Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU TRÂM

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUỸ THỜI GIAN RỖI
CỦA NỮ VIÊN CHỨC TRONG NGÀNH GIÁO DỤC
(TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI PHÂN HIỆU HỌC VIỆN
PHỤ NỮ VIỆT NAM VÀ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU TRÂM

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUỸ THỜI GIAN RỖI
CỦA NỮ VIÊN CHỨC TRONG NGÀNH GIÁO DỤC
(TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI PHÂN HIỆU HỌC VIỆN
PHỤ NỮ VIỆT NAM VÀ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II)
Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số

: 60.31.03.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN CÔNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
Quý Thầy Cô của Học viện Khoa học xã hội, lãnh đạo của đơn vị và đồng nghiệp
cùng với bạn bè,… đã luôn quan tâm, động viên, chia sẻ và hỗ trợ kịp thời cho tôi
trong suốt thời gian thực hiện đề tài.Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến TS. Lê Văn Công đã hết sức tận tâm, sâu sát, thường xuyên chỉ dẫn tận tình để
tôi hoàn tất các nội dung của luận văn đúng yêu cầu. Với sự hướng dẫn nhiệt tình và
trách nhiệm của Thầy đã giúp tôi bổ sung thêm vốn kiến thức thiết thực qua việc
thực hành trong từng giai đoạn của đề tài, đây là những hành trang quý giá để tôi có
thể vận dụng cho công việc của mình tốt hơn trong thời gian tới.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả Quý Thầy Cô Khoa xã hội học đã luôn theo
dõi, chia sẻ thông tin kịp thời liên quan quan đến việc thực hiện đề tài và sẵn sàng
hỗ trợ cho khi chúng tôi cần giúp đỡ.
Xin được gửi lời cảm ơn đến toàn thể nữ viên chức của 2 đơn vị: Phân hiệu Học
viện phụ nữ Việt Nam và Học viện Chính trị khu vực II đã sẳn sàng tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong việc thu thập thông tin để hoàn thành nghiên cứu của mình.
Tuy đã cố gắng rất nhiều nhưng do khả năng của bản thân còn nhiều hạn chế
nên đề tài khó tránh khỏi được những sai sót, vì vậy rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của Quý Thầy Cô, đồng nghiệp, bạn bè,…để báo cáo được
hoàn thiện tốt hơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2017
Học viên


Phạm Thị Thu Trâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ....................................14
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 14
1.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................ 22
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THỜI
GIAN RỖI CỦA NỮ VIÊN CHỨC .......................................................................23
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 22
2.2. Các thông tin nhân khẩu học và mối tương quan với thực trạng thời gian rỗi của
nữ viên chức. ........................................................................... 23_Toc475775376
2.3. Hoạt động giải trí trong thời gian rỗi ............................................................ 34
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ viên chức.... 35_Toc475775394
2.5. Bản chất, nguyên nhân ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi .................. 50
Chƣơng 3: NHỮNG CÁCH THỨC MÀ NỮ VIÊN CHỨC LINH HOẠT SỬ
DỤNG ĐỂ TẠO THỜI GIAN RỖI CHO BẢN THÂN .......................................52
3.1. Cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để tạo thời gian rỗi........... 52
3.2. Các mong muốn của nữ viên chức liên quan đến quỹ thời gian rỗi ................ 60
KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP .................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................1

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Độ tuổi nữ viên chức theo nhóm ..............................................................23
Bảng 2.2. So sánh chéo về thời gian rỗi theo độ tuổi của nữ viên chức ...................23

