Tải bản đầy đủ (.pdf) (306 trang)

Tài liệu ôn tập môn ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 306 trang )

Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

Hoàng Anh Ngọc – Tổng hợp .

1.

NHÂN VẬT A PHỦ

Bấy giờ đương Tết cả của người Mông trên núi. Tết không một ngày mà hàng tháng.
Gặt hái đã xong, trời rét, lại đợi mưa để làm mùa, thế là nghỉ ngơi, ăn chơi. Từng nhà
làm tết, hôm nay cả xóm chén ở nhà này, mai nhà khác mổ lợn, tiết canh cả chậu xắn
từng miếng cứ linh đình, ăn tết lần lượt mỗi nhà một hôm cho đến hết mọi nhà. Rộn rã
khắp núi, trai gái ném pa pao – một kiểu bóng chuyền thô sơ...

Câu chuyện kể lại bây giờ đã ngót năm mươi năm về trước. Mùa thu 1952,
trong chiến dịch Tây Bắc, khi Nghĩa Lộ đã được giải phóng, tôi lên các khu du kích ở
huyện Văn Chấn là vùng trạm Tấu, sang huyện Phù Yên là Bản Thái, khu du kích người
Mông. Người Mông, người Dao trên dãy núi bí danh là 99 (do viết tắt bến Pắc Lừm, Pắc
Ngà, hai chữ P giống con số 9) chỗ ấy bí mật qua sông Đà sang Sơn La.
Bấy giờ đương Tết cả của người Mông trên núi. Tết không một ngày mà hàng
tháng. Gặt hái đã xong, trời rét, lại đợi mưa để làm mùa, thế là nghỉ ngơi, ăn chơi. Từng
nhà làm tết, hôm nay cả xóm chén ở nhà này, mai nhà khác mổ lợn, tiết canh cả chậu
xắn từng miếng cứ linh đình, ăn tết lần lượt mỗi nhà một hôm cho đến hết mọi nhà. Rộn
rã khắp núi, trai gái ném pa pao – một kiểu bóng chuyền thô sơ. Trẻ em đánh quay, con
quay gỗ to bằng cái bát. Hay là đuổi bắt chim sẻ, chim sâu, con chim nhỏ bay trên bạt
ngàn núi đá chỉ một lúc đã mỏi cánh ngã lăn xuống, chỉ việc nhặt về nướng ăn.
Ở trạm Tấu, tôi gặp A Phủ cùng vợ sắp về ăn tết bên Tà Sùa ở Phù Yên. (Tiếng
Mông nói lơ lớ Phử tôi viết là Phủ cho dễ đọc). Tiếng Mông nhiều chữ gốc Hán. Con
trai thường tên là Páo (do chữ Bảo), co gái là Mỵ hoặc Mỷ (do chữ Mỹ). Tôi đương


muốn sang Phù Yên rồi vào các khu du kích Sơn La lên Điện Biên trên Lai Châu. Thế là
tôi cùng sang Phù Yên với vợ chồng A Phủ.
Từ trạm Tấu đi Tà Sùa đường núi chỉ một hai ngày. Chúng tôi đã đi lâu cả hai
phiên chợ. Vì gặp nhiều nhà nương, đến nhà nương nào có người cũng nán lại ăn tết.
Làng kháng chiến trên núi, cai đồn Pháp hay lùng lên đốt phá. Cho nên mỗi nhà đều làm
nương bí mật trong rừng sâu. Những cái nhà nương một gian vững chãi xinh xắn, nho
nhỏ như cái nhà của trẻ con chơi. Những chân cột ngoàm nâng sàn đứng con – con hổ,
con gấu không trèo lên được. áp mái, kho đựng ngô. Ngoài nương trước mặt các thức ăn
hàng ngày. Rau cải, đậu răng ngựa, bụi chuối. Cây ớt, búi gừng, cụm hành, hẹ, lá sả…
Săn con chuột, con nhím đã có bẫy, nỏ. Thịt khô phơi xếp trên sàn bếp, hiếm muối, thịt
ướp rễ chanh đậm mà chát.
1|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

Những cái nhà nương, lều nương này đều có ở suốt truyện Vợ chồng A Phủ. Năm
1970 tôi có dịp đi lâu vùng Luang Prabang – bên Thượng Lào, những cái nhà nương
quyến luyến tôi vẫn thấy nhiều trong tiểu thuyết Họ Giàng ở Phìn Sa.
A Phủ không phải là sự tích một người thật việc thật. Tất cả tai nghe mắt thấy và
những trải biết của tôi từ những sự thật ấy tổng hợp vào sáng tạo. Dọc đường A Phủ đã
kể những gian truân của vợ chồng anh và mọi sinh hoạt, khó khăn ở khu du kích đã bao
năm. Tôi đã đến dự một đêm xử người bẻ trộm ngô, hệt như đám xử kiện khủng khiếp
đã miêu tả trong truyện và trong phim Vợ chồng A Phủ mà nhà văn Kim Lân đã đóng
vai pụ pạng (thằng mõ) rất xuất sắc. Chỉ có điều là người đứng ra xử kẻ trộm ngô không
phải là thống lý Pá Tra mà là cán bộ ta. Mới giải phóng, địa phương có chủ trương giữ
mọi phong tục tập quán không phân biệt là tốt hay là lạc hậu, dã man.
Người cán bộ kết nghĩa anh em với A Phủ là những hoạt động thật của cán bộ

địch hậu Chi Mai, cán bộ phụ trách khu du kích Phù Yên. Chi Mai quê ở Hà Đông đã
xung phong công tác Tây Bắc. Và phần nào trong tinh thần người cán bộ hậu địch có cả
tôi. Tôi đi với Chi Mai, nhiều xóm muốn giữ tôi lại làm thày giáo. Trong bữa rượu,
người ta hay đọ cánh tay, nếu dài bằng nhau mà lại bằng tuổi thì nhất định chúng tôi
phải kết làm anh em. Phong tục “ăn sùng” này gốc của người Tày, người Thái, một nếp
sống vui và có ý nghĩa, nhiều dân tộc khác đã bắt chước.
Câu chuyện A Phủ kể, tôi đã ngẫm nghĩ mọi mặt tư tưởng, tình cảm của đối
tượng và của tội, tất cả đã sáng tạo nên Vợ chồng A Phủ mà các bạn đã đọc. Có một
quang cảnh khác là khu du kích trạm Tấu và bên bản Thái đều ở sâu trong rừng không
trông được xuống núi như trong truyện kể. Cũng chuyến đi ấy, tôi đã sang nhà lão du
kích Triệu Văn Khìn người Dao, ở mường Cơi. Đồn Tây dưới cánh đồng đã đánh lên
núi, mấy lần bị bố con ông Khìn lăn đá xuống, chết mấy đứa, không dám lên nữa. Ở chỗ
nương nhà ông Khìn trông xuống thung lũng, đồn mường Cơi rõ mồn một. Hôm ấy
uống rượu ủ bột báng nhắm thịt phượng hoàng đất ông Khìn vừa đi bắn được, tôi nhìn
xuống và quyết định đưa cái động trông thấy ở mường Cơi sang cánh đồng dưới chân
núi nhà nương của vợ chồng A Phủ.
Câu chuyện này nếu không nói bạn đọc có thể khó hiểu. Truyện Vợ chồng A Phủ,
những lần in đầu – năm 1954, có nhân vật thống lý Chống Lầu. Các lần in sau và bây
giờ, tôi đổi tên là thống lý Pá Tra. Tại sao vậy? Chống Lầu là tên ông thống lý ở Háng
Chu, tôi đã nhiều lần đến chơi, ông thết khách thịt ngựa không muối. Tên ông Chống
Lầu cũng điển hình tên con người ở tầng lớp trên. Ông không biết chữ, lại ở khu du kích
hẻo lánh thế này, ông biết đâu tôi mượn tên ông.
Năm 1954 miền Bắc giải phóng, ông Chống Lầu được cử ra làm phó chủ tịch khu
tự trị Tây Bắc, cơ quan ở thủ phủ Sơn La. Anh Hoàng Nó bấy giờ là bí thư tỉnh ủy Sơn
La đã nhắn tôi viết hỏng rồi. Nếu đứa nào xấu mách ông Chống Lầu là thằng nhà báo
năm ấy đã viết sách bảo Mo Chống Lầu là phản động thì nguy quá. Các buổi phát thanh
tiếng Mường ở Sơn Dương đọc Vợ chồng A Phủ đều phải bỏ.
2|Page



Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

Một lần đi huyện Than Uyên, tôi mượn quyển sổ ghi tên các người tù đương bị
giam ở đây. Tôi nhặt ra tên một người tù là Pá Tra. Tôi đổi là thống lý Pá Tra từ ngày
ấy, chắc không lo trùng tên
TRÒ CHUYỆN VỀ BÀI THƠ "TRÀNG
GIANG"
Thứ ba, 04 Tháng 9 2007 21:39
Một chiều thu 1939, tôi đi dạo trên bờ sông Cái (sông Hồng), bằng xe đạp, có đoạn dắt
xe đi bộ, thấy buổi chiều trên đê và trên sông đẹp quá: Nắng chiều đã nhạt, mây đùn
phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi, nửa như xa vời quạnh
hiu...
Nhà thơ HUY CẬN
Một chiều thu 1939, tôi đi dạo trên bờ sông Cái (sông Hồng), bằng xe đạp, có
đoạn dắt xe đi bộ, thấy buổi chiều trên đê và trên sông đẹp quá: Nắng chiều đã nhạt,
mây đùn phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi, nửa như xa vời
quạnh hiu. Tôi dừng ở quãng bến Chèm (bây giờ là chân cầu Thăng Long) và vang lên
trong tâm tưởng mấy câu lục bát:
Tràng Giang sóng gợn mênh mông
Thuyền trôi xuôi mái, nước song song buồn
Rêu trôi luồng lại nối luồng
Về đâu bèo dạt, mây lồng núi xa
Tôi còn định làm tiếp bài thơ bằng lục bát và đặt tên bài là Chiều trên sông...
Nhưng đạp xe về nhà (ở số 40 Hàng Than) lại vang trong đầu nhạc điệu của thơ
bảy chữ, âm hưởng Đường luật như quyến rũ tai tôi, cổ họng tôi và tôi liền chuyển mấy
câu đầu sang thể bảy âm, bắt được ngay hai câu đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song

