
với sự phát triển của môi trường xung quanh. Đặc biệt, các viện hỗ trợ công nghệ cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn năng động hơn trong các hoạt động liên quan tới sự
phát triển công nghệ và tạo ra các cơ hội kinh doanh mới được hỗ trợ thông qua các

20


trường đại học.
Các yếu tố chủ yếu quyết định sự thành công của các vườn ươm tại Hàn Quốc là:
Sự hỗ trợ tài chính từ các cơ quan của Chính phủ và chính quyền địa phương,
cùng với vốn góp của các doanh nhân sáng lập doanh nghiệp công nghệ và các trường
đại học.
Các nhà quản lý vườn ươm lành nghề, tài trợ cho các doanh nghiệp thuê
vườn ươm.
Tiêu chuẩn lựa chọn các doanh nghiệp thuê vườn ươm để đươc (cơ hội kinh
doanh, công nghệ, danh tiếng cá nhân của các nhà sáng lập doanh nghiệp).
1.4.2.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc đã sớm nhận thức rằng, để kinh tế phát triển, đất nước
cần phải có một nền KH&CN phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế ấy. Có như vậy
KH&CN mới hoàn thành được vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế.
Năm 1985, Chính phủ Trung Ọuốc đã đề ra Nghị quyết về cải cách hệ thống
quản lý KH&CN. Mục tiêu chính của nghị quyết là thương mại hóa hoạt động
KH&CN, tạo ra thị trường KH&CN. Nghị quyết này đã thúc đẩy nhanh quá trình
tiếp cận của các công nghệ mới với doanh nghiệp. Để đưa nghị quyết này thành
hiện thực, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành hai biện pháp sau: cắt giảm tài trợ
của các cơ quan nghiên cứu phát triển; đề ra chính sách hướng nghiên cứu phát
triển vào thị trường. Bằng cách cắt bỏ sự tài trợ từ phía Chính phủ, Chính phủ kiên
quyết yêu cầu các cơ quan nghiên cứu phát triển phải thay đổi phương thức hoạt

động. Năm 1986, Chính phủ đã tiến hành phân loại các viện nghiên cứu phát triển
để lập danh sách cắt bỏ tài trợ.
Việc cắt bỏ khoản tài trợ của Chính phủ đã buộc các viện nghiên cứu phát triển
phải quay về với nhu cầu thực tại cuộc sống, buộc họ phải tìm ra hướng đi mới để tồn
tại và phát triển bằng chính đôi chân của mình. Để thúc đẩy cho quá trình này diễn ra
thuận lợi hơn, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số biện pháp nhằm tạo điều kiện
cho các viện nghiên cứu phát triển hướng vào thị trường như: năm 1987 ban hành Luật
hợp đồng công nghệ, luật này đã tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động mua bán công
nghệ thông qua việc ký kết các hợp đồng công nghệ; thành lập các cơ quan hỗ trợ mua

21


×