Bảng 2.3. Phân bố về trình độ học vấn của nữ viên chức .........................................25
Bảng 2.4: So sánh chéo về thời gian rỗi trên ngày theo trình độ học vấn ................25
Bảng 2.5 Tình trạng hôn nhân của nữ viên chức ......................................................26
Bảng 2.6. So sánh chéo về thời gian rỗi theo trình trạng hôn nhân gia đình ............26
Bảng 2.7. Phần trăm về thu nhập bình quân theo nhóm của nữ viên chức ...............27
Bảng 2.8. So sách chéo thời gian rỗi theo thu nhập của nữ viên chức .....................28
Bảng 2.9. Về tình trạng cư trú của gia đình nữ viên chức ........................................29
Bảng 2.10. So sánh chéo thời gian rỗi và tình trạng cư trú của nữ viên chức ..........29
Bảng 2.11. Công việc nữ viên chức thường làm sau giờ làm việc cơ quan ..............30
Bảng 2.12. Mức độ ưu tiên cho các hoạt động hàng ngày sau giờ làm ở cơ quan....31
Bảng 2.13. Các hoạt động thường làm trong ngày nghỉ ...........................................32
Bảng 2.14. Các hoạt động giải trí trong thời gian rỗi của nữ viên chức ...................34
Bảng 2.15. Bảng đánh giá mức độ về thời gian rỗi hiện nay ....................................35
Bảng 2.16. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ viên chức .....................36
Bảng 2.17. Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi ..............50
Bảng 3.1. Cách giải quyết công việc chuyên môn hàng ngày ..................................52
Bảng 3.2. Cách giải quyết trong công việc nhà để tăng thời gian rỗi .......................54
Bảng 3.3. Các cách thức khác để tăng thời gian rỗi ..................................................58
Bảng 3.4. Mong muốn của nữ viên chức đối với người thân trong gia đình ............60
Bảng 3.5. Mong muốn đối với người chồng và các thành viên sống trong gia đình 62
Bảng 3.6. Mong muốn của nữ viên chức đối với cơ quan - nơi làm việc .................64
Bảng 3.7. Mong muốn trong việc hỗ trợ dịch vụ chăm sóc trẻ .................................66
Bảng 3.8. Mong muốn nữ viên chức đối với các chính sách nhà nước ....................67


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục
phát huy và khẳng định vai trò, vị trí của mình trong sự phát triển chung của đất
nước. Đây thực sự là cơ hội nhưng đồng thời cũng là một thách thức đối với họ. Cơ

hội được thể hiện ở chỗ phụ nữ được tham gia trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của
xã như: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng,..Thách thức mà
phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng còn phải đối mặt đó là họ phải thực
hiện vai trò “kép”, ngoài ra họ còn phải thực hiện thiên chức mà thiên nhiên tạo hóa
đã đem đến cho phụ nữ. Trong thực tế, để tham gia vào thị trường lao động trong
thời kỳ mới với cơ chế cạnh tranh hiện nay đòi hỏi người phụ nữ phải thực sự có
năng lực, có trình độ chuyên môn ngày càng cao.
Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ mới, bên cạnh các công việc tại cơ quan mà
họ đảm trách, họ còn phải thực hiện thiên chức của người mẹ và người vợ: đó chính
là sinh con và nuôi dưỡng, chăm sóc con trong những năm tháng đầu đời, đồng thời
đóng vai trò người vợ trong gia đình.
Không những vậy, nữ viên chức còn phải gánh vác các công việc nhà, tổ
chức cuộc sống gia đình, chăm sóc các thành viên trong gia đình trong lúc bình
thường cũng như trong lúc đau ốm, bệnh tật, thực hiện chức năng nuôi dưỡng, giáo
dục con cái cho đến lúc trưởng thành, … Đây là những công việc chiếm rất nhiều
thời gian, tâm trí và sức lực của người phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng
trong điều kiện xã hội hiện nay. Bên cạnh đó, các công việc mang tính cộng đồng
mà phụ nữ phải tham gia như trong các mối quan hệ họ hàng, dòng họ, làng xóm,
bạn bè…. Với những nhóm công việc nêu trên đã góp phần làm cho quỹ thời gian
của người phụ nữ càng thêm thu hẹp.
Đối với nữ viên chức trong ngành giáo dục, do đặc thù của ngành trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập, việc này đòi hỏi ngày càng nhiều về chuyên môn để thực
hiện công việc. Do vậy, nữ viên chức trong ngành giáo dục cần có nhiều thời gian
đầu tư để nâng cao chất lượng trong hoạt động của mình bằng nhiều phương cách

1


khác nhau như: Học tập nâng cao trình độ cho nghề nghiệp của bản thân, cập nhật
thông tin, kiến thức có liên quan phục vụ cho công việc, và tham gia nghiên cứu