Hai câu đầu này sẽ đứng vững nguyên cho đến bản thảo cuối cùng
Rồi tôi viết tiếp. câu thứ 3 không khó, nhưng đến câu thứ 4 thì thôi xao
Một chiếc bèo đơn lạc giữa dòng...
Một cánh bèo đơn lạc giữa dòng...
Củi một cành trôi lạc mấy dòng...
Sau cùng đến bản thảo thứ 14 mới bật ra Củi một cành trôi khô lạc mấy dòng
vừa tự nhiên vừa hàm ý sâu (đã chết khô rồi mà còn lạc mấy dòng). Chữ khô hơn hẳn
chữ đơn, vì cái ý cô đơn sẽ toát lên từ toàn bài.
Đoạn 2 cũng phải tìm, nhưng có sẵn cảnh trước mắt: Các cồn nhỏ giữa sông... gió
hiu hiu... và lại có trong tâm trí 2 câu của Chinh phụ ngâm,
Non Kỳ lặng lẽ trăng treo
3|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gờ
Cho nên tôi viết ngay được câu Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu nhờ bà Đoàn Thị Điểm... gà
cho... nửa câu
Đoạn thứ tư thì tôi học được chữ đùn trong bài Thu hứng của Đỗ Phủ (bản dịch
của Nguyễn Công Trứ) Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Và tôi viết Lớp lớp mây cao đùn núi
bạc. Cả khổ thơ thứ tư thì tôi buồn hơnThôi Hiệu nên mới hạ 2 câu
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nhớ câu Yên ba giang thượng sử nhân sầu cốt để nói mình buồn hơn, cần gì
phải có khói, sóng mới nhớ nhà.
Bài thơ không phải tả cảnh mà tả tâm hồn, trạng thái tâm hồn, hay nói đúng
hơn là mượn cảnh để nói lòng mình, hồn mình.... Nói đúng hơn nữa là: Hồn đã nhập vào

cảnh cho nến nói đến cảnh là nói đến hồn vậy.
Một gợi ý với người đọc: Cũng là cảnh trời nước mà sao trười nước trong
Tràng Giang thì vắng lạnh thế, xa vắng thế buồn thê lương thế. Mà trời trong bài Đoàn
thuyền đánh cá (mênh mông hơn vì là biển) mà không vắng lặng, mà lại vui, lại xôn xao
một niềm hào hứng như con người đã làm chủ đất trời
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Cho hay văn thơ là con người, là trạng thái hồn

2.

NHỚ VỀ TÂY TIẾN

Đối với tôi, những ngày Tây Tiến không hẳn là những ngày in kỷ niện sâu sắc hơn cả.
nhưng có lẽ nhiều người hay hỏi về bài thơ Tây Tiến của tôi viết ở giai đoạn này.
VŨ VĂN SỸ
(Ghi theo lời kể của nhà thơ Quang Dũng)
Tôi nhập ngũ đúng ngày cách mạng Tháng tám thành công. Năm đó tôi hai mươi sáu
tuổi. Trước cách mạng, tôi học Ban trung học trường Thăng Long. Tốt nghiệp, tôi đi
dạy học tư ở Sơn Tây để kiếm sống.
Những ngày đầu vào quân đội, tôi nhận công tác ở Phòng công vụ Bắc Bộ. Phòng
này do anh Nguyễn Văn Chân phụ trách. Tôi làm phái viên của phòng, có nhiệm vụ đi
thu mua vũ khí ở vùng Hà Nam – Sơn Tây. Thấy tôi có chút học hành, lại yêu mến văn
chương, anh Chân liền giới thiệu tôi lên chiến khu làm công tác báo chí. Ngày đó văn
hóa, văn nghệ, báo chí, uyên truyền trong quan niệm và cả trong công việc, ranh giới
4|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A


không rõ. Như vậy là “sự nghiệp” văn chương của tôi bắt đầu bằng nghề báo. Tôi trở
thành phóng viên tiền phương của tờ báo Chiến đấu thuộc Khu II. Tờ báo do anh Văn
Phác phụ trách, sau này, anh Văn Doãn lên thay.
Tôi yêu thơ và làm thơ hoàn toàn ngẫu nhiên. Thời đi học tôi rất mê Đường chi tam
bách thủ, nhất là những bài dịch của nhà thơ Tản Đà. Tôi cũng say thơ mới như bất cứ
một học sinh nào thời đó. Nhưng tôi thích thơ Thế lữ hơn cả, đặc biệt bài Nhớ rừng, bởi
tâm trang sơn dã của nó. Một nhà văn nữa là Thạch Lam. Thạch Lam không chỉ viết văn
mà còn dịch những bài thơ văn xuôi của Pháp. Và có lẽ tôi tiếp thu được gì ở thơ ca
Pháp ngày ấy, cũng do đọc các bản dịch này. Khi làm công tác báo chí tôi lại càng thấy
thích văn phong của Thạch Lam. Hà Nội ba mươi sáu phố phương của Thạch Lam là
một tập bút ký giàu chất thơ. Nhưng phải nói đến một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nga
Gôgôn: Tarax Bunba. Tôi yêu những con người Côdắc dũng cảm, yêu tự do, sống
phóng khoáng, gắn bó với thanh gươm, yên ngựa và những chiến công trên những thảo
nguyên mênh mông như những chiến khu di động chống lại bọn phong kiến xâm lược
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Tôi thấy có một sự đồng cảm nào đó giữa mình với các
nhân vật của truyện. Sau này đi Tây tiến, tôi vẫn còn mang Tarax Bunba theo trong ba
lô của mình.
Tôi ở báo Chiến đấu đến đầu năm 1947 thì được điều đi học Trường bổ túc Trung
cấp (tức Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây). Trường chuyên bổ túc kỹ thuật
quân sự cho cán bộ chuẩn bị nhận nhiệm vụ chiến đấu mới.
Việc mặc áo lính, và là một cán bộ trong quân đội, đối với tôi ngày ấy có ý nghĩa
thiêng liêng và tự hào lắm.

Những tháng học ở trường, tôi nhớ mãi hình ảnh vị giáo sư quân sự người Nhật như
một kiểu mẫu sĩ quan mà chúng tôi mơ ước và kính nể. Giáo sư có cái tên Việt Nam là
Lâm Sơn. Đại tá Lâm Sơn. Ông là sĩ quan cao cấp trong Bộ chỉ huy, thành lập từ ngày
đầu kháng chiến. Giáo sư lên lớp bằng tiếng Nhật, có người thông ngôn. Giọng ông
sang sảng nghe đầy uy quyền. Kỷ luật trong trường quân sự hồi đó rất nghiêm khắc, nếu
như bây giờ có thể gọi là “quân phiệt”. Giờ học đã đành, giờ nghỉ cũng rất “khuôn

phép”. Có lần tôi uống cà phê về muộn, cảnh vệ bắt được, cứ lo như ngày nhỏ trốn học
bị thầy bắt được. Anh biết sau đó tôi bị phạt thế nào không? Sangds thứ hai đầu tuần,
sau lúc chào cờ, đại tá bắt tôi bò bốn vòng quanh cột cờ. Tôi bò mộtcách tự giác, bởi
nghĩa rằng , đã mặc áo lính tất phải chịu nhữnh hình phạt đại loại như thế, nếu như mình
vi phạm kỉ luật.
Có lần Bác Hồ đến thăm trường. Tôi nhớ Bác còn nói cho chúng tôi nghe một cuốn
sách viết về chiế tranh du kích. Vốn giàu óc tưởng tượng về hành động chiến đấu của
người lính, tôi rất thú hình ảnh người du kích. Bac nói: “lại vô ảnh, khứ vô hình”, nghĩa
là đến và đi không ai thấy. Chỉ nội mấy cái âm chữ Hán, đọc lên nghe đã xuất quỷ nhập
5|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

thần rồi, chưa nói đến việc vận dụng nó vào chiến thuật quân sự.
Hôm bế mạc lớp, đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng quân đội, và
đồng chí Đàm Quang Trung, có đến dự và nói chuyện.
Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây Tiến, tức là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn làm
Trung đoàn trưởng. Tôi ở đại đội bộ, làm đại độ trưởng. Tiểu đoàn 212 của tôi là tiểu
đoàn trước đây đã từng làm náo động các sân bay Cát Bi, Bạch Mai… bây giờ chuyển
sang nhận nhiệm vụ Tây Tiến.
Tây Tiến là mộ chiến dịch tiến quân từ Khu III, Khu IV lên Khu X tức là Tây Bắc,
vùng Điện Biên Phủ. Đây là chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Năm 1945 khi khắp nơi
nổi dậy cướp chính quyền thì nhân dân vùng này nhiều nơi vẫn chưa được giác ngộ
cách mạng. Nam 1946, trung đoàn Sơn La có đánh vào Tây Bắc, nhưng mới chỉ có ý
nghĩa thăm dò. Đầu năm 1947 ta thành lập Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm các
chiến sĩ tình nguyện của Khu III, Khu IV và tự vệ Thành Hà Nội trước thuộc Trung
đoàn Thủ đô. Đợt Tây Tiến đầu tiên, ta đánh sâu nhưng phải rút lui ngay, vì lực lượng