khoa học…Ngoài ra, trong xu thế phát triển không ngừng và hội nhập hiện nay, đòi
hỏi đội ngũ viên chức phải đạt chuẩn cao hơn. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu công
việc, tiếp tục phát triển chuyên môn nghề nghiệp và thích ứng với yêu cầu thực tế
của xã hội, nữ viên chức phải liên tục tự hoàn thiện bản thân và nhanh chóng thích
nghi với sự đổi mới, nhằm đáp ứng tốt hơn nữa các yêu cầu về tiêu chuẩn do hệ
thống giáo dục đặt ra trong thời kỳ mới. Chính vì thế mà thời gian cho bản thân
không còn nhiều.
Trong thực tế, bên cạnh công việc chuyên môn mà nữ viên chức trong ngành
giáo dục phải đảm nhận, họ đồng thời còn phải thực hiện thiên chức của người phụ
nữ. Ngoài ra, họ còn phải đảm đương các công việc gia đình, cộng đồng và các hoạt
động xã hội khác... Với những công việc mang tính thường xuyên đã nêu trên đã dẫn
đến tình trạng quá tải của nữ viên chức, trong khi quỹ thời gian trong ngày của họ là
một hằng số không đổi và có hạn theo quy luật tự nhiên. Do vậy, để có thể hoàn thành
được tất cả các công việc và vai trò nêu trên thì thời gian rỗi của nữ viên chức nhất định
sẽ bị thu hẹp rất nhiều. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến quỹ thời gian rỗi của nữ
viên chức dành cho việc tái phục hồi thể lực, tinh thần để chuẩn bị cho một ngày mới
làm việc, học tập, trao dồi kiến thức…hiệu quả và có chất lượng.
Chính vì thế, tôi chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của
nữ viên chức trong ngành giáo dục” tại Phân hiệu Học viện Phụ Nữ Việt Nam và Học
viện Chính trị khu vực II. Đề tài tìm hiểu những yếu tố tác động, chi phối đến việc sử
dụng thời gian rỗi của nữ viên chức và cách thức nữ viên chức linh hoạt thích ứng
nhằm tạo ra thời gian rỗi cho bản thân. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất giải
pháp để cải thiện quỹ thời gian rỗi cho nữ viên chức trong ngành giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu
Có nhiều sách, nghiên cứu, bài viết của các tác giả trong và ngoài nước đề
cập đến nội dung sử dụng thời gian của các nhóm xã hội trong các hoạt động hàng
ngày, cũng như thời gian cho việc giải trí để lấy lại sự cân bằng về thể chất và tinh

2



thần sau một ngày làm việc, đặc biệt là những nghiên cứu, bài viết về sự khác biệt
giữa nam và nữ trong việc sử dụng quỹ thời gian hàng ngày, trong đó có thời gian
rỗi …Phần tổng quan về các nghiên cứu có liên quan sẽ được đề cập sau đây.
2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Chris Rojek (2005), đã đưa những khái niệm then chốt về loại hình thời gian
rỗi. Ông đưa ra một khung khái niệm rõ ràng nhằm mô tả hoạt động định hình hành
vi giải trí thông qua cuộc sống thực tế, bao hàm quan niệm thực tế về thời gian rỗi
như ý nghĩa của sự tự do, việc lựa chọn, quyền tự quyết và nhấn mạnh về đặc điểm
của nó trong những tình huống cụ thể. Đồng thời ông cũng giải thích vai trò của các
yếu tố: giai cấp, giới, dân tộc và địa vị trong mô hình thời gian rỗi. Tác giả kết luận
thời gian rỗi có mối quan hệ mật thiết với nguồn lực kinh tế, văn hóa và đó là hai
yếu tố chi phối sự lựa chọn và thực hiện các hoạt động giải trí của con người [49].
Iwasaki và những người khác (2005), đã xem xét việc sử dụng thời gian rỗi
của phụ nữ và nam giới trong lĩnh vực quản lý, các tác giả đã chỉ ra rõ có sự khác
biệt về giới trong sử dụng thời gian rỗi và các cách khác nhau mà nữ giới và nam
giới đối phó với những căng thẳng trong cuộc sống. Họ đưa ra kết luận hoạt động
giải trí là một biện pháp quan trọng nhằm giải tỏa căng thẳng cho cả hai giới nam và
nữ. Mặc dù, những căng thẳng mà cả nam và nữ đang phải đối mặt từ thực tế cuộc
sống có nhiều điểm chung song cơ chế sử dụng thời gian rỗi và hình thức giải trí ở
mỗi giới lại khác nhau [51].
Francois Houtart & Geneviève Lemercinier, (2001) đưa ra khái niệm thời
gian tự do đối với dân nông thôn [52, tr.311- 330], các tác giả đã phân biệt rõ thời
gian “lao động nghề nghiệp” với thời gian được gọi là “tự do”, đồng thời họ cho
thấy một phần của thời gian “tự do” là những hoạt động nhằm tái sản xuất sức lao
động. Tác giả nhận định rằng: khả năng, thái độ và giá trị bộc lộ ra qua việc lựa
chọn các hoạt động trong thời gian tự do của từng nhóm người trong xã hội có sự
khác biệt. Đồng thời, họ nhận định rằng nó phụ thuộc vào trình độ của cá nhân bên
cạnh những điều kiện khách quan của môi trường sống. Nghiên cứu chỉ ra rằng


3


những người dân nông thôn trình độ văn hóa đạt trung học có cách sử dụng thời
gian rỗi một cách trí tuệ hơn.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chu Khác (1988), bàn về vấn đề quỹ thời gian trong sinh hoạt gia đình hàng
ngày trong bài viết tác giả đã nêu quan điểm về thời gian rỗi, cơ cấu quỹ thời gian.
Đồng thời ông nêu tầm quan trọng của những thành tựu của khoa học kỹ thuật có
ảnh hưởng như thế nào hoạt động trong thời gian rỗi. Nghiên cứu đã chỉ ra sự chênh
lệch trong việc sử dụng thời gian giữa nam và nữ, phân tích cơ cấu quỹ thời gian
theo giới trong các hoạt động hàng ngày. Qua đó tác giả cho thấy có sự khác biệt
trong việc sử dụng thời gian rỗi theo giới của các nhóm trong cơ cấu phân tầng xã
hội. Tác giả nhận định cần thiết tăng thêm quỹ thời gian rỗi của nữ giới nhằm giúp
phục hồi thể lực, phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách; tác giả đã đề xuất các
giải pháp nhằm cải thiện thực hiện quỹ thời gian của nữ giới, trong đó có việc tăng
dần thời gian rỗi[7].
Tương tự như trên, tác giả Hà Thị Minh Khương (2007), nhận định rằng: có
khoảng cách chênh lệch và khác biệt giữa nam nữ trong việc sử dụng thời gian rỗi ở
hầu hết các hoạt động giải trí. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng hoạt động trong thời gian
rỗi không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân mỗi giới mà còn bị tác động bởi nhiều
yếu tố như địa vị kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa và điều kiện sống mỗi cá
nhân [8, tr.20-34].
Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh, (2008), trong nghiên cứu về chủ đề
thời gian rỗi, tác giả nhận định rằng: có sự khác biệt giữa nam và nữ trong việc sử
dụng thời gian rỗi, thể hiện ở hầu hết các hoạt động hàng ngày. Phụ nữ ở nông thôn
và Dân tộc thiểu số ít có điều kiện để tham gia các hoạt động giải trí trong thời gian
rỗi hơn so với phụ nữ ở thành thị và là người Kinh. Phụ nữ ít tham gia các hoạt
động giải trí trong thời gian rỗi hơn nam giới ở tất cả các nhóm[1, tr.328-350].
Bùi Thế Cường, Trần Đan Tâm, Lê Thanh Sang, (2009), khi nghiên cứu về

sử dụng thời gian rỗi trong phân tích theo giới, nghiên cứu chỉ ra rằng: mức hưởng
thụ và vui chơi giải trí của nam giới nhiều hơn nữ [6, tr.11-17]. Đó là những kết