địch tập trung và mạnh. Tôi đi đợt hai. Nhiệm vụ của chúng tôi là mở đường qua đất
Tây Bắc. Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là công tác dân vận gây dựng cơ
sở, tranh thủ sự giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ đại đội trưởng, tôi còn
dược cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào - Việt.
Giai đoạn này Hà Nội đang có tiếng súng ở ngoại thành. Chúng tôi xuất phát từ Sơn
Tây. Lúc đầu rất đàng hoàng đi bằng ô tô, các ôtô nổi tiếng lúc bấy giờ như của hãng
Con Thỏ, Trung Hà, Từ Đường, Mỹ Lâm… đều được Chính phủ công làm nhiệm vụ
quân sự. Chúng tôi đi qua đường số 6 qua suổi Rút. Thị trấn Hoà Bình năm ấy còn tự
do. Sau, chúng tôi chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến:
mơt rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”,
những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”, rồi rải
rác dọc biên cương những “nấm mồ viễn xứ”… tôi mô tả trong bait thơ Tây Tiến là rất
thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ, mà sau này vô tình tôi mới nhận
ra… trong bài thơ Tây Tiến, tôi còn viết “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc”. Hồi ấy
trong đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu
thốn, mình lại không giữ vệ sinh, và lại có giữ cũng chả được, nên bộ đội không njững
bị ốm, mà còn chết vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân, cứ mỗi lần nghe
tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt
rừng núi. Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn
nghe văng vẳng tiếng cồng. Anh Như Trang hồi ấy là tiểu đoàn phó, có viết ca khúc
tiếng cồng quân y là vì vậy.
Đối với miền Tây, gay nhất là thuốc, vì đường tiếp tế rất khó. Tôi nhớ có lần được
thuóc từ Khu II gửi lên. Cụ Thi Sơn trong Mặt trận Liên Việt tặng thuốc (nguyên cụ Thi
Sơn là tướng của Đề Thám). Trong buổi lễ trao thuốc long trọng này, Anh Hồng Thanh,
chính uỷ Trung đoàn, đã thay mặt bộ đội nhận thuốc. Anh còn làm cả thơ. Tôi còn nhớ
6|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn


H.A.N.N.A.P.A

mấy câu:
Một buổi sớm mọi người đều hoan hỉ
Từ bệnh nhân đến bác sĩ đều vui
Vì được tin kháng chiến chiến Khu II
Vừa gửi tặng 3.000 viên thuốc sốt…
Không hiểu cảm đọng vì có thuốc hay vì nghe thơ, mà anh Hồng Thanh đọc xong, ai
cũng rưng rưng nước mắt...
Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn ở
miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói
“áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước
đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa đường.
Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu
Chanh (ten một tổng của Hà Nam thời Pháp). Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc trước
Đại hội, được mọi người hoan nghê liệt nhiệt. Nhân có Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu
nhà văn ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu cho in ngay ở
Tạp chí Văn nghệ. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có
chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào khí của lãng mạn một thời
gắn với lịch sưở kháng chiến anh dũng của dân tộc… Từ Tây Tiến trở đi tôi làm nhiều
thơ hơn. Các bài Đường mươi hai, Ngược đường số 6, Đôi mắt người Sơn Tây cũng là
những bài thơ mà tôi thích.
Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, tôi về làm trưởng tiểu ban tuyên huấn của
Trung đoàn 52… Rồi làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ. Còn cái trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như sau
này được phân chia, bổ sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.
V.V.S

3. ĐẤT NƯỚC ĐỨNG LÊN
… Theo chỗ tôi được biết thường người đọc hay có sự tò mò muốn được biết những “bí

mật” có tính chất bếp núc của nhà văn trong công việc viết một cuốn sách. Tôi nghĩ đó
là một sự tò mò lành mạnh và chính đáng. Song nói thật tình, những”bí mật” ấy chính
tác giả cũng không biết được hết.
Nhà văn NGUYÊN NGỌC
Người mẹ làm sao biết được hết những bí mật trong suốt quá trình huyền diệu hình
thành và sinh ra đứa con. Ở khu vực này, tôi tin vậy, mãi mãi còn những bí ẩn chỉ có thể
ước đoán ra thông qua những dấu hiệu bên ngoài nào đó. Đôi điều “bí mật” tác giả sẽ
7|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

tiết lộ với bạn đọc sau đây cũng vậy. Xin các bạn xem như chừng nào đấy là những ước
đoán ít nhiều đáng tin cậy thôi.
Gần đây, có lẽ chủ yếu do chẳng viết được cái gì mới, có đôi lần tôi một mình lẩn
thẩn ngồi dở ra đọc lại quyển sách đã cũ mòn của mình. Cho phép tôi thú thật: tôi đọc…
say mê và cảm động. Và cũng buồn nữa. Tôi thấy hình như bây giờ tôi không còn có thể
viết được như ngày ấy. Ngày ấy tôi đã viết được những trang, đã viết được một cuốn
sách thật giản dị, trong sáng. Và đẹp. Một vẻ đẹp, chừng mực nào đó gần như đến hoàn
chỉnh. (Bây giờ mình có thể sâu sắc hơn, từng trải hơn nhưng cũng lại rắc rối hơn, phức
tạp và tối tăm hơn).
Tôi cứ tự hỏi: cái gì đã làm nên được sự giản dị, trong sáng, đáng quý đó?

Ông Đinh Núp
nguyên mẫu anh hùng Núp
Ở đây tôi có thể tiết lộ với các bạn một điều “bí mật” (mà trước đây, thật buồn cười
và xấu hổ thay, do những thứ giữ gìn vô lý nào đó, ta – và chính tôi – thường thấy
“không tiện nói ra”):

Tôi đã chịu ảnh hưởng rất sâu sắc, có thể đến tận máu thịt mình, của văn học, hay
nói cho thật chính xác hơn, của văn chương Pháp. Văn chương Pháp được học trong các
trường “Thực dân” thời bấy giờ. Cả một nền văn chương lớn, với những Anatole France
và Alphonse Daudet, Chateaubriand, Victor Hugo và Balzac, Flaubert và Stendhal, Guy
De Maupassant và George Sand, Lamartine và Alfred De Musset…
Tôi nghĩ mãi mãi nghĩ có một thời gian khá dài chúng ta đã nói quá là lôi thôi lẩn
thẩn về cái gọi là nội dung và hình thức trong nghệ thuật. Những câu văn chương tôi đã
từng đọc trong tác phẩm của họ, từng từ, các từ của nó, từ này đứng cạnh từ kia, câu này
nói theo câu nọ, cả những chỗ đọc nối giữa các từ nữa… là nội dung hay là hình thức?
Quả thật tôi không biết. Tôi chỉ biết nó đã tạo nên tâm hồn tôi, con người và văn
chương tôi, về sau này, có lẽ, cả một thế hệ chúng tôi. Thế hệ, hầu hết, ít năm sau sẽ đi
vào cách mạng và kháng chiến, trở thành những người lính nồng nàn yêu nước, trung
thành với nhân dân, với cách mạng…
Kể cũng lạ – nhưng ngẫm kỹ lại thì cũng rất phải, rất tất yếu thôi – chính cái nền văn
chương Pháp vĩ đại được dạy trong các trường”Thực dân” ấy, ít nhất cũng có góp phần
tạo ra – cả một thế hệ thanh niên cách mạng kiên cường và trung thành ở nước ta, thế hệ
8|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

chúng tôi.
Văn chương là một cái gì đó vừa hiển nhiên vừa bí ẩn như vậy đó. Nó tạo nên con
người, có khi định hướng cả cuộc đời con người bằng những con đường nào đó vừa tất
yếu vừa có gì như là nghịch lý vậy.
Có lúc đã nghĩ lẩn thẩn: giá như tôi đã được “tạo nên” từ buổi ban đầu của đời mình
không phải một phần hết sức quan trọng bằng nền văn chương Pháp ấy mà chẳng hạn
bằng văn chương Nga – một nền văn chương hình như sâu sắc hơn và cũng nặng nề, bệ

vệ hơn – thì rồi ra tôi sẽ trở nên thế nào nhỉ? Có thể tôi sẽ trở nên một người tốt hơn
nhiều, hoặc thế nào khác đó… Nhưng sẽ là tốt một cách khác, thế nào đó một cách
khác…

Vở nhạc kịch Đất nước đứng lên do diễn viên trường ĐH VHNT Quân đội thể
hiện
Tôi nói điều này có thể là hơi lạ với ai đó: khi bắt đầu cầm bút tôi đã viết bằng cái
“lối” văn chương “Pháp” đó, tất nhiên nó đã được khúc xạ, qua tôi. Tôi đã viết Đất
nước đứng lên bằng cái văn chương ấy. Hoặc nói cho chặt chẽ, chỉn chu hơn: viết bằng
cái lối tâm hồn đã được tạo nên một phần rất quan trọng bằng văn chương ấy.
Bấy giờ có lẽ đến lúc nói về sự khúc xạ. Anh sáng khúc xạ khi nó đi từ một môi
trường này sang một môi trường khác.
Ở trường hợp của tôi hồi bấy giờ, môi trường kia, môi trường mới, là Tây Nguyên.
Đó là một môi trường rất mạnh. Bất cứ ai đến đó, đi vào đó, lập tức chịu ngay một sức
cuốn hút mãnh liệt, không gì cưỡng lại nổi. Nói đến Tây Nguyên người ta thường hay
nghĩ, nói ngay đến thiên nhiên, núi non, rừng rú, cảnh quan lạ lùng của nó. Tất nhiên cái
đó là đúng và cũng tác động mạnh đến người mới bước chân tới đây. Nhưng còn quan
trọng hơn hiều, theo tôi, là nền văn hóa của nó.
Có nhiều cách nói khác nhau về văn hóa. Riêng tôi, tôi thích diễn đạt khái niệm này
như trong một số ngôn ngữ phương Tây: Culture. Tôi hiểu trong cách diễn đạt đó, người
ta muốn coi văn hóa là tất cả những gì con người “cấy trồng” nên trái đất này. Trước khi
có con người, chưa có những cái đó. Con người làm cho trái đất trở thành một trái đất
khác bằng toàn bộ sự “cấy trồng” của mình, đời này qua đời khác, thế hệ này qua thé hệ
khác.
Các dân tộc Tây Nguyên đã “cấy trồng” trên đất đai núi rừng của mình một nền văn
hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững. Tôi không dám cả gan phát
biểu về những đặc điểm khái quát của nền văn hóa ấy. Song dẫu sao cũng xin thử nói
đôi điều riêng tôi cảm nhận được, thấm thía yêu mến và kính trọng ở đây.
Có lẽ trước hết là ở đây con người hài hoà gần như đến tuyệt đối với tự nhiên, với
thiên nhiên, con người đồng hòa mình, với thiên nhiên và đồng hóa thiên nhiên với

mình, gần như không còn chút cách biệt, chút ranh giới nào. Thiên nhiên cũng hữu trí,
9|Page