4


luận được rút ra khi nghiên cứu sử dụng thời gian rỗi được thể hiện trong 3 nhóm
hoạt động như: sử dụng phương tiện truyền thông (tivi, radio, báo chí, băng đĩa);
giao tiếp kiểu giải trí (uống cà phê và nhậu); giao tiếp tinh thần (thăm gia đình, họ
hàng, lối xóm, bạn bè).
Hồ Ngọc Châm, (2015), tác giả đã chỉ ra rằng: do phụ nữ dành nhiều thời
gian cho công việc không được trả công trong gia đình so với nam giới. Qua nhận
định của tác giả về điều này, cho thấy rằng, việc đảm trách hầu hết các công việc
gia đình của phụ nữ là một trong các nhân tố làm ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi
của họ[4, tr.81-90].
Đỗ Thị Thuỷ, (2009), tác giả nhận định rằng phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa
học có những khó khăn như: yếu tố thiếu thời gian do phải thực hiện thiên chức của
người phụ nữ và thực hiện công việc gia đình, chăm sóc con cái, người lớn tuổi trong
gia đình…do đó dẫn đến sự quá tải về sức lực, thiếu thời gian nghỉ ngơi, [43].
Lưu Song Hà, (2014), cho thấy rằng: người phụ nữ gánh nặng hai vai trò trên
cả hai vai. Qua kết quả nghiên cứu, khảo sát, tác giả đi đến kết luận rằng: mặc dù đã
có sự chia sẻ trong việc thực hiện các công việc gia đình, tuy nhiên, người thực hiện
chính vẫn là người vợ. Điều này chỉ ra rằng: những công việc nội trợ-những việc
mang tính thường xuyên và chiếm nhiều thời gian nghỉ ngơi, đó là một gánh nặng
của phụ nữ [32].
Bùi Thị Mai Đông, (2015), cho rằng: do phụ nữ là người gánh vác chính
trong thực hiện hầu hết các công việc nội trợ và dành nhiều thời gian cho công việc
gia đình, do vậy họ phải tính toán đến việc thực hiện nhiều công việc trong cùng
một thời gian như đi chợ, nấu ăn, giặt đồ, dọn dẹp nhà cửa, trông con, dạy cho con
học, chăm sóc người già, người ốm…Điều này khiến họ luôn thiếu thời gian và mệt

mỏi. Đồng thời, tác giả đã đưa ra định hướng nhằm hỗ trợ phụ nữ phát huy vai trò
đó là việc các thành viên trong gia đình và xã hội cần tạo điều kiện để phụ nữ có
thời gian học tập, tham gia các hoạt động xã hội, có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi,
giải trí, chăm sóc sức khỏe [29].

5


Trần Thị Minh Đức, (2015) trong nghiên cứu về định kiến và áp lực đối với
nữ trí thức, tác giả đi đến kết luận rằng: Nữ trí thức đối mặt với nhiều áp lực, trong
đó áp lực trách nhiệm gia đình, trong khi sự chia sẻ của nam giới chưa nhiều trong
lãnh vực này [30].
Tạp chí cổng thông tin của Chính phủ Việt Nam, (2012) viết về vai trò, vị trí
của phụ nữ ngày càng được khẳng định, chỉ ra rằng: trong xu thế hội nhập và phát
triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vị thế của
mình trong công cuộc phát triển đất nước. Trong quá trình hội nhập và phát triển, sự
phân công lao động “truyền thống” theo giới tại Việt Nam bị phá vỡ, gánh nặng
công việc gia đình của phụ nữ được giảm nhẹ, vì thế phụ nữ có nhiều thời gian nhàn
rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động xã hội khác. Bài viết đã nhấn mạnh đến khía
cạnh về thời gian nghỉ ngơi mà phụ nữ cần phải có nhằm góp phần cải thiện và thực
hiện tốt vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội [28].
Kim Anh, Diệu Nguyên, (2016), trong bài viết “Cổ vũ phụ nữ phát triển bản
thân”, tác giả đi đến nhận định rằng, để phụ nữ có thể phát triển, vươn lên kịp với sự
tiến bộ của xã hội, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân thì họ cần được chia sẻ đảm
đương trong các công việc nhà, chăm sóc con cái ở những năm tháng đầu đời, từ đó
người vợ có được quỹ thời gian riêng cần thiết cho bản thân trong việc thư giản,
đem lại sự cân bằng về thể lực, tinh thần [24].
Lê Việt Nga, (2006), trong nghiên cứu về chủ đề: “Tác động của dịch vụ
giúp việc tới gia đình”, tác giả cho rằng khi sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình làm
tăng thời gian rỗi của phụ nữ. Qua đó tác giả cho thấy, việc sử dụng dịch vụ giúp

việc gia đình là một trong các giải pháp nhằm cải thiện quỹ thời gian nhàn rỗi của
phụ nữ nói chung và nữ viên chức nói riêng. Điều này đã giúp nữ giới có nhiều thời
gian rỗi để nghỉ ngơi, giải trí, tái phục hồi sức khỏe [9, tr 63-64].
Nguyễn Đình Tấn, (2007), nói về vai trò của nữ trí thức trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả khẳng định nữ trí thức đã có những đóng góp rất
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và thực hiện chức năng thiên phú là
duy trì nòi giống (tái sinh sản sức lao động xã hội). Mặc dầu vậy, nữ trí thức còn