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

hữu tình như con người và con người lại cũng vô trí, vô tình như thiên nhiên. Đây là
một thê giới sống động lạ thường, trong đó con người vì gắn liền khăng khít, thân tình,
hòa hợp đến cùng với tự nhiên, cho nên nó cũng được hưởng tất cả sức mạnh và vẻ đẹp
có khi như man dại của chính tự nhiên. Sức mạnh, sự hùng dũng của núi cao, đá lớn,
sông dữ, rừng thẳm, của những cây đại thụ trường sinh và của muôn loài cầm thú…
cũng là sức mạnh, sự hùng dũng của con người. Vẻ yêu kiều của mây nước, của trăm
vạn loài chim trời, của sông suối, của gió rừng… Cũng là vẻ yêu kiều của con người.
Và con người ở đây trong sạch, lành mạnh, tự do, thanh thản như chinh thiên nhiên
vậy.
Ở Tây Nguyên mối quan hệ hài hòa đến tuyệt đối, tuyệt diệu giữa tự nhiên và con
người bao trùm, chi phối sâu sắc tất cả các mối quan hệ khác, kể cả những mối quan hệ
xã hội phức tạp nhất: gia đình, tình yêu, xóm làng, cộng đồng, xã hội, đất nước, kẻ
thu… đi vào đây, bỗng vừa giản lược hóa đi vừa sâu đậm thêm, được tắm đẫm và hòa
nhập trong cái tinh thần tự do vừa nguyên sơ vừa luôn luôn mới mẻ trường tồn đó.
Tinh thần thượng võ Tây Nguyên cũng là bắt nguồn từ đó.
Các cô gái Tây Nguyên phơi bộ ngực trần vừa mơn mởn vừa mãnh liệt của mình ra
giữa thanh thiên bạch nhật; các pho tượng nhà mồ tuyệt vời của Tây Nguyên vừa cổ sơ
vừa hết sức hiện đại cứ như là chân dung của một con người, những con người mà là
chân dung của cả loài người và của cả tự nhiên, của thế giới của cuộc đời; những nóc
nhà rông Tây Nguyên uyển chuyển mà mạnh mẽ đến quyết liệt... Tất cả cái văn hoá
thấm sâu một triết lý bền vững không có tên gọi nào đó, lại chính là cái cơ sở bất khả
chiến thắng của quá trình cuộc chiến đấu cách mạng và kháng chiến suốt mấy chục năm

ở đây...
Tôi có may mắn hạnh phúc được sống với bà con các dân tộc Tây Nguyên gần
suốt thời chiến tranh chống thực dân Pháp, được cùng tham gia cuộc chiến đấu gian nan
anh hùng của họ. Nhưng có lẽ điều còn quan trọng hơn đối với tôi là đã dần tự “đồng
hoá” mình cùng với họ, được tắm mình trong cái văn hoá kỳ diệu ấy.
Tây Nguyên cũng tạo nên cho tôi, tâm hồn, cuộc đời, và rồi văn chương của tôi.
Có một nhà văn bạn tôi rất tinh vi trong nghề bảo rằng điều đáng chú ý nhất trong
Đất nước đứng lên là ở chỗ tôi đã tạo nên được một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật
riêng, mà về sau hình như ai có viết về miền núi cũng sẽ ít nhiều phụ thuộc vào đó.
Còn tội, tôi nghĩ rằng chính nền văn hoá Tây Nguyên mà tôi có hạnh phúc được
thấm đẫm đã tạo chho tôi hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật ấy, gần như là một cách hoàn
toàn tự nhiên, trưc giác vậy.
Có lẽ, nói cho đúng hơn, ở trong tôi cái văn hoá Tây Nguyên, với cái mà tôi đã
gọi trên kia là “nền văn chương Pháp” tốt đẹp tôi từng hưởng từ bé – đã hoà quyện với
nhau, từ lúc nào đó, bằng cách nào đó chính tôi cũng không rõ hết được. Sự hoà quyện
may mắn ấy đã tạo thành một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật riêng, vừa cũ vừa mới, vừa
có vẻ thô sơ tự nhiên mà cũng không đến nỗi cách xa với cái hiện đại.
10 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

Tôi nghĩ rằng sở dĩ câu chuyện về anh Núp của tôi đến được với tâm hồn người
đọc là vì nó đã được kể, hay đúng hơn, nó vận động trong hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật
đó. Nó ăn khớp được với hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật đó.
Theo tôi đó là điều quan trọng nhất cần chú ý trong khi tiếp cận một cách nghệ
thuật tác phẩm này.
Nói về quá trình hình thành một tác phẩm của chính mình, đối với người cầm bút,

bao giờ cũng là một sự tự thú. Tôi đã cố gắng làm một cuộc tự thú chân thành.
Không biết nó có giúp được chút gì cho ai đó quan tâm trong khi tiếp cận quyển
sách đầu tay đã cũ của tôi không? Mong bạn đọc sẽ lượng thứ nếu nhỡ ra nó vô ích đối
với bạn sau khi bạn đã bỏ công đọc những dòng muộn mằn này.

4. Nghệ thuật trần thuật mang tính hài của vũ
trọng phụng trong tiểu thuyết số đỏ
Th.S Hoàng Diệu Thuý
Trong tác phẩm tự sự, nghệ thuật trần thuật có vai trò quan trọng, góp phần làm thêm
tài năng, phong cách nhà văn. Theo từ điển thuật ngữ văn học, "Trần thuật" phương diện
cơ bản của phương thức tự sự là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với
nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định
(...). Thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật mà chức năng của nó còn là kể
việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân
vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả (...). Trần thuật gắn liền
với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm. (tr 246 - 247).
Trong nghệ thuật trần thuật của Vũ Trọng Phụng ở tiểu thuyết số đỏ, người đọc có ấn
tượng về tiếng cười vô song của ông từ năm 1943, Vũ Ngọc Phan đã công nhận: "Số đỏ
không ai nhịn được cười". Năm 1992, Hoàng Thiếu Sơn cũng chung một cảm tưởng ấy:
"Đọc số đỏ, người nghiêm đến mấy, người buồn đến đâu, ai mà chẳng cười". Người ta
có thể so sánh tiếng cười của ông Nguyễn Công Hoan và tiếng cười Vũ Trọng Phụng.
Nguyễn Công Hoan rất sở trường trong công việc tạo tác những truyện ngắn trào phúng.
Chính ông đã từng tự bạch về kinh nghiệm của mình: Ông luôn biết "Ăn dè" cốt truyện.
Mỗi truyện ngắn của ông chỉ triển khai trên cái nền một tình huống trào phúng, một
mâu thuẫn trào phúng, hướng tới một chủ đề nhất định nào đó. Sở trường của Vũ Trọng
Phụng lại nghiêng về trường thiên, nên tác phẩm của ông thường là một chuỗi những
tình huống, mâu thuẫn trào phúng kế tiếp nhau, móc xích với nhau với nhiều tầng nghĩa
tạo ra một hệ thống phong phú, phức tạp.
Việc các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến tiếng cười ghê gớm của kiệt tác Số đỏ
quả là điều dễ hiểu. Vì Số đỏ tiêu biểu nhất cho hình thức nghệ thuật trần thuật mang

tính hài của thiên hướng Vũ Trọng Phụng.
11 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

1. Nghệ thuật xây dựng các tình huống trào phúng
Là một nhà văn hiện thực, Vũ Trọng Phung luôn quan tâm sâu sắc đến môi trường, luôn
nhìn môi trường như là cơ sở để giải thích tính cách nên ông rất chú ý xây dựng những
tình huống trào phúng làm nền cho nhân vật hài xuất hiện. Có thể làm bảng phân loại
các tình huống trào phúng khá tiêu biểu Vũ Trọng Phụng trong số đỏ như sau: Tình
huống ngẫu nhiên (rủi hoá may, may hoá rủi), tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa lý
của nhân vật tình huống "Chiếu tướng" nhân vật một cách đột ngột, tình huống hiểu lầm
(ông nói gà, bà nói vịt).
2. Sự kết hợp giữa cái ngẫu nhiên và cái tất yếu
Ngẫu nhiên được xem như một nguyên tắc xây dựng cốt truyện hài, trở thành một mô
típ phổ biến trong sáng tác Vũ Trọng Phụng nói chung, "Số đỏ" nói riêng. Song cái
ngẫu nhiên cũng là con giao hai lưỡi: hoặc tạo ra những đột ngột , bất ngờ, lạ lầm gây
hứng thú thẩm mỹ cho người đọc, hoặc gây tính giả tạo, gò ép cho cốt truyện. Tài năng
của Vũ Trọng Phụng là đã tìm ra hạt nhân hợp lý của cái ngẫu nhiên trong cái xã hội
nhiễu loạn tạo nên sự thật về cái nhìn "vô nghĩa lí" trước "xã hội chó đểu" (tự dưng của
Vũ Trọng Phụng). Số đỏ rất tiêu biểu cho sự kết hợp giữa thật - giả, ngẫu nhiên tất yếu
này. Đó là cái ngẫu nhiên mang vận đỏ trùm lên cuộc đời nhân vật Xuân. Con đường
tiến thân vùn vụt của Xuân từ hạ lưu đến thượng lưu thật quá sức tưởng tượng, như toàn
được lót bằng chiếu hoa của sự ngẫu nhiên may mắn. Nhưng ngẫm kỹ Xuân tóc đỏ may
mắn đâu chỉ là chuyện "chó ngáp phải ruồi", tất cả đều có tính quy luật của nó. Theo
cách lý giải của Vũ Trọng Phụng một phần là ở tư tưởng định mệnh (là số tử vi mở đầu
tác phẩm đã dự báo vận đỏ của Xuân). Song toát lên từ hình tượng nghệ thuật của tác

phẩm đó là quy luật hiện thực. Cái xã hội thường lưu tưởng giả bịp bợm, giả dối, lố lăng
đã là môi trường tốt cho những tính cách lưu manh như Xuân nảy nở.
3. Đối lập các hình diện quan sát, miêu tả
Đối lập các hình diện quan sát, miêu tả với Vũ Trọng Phụng cũng là hình thức tương
phản để tạo hài. Bởi vì cái hài vốn là một tương phản: nội dung xấu lẩn vào hình thức
đẹp, cái nhếch nhác lẩn vào cái trang nghiêm... Nghệ thuật đẩy tương phản lên tính
thẩm mĩ, gây khoái cảm nhận thức. Vũ Trọng Phụng tạo ra tương phản bằng cách tạo ra
những đối lập lệch pha trong bản thân đối tươngj bị châm biếm, nhằm nêu bật cái cọc
cạch khấp khểnh ở đối tượng, buộc đối tượng phải phơi lưng trước tiếng cười. Trong
tiểu thuyết Số đỏ, Vũ Trọng Phụng tạo đối lập trong những trang miêu tả đám ma cụ cố
Tổ (chương hạnh phúc một tang gia). Nhà văn đã kết hợp hai hình diện quan sát của
12 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

điện ảnh: vừa diễn cảnh vừa cận cảnh và cho hai hình diện này đối lập nhau để tạo tiếng
cười.
4. Trần thuật không xuôi chiều
Đọc văn Vũ Trọng Phụng độc giả thấy đày những cú vấp, cú sốc lời văn kể chuyện của
ông không phẳng lặng mà luôn trồi lên những mâu thuẫn, nghịch lý, mâu thuận nọ đẻ ra
mâu thuẫn kia. Tiếng cười chưa kịp lắng xuống đã lại bùng lên, kết chuỗi nhau, nhất là
ở kiệt tác Số đỏ . Vì vậy mà nhiều người mệnh danh Số đỏ là "tiểu thuyết cười dài", "vở
đại hài kịch". Có thể kể ra rất nhiều những cuộc xung đột, những màn hài kịch mà sự
kiện mở đàu và kết thúc là một chuỗi những tình huống kế tiếp nhau tạo thành dây kịch
tính. Chúng tôi gọi nó là dạng xung đột kịch "bền vững" nên tiếng cười của thiên hư họ
Vũ không bao giờ chịu tắt.
5. Kết thúc bất ngờ đầy hài hước

Tính kịch và tính hài trong kết thúc của Vũ Trọng Phụng còn là ở sự bất ngờ của nó.
Kết thúc của Vũ Trọng Phụng luôn là sự hoà giải tạm thời của xung đột này để mở ra
một xung đột khác. Mở nút chỉ là cách tạm thời để xoa dịu những cú sốc. Số đỏ hài
hước trong từng chương và xuyên suốt cả tác phẩm. Chương XV tả đám ma nhà cụ Cố
Hồng kết thúc bằng một chi tiết hài đặc sắc: Ông con rể quý hoá bên ngoài thì khóc
thương người chết đến mức "lả vặt người đi" nhưng lại dúi nhanh vào tay Xuân tóc đỏ
"cái giấy bạc năm đồng gấp tư" để trả công Xuân về việc đã làm cụ cố tổ chết và ông ta
được chia một món hời. Kết thúc cuốn tiểu thuyết cũng thật thú vị: Xuân tóc đỏ một tên
ma cà bông thành anh hùng cứu quốc, bà phó Đoan dâm đãng được nhận bảng "Tiết
hạnh khả phong xiêm la"; Cụ cố Hồng Được gả Tuyết cho Xuân sung sướng đến ngứa
ngáy chỉ muốn ai đấm vào mặt mình... Không ai lường trước được một kết cục lạ lùng
hư thế. Tính bất ngờ của nó gây nên tiếng cười giòn giã. Cùng với một số cây bút hiện
thực tiêu biểu khác như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tam Lang..., kịch hoá trần thuật
là một nỗ lực đổi mới hình thức tự sự của Vũ Trọng Phụng. Nhờ nét mới mẻ này, tiếng
cười họ Vũ mang giá trị nhân bản và dân chủ sâu sắc hơn. Nghệ thuật trần thuật độc đáo
đã góp phần tạo nên giá trị của kiệt tác Số đỏ. Nó cũng góp phần tạo nên phong cách tài
năng Vũ Trọng Phụng và là đóng góp quí giá cho nghệ thuật tự sự của văn học Việt
Nam hiện đại.

5. Những nhận xét thú vị về tác phẩm và tác
giả trong chương trình PT
13 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

NHỮNG NHẬN ĐỊNH VỀ TẬP "NGỤC TRUNG NHẬT KÍ":
-"...Thơ thiên nhiên trong tập Ngục trung nhật kí thật sự có những bài viết rất hay.Có

những phác học sơ sài,chân thực và đậm đà,càng nhìn càng thú vị,như 1 bức tranh thủy
mặc cổ điển.Có những cảnh lộng lẫy sinh động như những tấm thảm thêu nền gấm chữ
vàng.Cũng có những bài thơ làm cho người đọc nghĩ tới những bức sơn mài thâm trầm
,rộn rịp..."(Đặng Thai Mai)
-"...Toàn bộ tập thơ đó là 1 tuyên ngôn về tự do viết với tấm lòng yêu thưong,tinh thần
kiên quyết ,với khí phách anh hùng của 1 người cộng sản vĩ đại"(Hoàng Trung Thông)
-"Trong thơ bác ,trữ tình và tự sự ,lãng mạn và hiện thực,cổ động và giáo dục,phản ánh
và triết lí...đã kết hợp với nhau thật chặt chẽ,1 cách nghệ thuật"(Hoàng Trung Thông)
"...Điều quan trọng là ,với tất cả phẩm chất của 1 nghệ thuật lớn ,Nhật kí trong tù đã
sống cuộc sống xứng đáng của nó,đã gieo trồng được những giá trị văn minhvà nhân
đạo cao nhất vào đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam.Biết bao người ,trong đó có
không ít nhà văn hóa lớn ,hoặc nghệ sĩ tên tuổi ở trong nước và trên thế giới đã nói về
giá trị lớn của tập thơ.."(Phong Lê)
NHẬN ĐỊNH VỀ "MỘ "(CHIỀU TỐI):
-"HCM rất Đường mà không Đường 1 tí nào.Với 1 chữ 'hồng',Bác đã làm sáng rực lên
toàn bộ bài thơ,đã làm mất đi sự mệt mỏi ,sự uể oải,sự vội vã,sự nặng nề đã diễn tả
trong 3 câu đầu ,đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cco em sau khi xay ngô tối .Chữ
'hồng'trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là "con mắt" thơ (thi nhã hoặc nhãn tự)
,nó bùng sáng lên,nó cân lại chỉ 1 chữ thôi với 27 chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng
nữa.
Với chữ 'hồng'đó có ai còn cảm giác nặng nề,mệt mỏi,nhạc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy
màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm,cả thân hình lao động của cô gái đáng yêu kia.Đó là
màu đỏ của tình cảm Bác"(Nguyễn Trung Thông)
-"Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu thơ đầu thì thơ HCM không khác gì thơ Liễu Tông Nguyên
đời Đường:
Thiên sơn điêu phi tận
Vạn kính nhân tông diệt
Cô thuyền xuy lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Nghìn non chim bay hết

Muôn nẻo dấu người mất
Trên thuyền cô độc lão già
Một mình cầu sông tuyết lạnh)
14 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

(Hoài Thanh)
Về “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”:
-Bác có nói:”Tôi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo được bài viết hữu ích như lần
này”
-Đồng chí Trường Chinh nhận xét:”Về văn phong ,cách nói và cách viết của Hồ Chủ
Tịch có những nét rất độc đáo :nội dung khảng khái ,thấm thía đi sâu vào tinhf cảm của
con người ,chinh phục cả trái tim và khối óc con người ta : hình thức sinh động ,giản dị
,giàu tính dân tộc và tính nhân dân.”