6


gặp phải rất nhiều khó khăn, đó là họ vừa thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan như nam
giới đồng thời họ phải vừa gánh vác, lo toan các công việc nội trợ trong gia đình
như đi chợ, nấu ăn, chăm sóc nuôi dạy con,…các công việc tưởng chừng như vặt
vãnh nhưng lại tiêu tốn nhiều thời gian, sức lực. Tác giả chỉ rõ, trong thực tế nữ trí
thức hiện đang đảm nhiệm vai trò “kép” đó là trách nhiệm trong công việc chuyên
môn tại cơ quan và công việc gia đình. Qua đó, ông đưa ra cảnh báo về tình trạng
“quá tải” trong công việc hiện nay của nữ trí thức. Đồng thời nhận định rằng nếu
kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng “stress” đối với các nữ viên chức do xung đột vai trò.
Do vậy, việc cân đối quỹ thời gian thông qua việc giảm bớt đầu việc, xử lý công
việc một cách khoa học là cần thiết, từ đó nữ viên chức có thể giải quyết được bài
toán xung đột vai trò của mình. Nhìn chung những khó khăn mà phụ nữ nói chung
và nữ viên chức nói riêng là cách phân bố quỹ thời gian trong việc thực hiện các vai
trò xã hội. Trong đó việc tìm kiếm quỹ thời gian rỗi cần thiết cho bản thân phụ nữ là
điều không dễ dàng. Do vậy, tác giả khẳng định để giải quyết vấn đề trên không chỉ
là nhiệm vụ riêng của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, nhưng cũng
là nhiệm vụ của các thành viên trong mỗi gia đình. Việc này cần phải xem xét một
cách có hệ thống, nghiêm túc, và sớm có những giải pháp thích hợp để tạo điều kiện
cho nữ trí thức làm việc và vươn lên bình đẳng giới [12, tr. 5-11].
Huỳnh Thị Tam Thanh, (2016), đã chỉ ra những khó khăn, áp lực của “phụ

nữ tham chính” và đảm nhiệm công việc nhà, họ đóng vai trò “kép”. Bên cạnh đó
tác giả cũng đã chỉ ra các giải pháp giải quyết những khó khăn nêu trên như: chị em
phụ nữ, một mặt phải tự điều chỉnh mình, mặt khác, phải tìm kiếm sự chia sẻ trong
gia đình và đồng nghiệp. Nhưng quan trọng nhất là cần có những giải pháp mang
tính chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ, và giải quyết tận gốc các khó khăn để chị
em thực hiện tốt cả hai vai trò mà không phải chịu nhiều áp lực. Không những thế,
tác giả còn nhấn mạnh đến vai trò cá nhân của các nữ công chức trong việc linh hoạt
sắp xếp thời gian để luyện tập thể lực để giữ gìn, bảo vệ sức khỏe; cần có những
mối quan hệ thân thiện bên ngoài công việc, bên ngoài (nhóm bạn...), có những
khoảng thời gian dành riêng cho mình để thư giãn nhằm giảm bớt áp lực về tâm lý

7


là cần thiết. Qua đây chúng ta thấy, hai giải pháp nêu trên là cần thiết và phải thực
hiện song hành nhằm giải quyết các vấn đề về nhu cầu quỹ thời gian rỗi đối với nữ
tham chính là cần phải có, việc này sẽ giúp nữ tham chính giải tỏa căng thẳng, lấy
lại sự cân bằng, có tinh thần thoải mái và sức lực để tiếp tục thực hiện vai trò “kép”
của mình hiệu quả hơn [39].
Lê Thị Quý, (2009), khi bàn về vấn đề công bằng và bình đẳng giới đối với
nữ trí thức, tác giả đã chỉ ra những bất cặp mà nữ trí thức đang gặp phải trong quá
trình thực hiện vai trò ngoài xã hội và trong gia đình, đặc biệt là nữ trí thức trẻ có
con nhỏ gặp khó khăn ngày càng nhiều, do thiếu thời gian dành cho việc nghỉ ngơi
và lấy lại cân bằng. Tác giả nhấn mạnh rằng việc giúp nữ trí thức trẻ có được thời
gian nghỉ ngơi để lấy lại cân bằng phải đồng thời được lồng ghép vào các chương
trình “nâng cao năng lực của nữ trí thức” là việc chung của nhà nước, gia đình và cá
nhân: nhà nước phải có chính sách cụ thể, và ở bên trong gia đình thì các thành viên
phải tích cực tạo điều kiện để nữ trí thức phát triển toàn diện. Đây là biện pháp mà
tác giả muốn đưa ra nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho nữ trí thức phát triển trong cả 2
vai trò: gia đình và sự nghiệp, trong đó có cả yếu tố cải thiện thời gian cho việc nghỉ