NAM CAO là nhà văn hiện thực lớn ,cũng đã có biết bao nhà phê bình và cũng đã tốn
biết bao bút giấy để viết về ông.Nhân đây giới thiệu với mọi người một vài nhận định về
con người này và văn chương của ông.
Đây là những nhận định về con người Nam Cao:
-“Nam Cao lạnh lung quá ,kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc(…)thật ra
mặt anh ta lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi”(Nhận xét của nhà văn Tô Hoài)
-"Con người Nam Cao mảnh khảnh,thư sinh,ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè,mỗi lúc
lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt"(Nguyễn Đình Thi)
-Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình ,tự đem mình ra quat dưới than hồng
"(Nguyễn Minh Châu)
-"Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm"(Nguyễn Minh Châu)

-"Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai,năm năm trung thành với hướng đi
không nghiêng ngả... năm năm cày xới để tự biếm họa ,tự khẳng định,để có Nam Cao
như hiện nay ta có"(GS Phong Lê)
Nhận xét về văn của Nam Cao:
-“Dù viết về đề tài nào ,truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung:nổi băn
khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống
đói nghèo đẩy tới”(?)
-“Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo,Nam Cao đã mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất
cả,không né tránh như Thạch Lam; không cực đoan,phiến diện như Vũ Trọng Phụng
,cũng không thi cị hóa như Nhất Linh,Khái Hưng ,ngòi bú của Nam Cao luôn luôn tỉnh
táo đúng mực”( Hà Minh Đức)
-“Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng,nghĩa là không đếm xỉa gì đến sở thích
của độc giả.Nhưng tài năng của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới sâu
xa,chua chát và tàn nhẫn ,thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của mình,thiên
chức của mình”(Hà Minh Đức)
15 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

-“Trong các trang truyện của Nam Cao ,trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc
phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc
người ta phải bộc lộ mình ra ,trước hết là tâm lí ,nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái
nỗi đau khôn nguôi của con người”(Nguyễn Minh Châu)
-“Trong văn xuôi trước cách mạng,chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo,gân guốc soi
mói như của Nam Cao”( Nhà văn Lê Định Kỵ)

NHỮNG NHẬN XÉT VỀ THƠ XUÂN QUỲNH VÀ THƠ CỦA CHỊ:

-"Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong
nắng nôi dông bão của cuộc đời ...
Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên
lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng .Ở đó trái tim thơ
Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về ,mệt nhòai giữa biến
động và yên định ,bão tố và bình yên,chiến tranh và hòa bình,thác lũ và êm trôi ,tình yêu
và cách trở ,ra đi và trở lại,chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan,tổ ấm và dòng
đời,sóng và bờ,thuyền và biển,nhà ga và con tàu ,trời xanh và bom đạn,gió Lào và cát
trắng ,cỏ dại và nắng lửa,thủy chung và trắc trở,xuân sắc và tàn phai,ngọn lửa cô đơn và
đại ngàn tối sẫm..." (Chu Văn Sơn)
-"Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành thật
,thành thật trong quan hệ bạn bè,với xã hội và cả tình yêu .Chị quanh co không giấu
diếm một điều gì .Mỗi dòng thơ,mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm ,một suy nghĩ
của chị .Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị .Thành thật,đây là cốt lõi thơ Xuân
Quỳnh" (Võ Văn Trực)
Về Vũ Trọng Phụng và”Số đỏ”:
-Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng :”Trên trang viết Vũ Trọng
Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời VTP càng chân thành bấy nhiêu.Con người
ấy không giết quá một con muỗi .Nhưng thật kì diệu,văn chương của con người ấy làm
cho kẻ trọc phú phải giật mình,kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”
-Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét:” Đây là cái bi của người chết ,cái hài của
xã hội ,cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”
Giá trị của đồng tiền trong Truyện Kiều:
Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải, đen hoá trắng
và người đàn bà goá phụ trở thành cô dâu mới.
(Sheakespear)
16 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn


H.A.N.N.A.P.A

*Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều:
Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai
đọc cũng thấm thía ngậm ngùi.
(Mộng Liên Đường)
*Bình luận về tuổi trẻ Việt Nam:
Một năm khởi đầu từ mùa xuân.Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.Tuổi trẻ là mùa xuân của
xã hội.
(Hồ Chí Minh)
*Hoài bão thời trai trẻ của cụ Phan Bội Châu:
Muốn vượt bể đông theo chiều cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiến ra khơi.
(Phan Bội Châu)
*Ca ngợi mùa xuân:
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới,
Bạn đời ơi vui chút với trời hồng!
Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa đông.
(Tố Hữu)

*Ca ngợi tình bạn:
-Sống không có bạn là chết cô đơn.
(Giooc-giơ Hê –be)
-Mỗi người thêm nhiều con mắt
Mỗi người thêm nhiều cảm rung
Trời cũng thêm nhiều màu sắc
Đất cũng thêm chiều mênh mông.
(Trần Lê Văn – Bạn)
*Kết hợp giữa tài và đức:

Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó.
(Hồ Chí Minh)
*Tự hào về đất nước:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp hơn.
17 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

(Nguyễn Đình Thi)
*Đặc điểm của ngôn ngữ:
-Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự
kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của Văn học.
-Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng.
Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng 1 ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó
từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.
-Ngôn ngữ nhân là “tiếng nói nguyên liệu “ còn ngôn ngữ văn học là “ tiếng nói đã được
bàn tay thợ nhào luyện.
(Gorki)
*Sử dụng ngôn ngữ thơ để tạo hình:
Nhịp điệu của câu thơ là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu náo nức xôn xao
và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình.
(Tố Hữu)
*Tính chính xác của ngôn ngữ văn học:
Đối tượng mà anh muốn nói đến dù là cái gì cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó.
(Môpat xăng - Pháp)


*Nhận xét về bài thơ Thu Vịnh:
Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái
trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh mùa
thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu.
(Xuân Diệu)
*Nhận xét về Thu Điếu:
Bài thơ Thu Vịnh có thần hơn hết nhưng ta vẫn phải công nhận bài Thu điếu là điển
hình ơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.
(Xuân Diệu)

*Quan niệm về văn chương:
- Đối với tôi văn chương không phải là 1 cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự
quên ; trái lại, văn chương là 1 thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố
cáo và thay đổi 1 cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và
phong phú hơn.
18 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

(Thạch Lam)
-M.Gorki nói: văn học “ giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin
vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.”
-Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
(Nam Cao – Trăng sáng)


* Bút chiến với nhóm Tự lực văn đoàn:
Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi
muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời.
(Vũ Trọng Phụng)
*Nhận định về”chất thép”trong thơ Hồ Chí Minh:
Khi Bác nói trong thơ có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ.Có lẽ phải
hiểu 1 cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới
có tinh thần thép.

* Ý kiến về văn chương:
Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ
chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.
(Nguyễn văn Siêu)
* Vai trò quan trọng của tình cảm trong thơ:
-Thơ phát khởi trong lòng người ta.(Lê Quý Đôn)
-Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngô Thì Nhậm)
*Quan điểm nghệ thuật văn chương:
-Văn hoá nghệ thuật là 1 mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.(Hồ Chí
Minh)
-Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo 1 vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.
(Nam Cao-Đời thừa)

19 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A


6. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA”
CỦA NAM CAO – NGUYỄN
HOÀNH KHUNG
Đời thừa là truyện về một nhà văn nghèo bất đắc dĩ. Đề tài ấy không thật mới: đương
thời, đã có Mực mài nước mắt (Lan Khai), Nợ văn (Lãng Tử), nhiều trang tuỳ bút của
Nguyễn Tuân, nhiều vần thơ của Tản Đà, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân…, hai câu thơ
rất quen thuộc của Xuân Diệu: “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt – Cơm áo không đùa với
khách thơ”… Tất cả đều đã nói thấm thía về cảnh nghèo túng đáng thương của người
cầm bút.
Đời thừa cũng như một số sáng tác của Nam Cao gần gũi với nó về đề tài, giọng điệu,
tư tưởng: Trăng sáng, Nước mắt, Sống mòn… – đã ghi lại chân thật hình ảnh buồn thảm
của người tri thức tiểu tư sản nghèo. Tuy không đến nỗi quá đen tối, “tối như mực” lắm
khi “đen quánh lại” – chữ dùng của Nguyễn Tuân -, như cuộc sống của quần chúng lao
động thường xuyên đói rét thê thảm, nhưng cuộc sống của những người “lao động áo
trắng”, những “vô sản đeo cổ cồn” đó cũng toàn một màu xám nhức nhối: “không tối
đen mà xam xám nhờ nhờ” (Xuân Diệu). Vì nghèo túng triền miên, vì “chết mòn” về
tinh thần.
Trong bức tranh chung về cuộc sống người tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã góp vào
những nét bút rất mực chân thật và sắc sảo, làm cho hình ảnh vừa bi vừa hài của lớp
người này trở nên đầy ám ảnh.
Trong mảng sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao, Đời thừa có một vị trí đặc biệt.
Cũng như tiểu thuyết Sống mòn, Đời thừa là sự tổng hợp của ngòi bút Nam Cao trong
đề tài tiểu tư sản, là tác phẩm đã thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật cơ bản của
nhà văn. Có điều, trong khuôn khổ truyện ngắn, sự tổng hợp ấy không xảy ra trên bề
rộng mà chủ yếu tập trung đi vào bề sâu.
Giá trị của Đời thừa không phải chỉ ở chỗ đã miêu tả chân thật cuộc sống nghèo khổ, bế
tắc của người trí thức tiểu tư sản nghèo, đã viết về người tiểu tư sản không phải với ngòi
bút vuốt ve, thi vị hoá, mà còn vạch ra cả những thói xấu của họ v.v…
Cách nói đó dường như xác đáng, song chỉ thấy một lớp ý nghĩa, lớp thứ nhất, lớp bên

trên của tác phẩm. Mà với Nam Cao, cách nhìn như vậy thật tai hại, vì nó “bất cập”, vô
tình thu hẹp và hạ thấp rất nhiều tầm tư tưởng của truyện. Khác với các tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, truyện của Nam Cao thuộc loại có
nhiều lớp nghĩa, tư tưởng truyện không phải luôn trùng khít với nội dung cuộc sống
đựơc phản ánh trong truyện. Trong khi dựng lại chân thật tình cảnh nhếch nhác của
người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần
của họ, qua đó, đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc.
Chuyện Hộ “mê văn”, có “hoài bão lớn” về văn chương và khao khát tên tuổi chói sáng,
là một hiện tượng phổ biến, có ý nghĩa điển hình.
20 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