ngơi - một nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong cuộc sống của con người nói
chung và nữ trí thức nói riêng [38].
Chủ đề “Thời gian rỗi” đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cặp, phân tích và đi
đến các nhận định như: quan niệm về thời gian rỗi; thời gian rỗi có mối quan hệ mật
thiết với nguồn lực kinh tế, văn hóa. Các nghiên cứu còn chỉ ra sự khác biệt về giới
trong sử dụng thời gian rỗi và nêu lên sự cần thiết phải tăng thêm quỹ thời gian rỗi
của nữ giới và có tác giả khẳng định rằng hoạt động trong thời gian rỗi không chỉ
phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân mỗi giới mà còn bị tác động bởi nhiều yếu tố như
địa vị kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa và điều kiện sống mỗi cá nhân; trình độ
học vấn cũng có ảnh hưởng đến cách sử dụng thời gian rỗi. Một số tác giả còn đi
đến kết luận rằng công việc gia đình của phụ nữ là một trong các nhân tố làm ảnh
hưởng đến quỹ thời gian rỗi của họ và khẳng định sự cần thiết phải có thời gian
nghỉ ngơi cho phụ nữ để họ lấy lại sự cân bằng về thể lực và tinh thần. Bên cạnh đó,

8


các tác giả còn đưa ra các biện pháp để góp phần làm tăng thời gian rỗi cho phụ nữ
như: sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình để giảm bớt đầu việc. Ngoài ra, cần xử lý
công việc một cách khoa học để tăng hiệu quả, giảm chi phí thời gian, đồng thời cần
tìm kiếm sự chia sẻ trong gia đình và đồng nghiệp trong việc giải quyết thực hiện
công việc cơ quan và gia đình,…Đã có nhiều tác giả đề cặp đến các nội dung có liên
quan đến thời gian rỗi, tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về thời
gian rỗi của nữ viên chức. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng
đến thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành giáo dục” để đi sâu nghiên cứu thực
trạng thời gian rỗi của nữ viên chức; các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian rỗi của nữ
viên chức và các cách thức nào mà họ sử dụng để tạo thời gian rỗi cho bản thân
cũng như những mong muốn của nữ viên chức đối với gia đình, cơ quan, cộng
đồng,…có liên quan đến việc tạo điều kiện để nữ viên chức có thể cải thiện nâng
dần quỹ thời gian rỗi, góp phần vào việc nâng cao đời sống tinh thần của nữ viên

chức trong ngành giáo dục.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian
rỗi của nữ viên chức.
Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện quỹ thời gian rỗi của nữ viên chức,
góp phần nâng cao chất lượng sống của nữ viên chức nói chung và nữ viên chức
trong ngành giáo dục nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức;
Thứ hai, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng quỹ thời gian rỗi
của nữ viên chức;
Thứ ba, xác định cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để tạo
thời gian rỗi cho mình nhằm phục hồi thể lực, cân bằng về tinh thần của bản thân;

9


Thứ tư, đề xuất giải pháp nhằm giúp tổ chức hiệu quả hơn các hoạt động hỗ
trợ nữ viên chức xét trên phương diện quản lý nhà nước, thực hiện chính sách đối
với phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.
3.3. Câu hỏi nghiên cứu

1) Thực trạng của việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành
giáo dục hiện nay như thế nào?

2) Các yếu tố nào chi phối ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ
viên chức?

3) Những khó khăn (rào cản) nào mà nữ viên chức gặp phải trong việc sử

dụng quỹ thời gian rỗi?

4) Những cách thức nào mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để tạo thời
gian rỗi cho mình nhằm phục hồi thể lực, cân bằng về tinh thần của bản thân?

5) Các mong muốn của nữ viên chức về các vấn đề mà họ gặp phải liên quan
đến việc sử dụng quỹ thời gian rỗi?