[…]
Với Đời thừa (sau đó là Sống mòn), Nam Cao đã đề cập gần như trực diện tới vấn đề cá
nhân, nói lên yêu cầu được khẳng định và phát triển của cá nhân – vấn đề mà lâu nay,
người ta tưởng đâu chỉ đặt ra trong văn học lãng mạn đương thời.
Quả là chủ đề cá nhân không có trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
nhưng lại là chu đề tâm huyết của Nam Cao. Và niềm khao khát được làm đầy trái tim,
khao khát được sống mạnh mẽ, sâu sắc, chói sáng, vượt lên trên cái bằng phẳng tầm
thường, sự ghê sợ điệu sống mòn mỏi, đơn điệu, vô vị…, là những điều da diết ở tác giả
Phấn thông vàng, Kinh cầu nguyện của những kẻ đi làm, tác giả Thiếu quê hương, Tuỳ
bút (I, II), Chiếc lư đồng mắt cua…, nhưng cũng chính là những điều nung nấu ở tác giả
Đời thừa, Sống mòn. Chủ đề ấy chính là một biểu hiện mới mẻ của chủ nghĩa nhân đạo
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX này. Có điều là, nếu như phần nhiều cái “tôi” trong
văn học lãng mạn trong khi giãy giụa “nổi loạn” “chống lại xã hội thù địch với nó, nó
càng ngày càng khép kín, chỉ còn tự thực hiện và tự “phát triển” trong sự đối lập với xã

hội; thì ở Nam Cao, yêu cầu khẳng định và phát triển cá nhân luôn gắn liền với trách
nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân tạo tiến bộ. Hoài bão cá nhân mà Hộ say mê đạt
tới để tự khẳng định trước cuộc đời là một sự nghiệp văn chương, nhưng là thứ văn
chương chân chính, mang tinh thần nhân đạo cao đẹp, “nó ca ngợi tình thương, lòng bác
ái, sự công bình”…
Có lẽ trong văn học đương thời, không ai ngoài Nam Cao đã đặt ra vấn đề cá nhân một
cách đúng đắn và tiến bộ như vậy.
Nhưng cái xã hội ấy nếu kích thích sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì đồng thời, đã đẩy cá
nhân vào tình trạng bị đè bẹp. Đó là tất cả tấn bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm trong đời
sống tinh thần thế hệ 1930 khi đó.
“Hoài bão lớn” mà Hộ quyết đạt tới bằng một ý chí phi thường đã không thể thực hiện
được. Hộ gặp Từ giữa lúc người con gái bất hạnh đó đang “đau đớn không bờ bến”: bị
một gã Sở Khanh bỏ rơi với đứa bé mới đẻ… Hộ đã “cuối xuống nỗi đau khổ của Từ
(…) mở rộng đôi cánh tay đón lấy Từ”. Trước số phận đau khổ của con gnười, anh
không còn có thể coi “nghệ thuật là tất cả” mà đã hành động như một con người chân
chính. Nhưng điều đó đã gây nên nguy cơ phá hỏng sự nghiệp của anh. Từ khi “ghép
cuộc đời của Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo”. Hộ không
thể “khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất” như trước đây, mà trái lại, phải ra sức
kiếm tiền. Và “những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lí nhưng không thể không nghĩ tới,
ngốn một phần lớn thì giờ của hắn”. Nhưng không phải chỉ thì giờ.
Vì phải kiếm tiền – trong điều kiện, khả năng của Hộ, cách kiếm tiền duy nhất là sáng
tác – Hộ không thể viết thận trọng, nghiêm túc theo yêu cầu của nghệ thuật chân chính.
Anh “phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng (…) phải viết những bài báo để người ta
đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”. Đây là điều vô cùng đau đớn với một người như Hộ.
Không phải anh không được viết, mà là phải viết thứ văn chương mà một người có lí
21 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn


H.A.N.N.A.P.A

tưởng nghệ thuật cao đẹp, có lương tâm nghề nghiệp, có khát vọng vươn tới đỉnh cao
nghệ thụât như anh, không thể nào chấp nhận được. Thế là, Hộ đã phản bội lại chính
mình. Nhà văn chân chính nơi anh cảm thấy hết sức đau đớn, nhục nhã chứng kiến gã
“bất lương”, “đê tiện” cũng chính là anh đang làm thứ hàng giả: “Chao ôi! Hắn đã viết
những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn
một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi.
Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến cho văn chương”.
Là người hiểu rất rõ viết văn là một hoạt động sáng tạo không ngừng, phải “khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”, Hộ cay đắng nhận ra rằng mình
“là một kẻ vô ích, một người thừa”, bởi vì, “hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đên cho
văn chương”. Người nghệ sĩ sáng tạo trước đây trong Hộ đã chết. Hộ đau buồn vô hạn
vì cảm thấy đời mình đã bỏ đi, không gì cứu vãn được: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta
đã hỏng đứt rồi!”. Tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ là ở đó.
Đây không phải chỉ là bi kịch của một nhà văn không thành đạt, cũng không phải là bi
kịch “vỡ mộng” của những chàng trai nghèo tỉnh lẻ cay cú muốn nhập vào xã hội
thượng lưu Pari nhưng bị ném trả tàn nhẫn trong tác phẩm của Banzắc. Đây là bi kịch
của con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn vươn lên một cuộc sống chân chính,
trong đó cá nhân được phát triển bằng sự nghiệp tinh thần có ích cho xã hội, nhưng đã
bị nhấn chìm trong lối sống mà anh ta rất khinh ghét vì không xứng đáng với con người.
“Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì để nâng cao giá trị đời sống
của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”. Trong
Sống mòn, cuốn tiểu thuyết dày dặn đã triển khai một cách hệ thống chủ đề này, tiếng
kêu đó lại cất lên một cách thống thiết: “Đau đớn thay những kiếp sống khao khát muốn
lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất!” Cũng như nhà văn Hộ, anh giáo Thứ đau đớn
vì cuộc đời khốn nạn cứ bắt anh phải sống “cái lối sống quá ư loài vật, chẳng biết một
việc gì ngoài cái việc đổ thức ăn vào dạ dày”! Đó là nỗi đau tinh thần to lớn, không
nguôi và không gì có thể xoa dịu được đối với người trí thức khát khao sáng tạo, khát
khao khẳng định trước cuộc đời “khao khát muốn lên cao”…

Xoáy sâu vào bi kịch tinh thần này, Nam Cao đã lên án sâu sắc cái hiện thực tàn nhẫn
đã vùi dập mọi ước mơ, hoài bão của con người, tước đi ý nghĩa sự sống chân chính thật
sự xứng đáng với con người.
*
*
*
Nhưng tấn bi kịch tinh thần của nhà văn Hộ không chỉ có thế. Từ cái bi kịch đau đớn dai
dẳng vì phải sống cuộc “đời thừa”, Hộ cũng đã lâm vào một bi kịch thứ hai cũng rất đau
đớn, thậm chí, đau đớn hơn nữa. Đó là bi kịch của con người coi tình thương là nguyên
tắc, là đạo lí cao nhất, nhưng lại vi phạm vào chính nguyên tắc, đạo lí thiêng liêng đó
của mình.
22 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

Trước mắt Hộ, có một con đường giải thoát: thoát li vợ con. Có thế anh mới có thể rảnh
rang theo đuổi sự nghiệp văn chương là lẽ sống của đời anh. Tức là để đạt được “hoài
bão lớn”, thực hiện được lí tưởng mà anh hằng say mê, anh phải tự gỡ bỏ sợi dây ràng
buộc của tình thương. Đã có cả một triết lí cao siêu, đầy hấp dẫn bênh vực, khuyến
khích anh làm điều đó. Một triết gia nổi tiếng phương Tây đã ném ra câu nói hùng hồn:
“Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Câu nói có giọng điệu của chủ nghĩa
siêu nhân của Nitsơ, tư tưởng gia tiền bối của chủ nghĩa phát xít đó, không phải không
có sức hấp dẫn đối với những kẻ đang khát khao “sống cho mạnh mẽ”, khao khát khẳng
định cá nhân như Hộ.
Nhưng mặc dù nỗi đau đớn vì “đời thừa” to lớn đến đâu, nỗi mong mỏi được giải thoát
mãnh liệt đến đâu. Hộ vẫn không thể lựa chọn cách giải quyết ấy. Bởi vì, thoát li vợ con
để rảnh thân – dù là vì gì chăng nữa – vẫn cứ là tàn nhẫn, vứt bỏ lòng thương. “Hắn có

thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỉ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ
hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người”. Như vậy là,
với Hộ, tình thương là tiêu chuẩn xác định tư cách làm người; không có tình thương,
con người chỉ là “một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái”. Khi cuộc đời tàn nhẫn
buộc anh phải lựa chọn một trong hai thứ: nghệ thuật và tình thương, anh đã hi sinh
nghệ thuật để giữ lấy tình thương, hi sinh lẽ sống thứ nhất cho lẽ sống thứ hai, dù đây là
sự hi sinh quá lớn đối với anh. Như vậy là, một lần nữa, người nghệ sĩ say mê lí tưởng
nghệ thuật, có thể hi sinh tất cả cho nghệ thuật ấy, đã hi sinh nghệ thuật cho tình
thương, cái mà anh còn thấy cao hơn cả nghệ thuật. Việc dứt khoát đặt tình thương,
trách nhiệm đối với con người lên trên nghệ thuật như vậy, cũng như lời phát biểu của
Hộ về thế nào là một tác phẩm văn chương “thật giá trị” cho thấy cái gốc nhân đạo sâu
vững của nhà văn lớn Nam Cao.
Sự lựa chọn của Hộ ở đây khó khăn, phức tạp và cao hơn sự lựa chọn của Điền trong
Trăng sáng. Ở Điền là sự lựa chọn giữa hai con đường nghệ thuật: lãng mạn thoát li và
hiện thực nhân đạo; lựa chọn giữa hai lối sống: hưởng lạc, phù phiếm, chạy theo sự
quyến rũ của những “người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những cái ghế xích đu, nhún
nhẩy”, phản bội lại vợ con và tất cả những người nghèo khổ lam lũ lầm than, hay trở về
chỗ đứng giữa họ, chung thuỷ với họ. Từ bỏ nghệ thuật lãng mạn thoát li để đến với
nghệ thuật hiện thực, với Điền, là cưỡng lại sự quyến rũ tội lỗi, là sự thức tỉnh của
lương tâm, sự giác ngộ của tâm hồn. Sự lựa chọn ấy đem đến cho Điền niềm yên tâm và
sức mạnh mới.
Ở Hộ có khác. Anh từ bỏ nghệ thuật không phải như từ bỏ một đam mê tội lỗi, cũng
không phải như từ bỏ một sở thích, sở nguyện. Nghệ thuật với anh có ý nghĩa lớn lao,
thiêng liêng hơn nhiều. Đó là lẽ sống đời anh, là lí tưởng anh hằng theo đuổi, là cái
chứng tỏ sự có mặt của anh trên cõi đời này. Chính vì vậy mà, tuy Hộ không băn khoăn
nhiều khi phải lựa chọn tình thương, trách nhiệm thay cho nghệ thuật, khi từ chối lời
kêu gọi thoát li vợ con để được “sống cho mạnh mẽ” và thực hiện “hoài bão lớn” của
23 | P a g e



Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

đời mình, nhưng sau sự lựa chọn ấy anh không thể yên tâm thanh thản mà vẫn đau khổ
dai dẳng, lúc ngấm ngầm âm ỉ, lúc nhói lên dữ dội. Và anh cứ bị giày vò bởi mặc cảm
cay đắng là đang sống một cách vô ích, vô nghĩa, là “một người thừa”. Con người “khao
khát bay lên cao” và không thiếu tài năng và ý chí để thực hiện khao khát của mình ấy
làm sao không đau khổ u uất trong tình cảnh đó? Hộ đã cố hi vọng sau vài năm bỏ phí
để kiếm tiền, cho người vợ có được cái vốn con để làm ăn, anh lại có thể trở lại với con
đường sự nghiệp của mình. Nhưng cuộc sống cơm áo ngày càng chẳng dễ dàng khiến
cho hi vọng của Hộ trở thành hão huyền và tình cảnh của Hộ trở nên hoàn toàn bế tắc.
Gánh nặng cơm áo chẳng hề nhẹ đi mà cứ ngày càng nặng thêm mãi: “Đứa con này
chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài,
quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. (…) Hộ điên người lên vì
phải xoay tiền”. Và những “bận rôn tẹp nhẹp vô nghĩa lí” đó chẳng những làm tiêu tan
hi vọng về sự nghiệp của Hộ mà còn thường xuyên phá hoại sự yên tĩnh, thư thái của
tâm hồn là điều rất quan trọng đối với người trí thức sáng tạo: “ Hắn còn điên lên vì con
khóc, nhà không lúc nào yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá,
bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ
ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà,
hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra
phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”. Đi ra phố để thoát khỏi “không khí bực tức ở trong nhà”
hay tìm người bạn nào để nói chuyện văn chương cho vơi nỗi lòng, nhưng chẳng đi đâu
trốn được bản thân mình, Hộ chỉ càng nung nấu thêm tâm sự u sầu: “Hắn lặng lẽ nghĩ
đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ
phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ
quê hương (…) Lòng hắn rũ buồn”…
Như một thông lệ, người nghệ sĩ bất đắc chí ấy tìm đến sự giải sầu giải uất trong men
rượu. Nhưng cả rượu cũng chẳng làm vơi đi mà chỉ như càng làm cho anh thấm thía

thêm nỗi khổ sở đắng cay của mình. Và anh trút nó vào vợ con mà anh thấy là nguồn
gốc trực tiếp của tình cảnh bế tắc của đời anh. Con người giàu tình thương, đã từng hi
sinh những gì quý giá, thiêng liêng của mình cho tình thương và trách nhiệm đối với vợ
con đó, đã hơn một lần đối xử phũ phàng thô bạo với vợ con mình, như một gã vô lại.
Anh đã gây khổ cho người vợ rất đáng thương, “rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm”
đối với anh và cũng khổ sở không kém gì anh. Tức là anh đã vi phạm vào nguyên tắc,
đạo lí làm người cao nhất của chính mình.
Thành ra muốn “nâng cao giá trị sự sống” bằng cao vọng về sự nghiệp thì cứ phải sống
như một kẻ “vô ích”, một “người thừa”; chỉ còn cò thể cố giữ lấy tình thương như là lẽ
sống cuối cùng thì lại cứ tàn nhẫn, luôn gây khổ cho những người cần được yêu thương,
đáng được yêu thương.
Cái bi kịch thứ nhất – không thực hiện được hoài bão lớn – tuy rất đau đớn nhưng còn lí
do để an ủi: hi sinh sự nghiệp vì tình thương,c òn bi kịch thứ hai này – lẽ sống tình
24 | P a g e


Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn

H.A.N.N.A.P.A

thương bị vi phạm – thì không có gì an ủi, biện hộ được. Và nếu Hộ phải từ bỏ con
đường sự nghiệp là do áp lực của hoàn cảnh, thì sự vi phạm vào nguyên tắc tình thương
lại trực tiếp do bản thân anh. Vì thế mà nó chua xót vô cùng,. Tỉnh rượu, nhớ lại hành vi
của mình, Hộ hối hận tới đau đớn. Khi rón rén bước lại gần người vợ đang nằm bế con
ngủ mệt trên võng, nhận ra từ cái “dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não”, “cái tướng
vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ”, từ khuôn mặt xanh xao, có cạnh, có đôi mắt thâm
quầng, đến bàn tay “xanh trong xanh lọc”, “lủng củng rặt những xương”…, tất cả đều
“lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả”, “một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật
vật”, Hộ đã “khóc núc nở”, nước mắt “bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp
mạnh”… Anh đau đớn vì nghĩ đến lối cư xử tồi tệ của mình đối với người vợ đáng phải

được anh an ủi, che chở đó… Tiếng khóc của Hộ, cũng giống như tiếng khóc của nhân
vật Thứ trong Sống mòn – nghe tin Đích ốm nặng, Thứ thầm mong Đích chết, và ngay
lúc ấy, Thứ đã khóc -, là những tiếng khóc “khóc cho cái chết của tâm hồn”. Hộ nghẹn
ngào nói với Từ, giọng nói đẫm nước mắt: “Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn
nạn”. Anh không thể nào tha thứ cho mình.
Trong sáng tác, Nam Cao đã nhiều lần đề ập và ca ngợi nuớc mắt. Nhân vật tiểu tư sản
của ông có không ít tật xấu và lỗi lầm, nhung thường là những người hay bị hối hận
giày vò và thường khóc vì hối hận. Đó không phải là thứ “hối hận” ồn ào hời hợt của
những kẻ lấy việc xỉ vả mình để khoe khoang; cũng không phải thứ hối hận có chu kì củ
nhiều kẻ tiểu tư sản dùng để xoa dịu cái lương tâm rách nát của mình trong khi vẫn
buông mình theo cái xấu. Mà đó là sự giằng xé chảy máu của những tâm hồn trung
thực, khát khao hướng thiện. Với Nam Cao, nước mắt là biểu tượng của tình thương và
ông gọi nước mắt là “giọt châu của loaì người”, là “miếng kính biến hình vũ trụ”. Giọt
nước mắt của Hộ lúc này đã thanh lọc tâm hồn, nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lai
trước vực thẩm sa ngã.
Điều đáng chú ý là trong khi miêu tả rất chân thực tình trạng con người bị đẩy vào chỗ
phải tàn nhẫn, Nam Cao vẫn dứt khoát lên án cái ác, bảo vệ tình thương. Nếu đương
thời, không ít cây bút gọi là “tả chân”, là “xã hội”, đã đồng tình, biện hộ và đề cao
những nhân vật vứt bỏ lương tâm, vứt tình thương yêu đồng loại, tự cho phép làm điều
ác nhân danh sự trả thù xã hội bất công tàn bạo, thì Nam Cao trước sau không bao giờ
chấp nhận cái ác. Nhân vật của ông dù lâm vào tình thế bi kịch bế tắc, vẫn vật vã quằn
quại cố vươn lên lẽ sống nhân đạo.
Song, nước mắt chỉ là… nước mắt; nó đâu phải là sức mạnh vạn năng để có thể xoay lại
cuộc đời, cứu được loài người! Nhân vật của Nam Cao vẫn bế tắc và bi kịch của họ
không cách gì gỡ ra được. Tác phẩm của Nam Cao không mở ra triển vọng cho sự giải
thoát. Và thực ra, làm cho con người “thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và cái
rét” (Sống mòn), để không chỉ hoạt động kiếm sống trong “vương quốc tất yếu” mà còn
có thể bước ra hoạt động trong “vương quốc tự do” – the cách nói của Mác – để con
người có thể phát triển tự do và toàn diện, là việc mà lịch sử không dễ dàng thực hiện.
25 | P a g e



×