6) Giải pháp nào cho vấn đề nêu trên từ góc nhìn của nhà xã hội học căn cứ
trên các số liệu và thông tin thu thập từ các câu hỏi nêu trên?
3. 4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Văn hóa- xã hội là yếu tố chi phối ảnh hưởng lớn nhất đến
việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức.
Giả thuyết 2: Nữ viên chức đã lập gia đình và có con thường gặp khó
khăn nhiều và hạn chế hơn trong việc sử dụng quỹ thời gian rỗi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian rỗi của nữ
viên chức tại Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện chính trị khu vực
II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu khảo sát ý kiến của 92 nữ viên chức trong độ tuổi từ 22 đến dưới
55, đang làm việc tại Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và Học viện chính trị
khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
10


4.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tại 02 đơn vị: Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam và
Học viện chính trị khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chọn mẫu
Để thông tin được thu thập mang tính đại diện thì số liệu mẫu đã được chọn
đảm bảo có những thống kê xã hội học tin cậy. Do đó việc chọn mẫu nghiên cứu
được tiến hành như sau:
+ Chọn địa điểm khảo sát: Luận văn chọn tại Phân hiệu Học viện phụ nữ
Việt Nam và Học viện chính trị khu vực II, thuộc địa bàn quận 9, Thành phố Hồ
Chí Minh.
+ Dung lượng mẫu: Trong đề tài nghiên cứu này, dung lượng mẫu được chọn
là 92 trường hợp (62%) trong tổng số nữ viên chức của 2 đơn vị nghiên cứu là 148
người. Trong đó mẫu là 86 phỏng vấn sâu có bảng hỏi, và 6 trường hợp thảo luận nhóm
ở 2 đơn vị. Theo Aquino thì trong nghiên cứu kết hợp thu thập thông tin định tính và
định lượng khi tổng mẫu nghiên cứu nhỏ hơn 300 mẫu đại diện trên 30% là được.
+ Cách thức chọn mẫu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận
tiện dựa trên danh sách nữ viên chức của 2 đơn vị. Đối với mẫu phỏng vấn sâu có
bảng hỏi là 86 người, và thảo luận nhóm 6 trường hợp.
5.2. Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: luận văn sử dụng các nguồn thông tin
thứ cấp định tính từ các nghiên cứu trong và nước ngoài về về các thông tin liên quan
đến việc sử dụng thời gian rỗi của phụ nữ. Các mong muốn của họ liên quan đến quỹ
thời gian rỗi. Cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để vượt qua khó khăn
tạo thời gian rỗi cho mình từ các sách nghiên cứu, và tài liệu trên internet.
+ Thông qua nguồn tư liệu sẵn có: Luận văn tiến hành thu thập, tham khảo
và phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu có liên quan, chắt lọc thông tin để phản
ánh vấn đề một cách chính xác, toàn diện hơn. Các tư liệu này được tổng hợp thành
từng nhóm ý chính phục vụ cho đề tài.

11



+ Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: Song song với các công cụ thu
thập và phân tích thông tin định lượng điều tra có bảng hỏi, luận văn sử dụng công
cụ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tiến hành điều tra trên
86 trường hợp để thu thập thông tin.
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu có bảng hỏi, tiến hành điều tra
trên 86 trường hợp để thu thập thông tin định lượng và định tính. Ngoài ra nghiên
cứu còn thực hiện phương pháp thảo luận nhóm 6 trường hợp để bổ sung và làm rõ
các thông tin cho nghiên cứu.
5.3. Phương pháp xử lý thông tin
Bên cạnh các số liệu định lượng thì các thông tin định tính như các chia sẻ
ngắn, các câu chuyện và các phản hồi tại phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm là các
thông tin bổ ích để làm rõ hơn các số liệu thống kê. Ngoài ra các tư liệu thu thập
được từ sách, báo, tạp chí hội thảo, báo cáo chuyên đề được tổng hợp theo chủ đề,
đề mục cụ thể nhằm làm rõ các thông tin liên quan đến thực trạng của việc sử dụng
thời gian rỗi của nữ viên chức; các mong muốn của nữ viên chức liên quan đến quỹ
thời gian rỗi; cách thức mà nữ viên chức linh hoạt và thích ứng để vượt qua khó
khăn tạo thời gian rỗi cho mình và đề xuất, kiến nghị…Số liệu của các công trình
nghiên cứu khác phù hợp với mục đích sử dụng của nghiên cứu sẽ được tổng hợp và
đánh giá theo yêu cầu của luận văn, nhằm tìm kiếm những thông tin có khả năng
tham khảo và phục vụ cho luận văn.
+ Các thông tin định lượng có bảng hỏi sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS.
+ Đối với các thông tin định tính từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm sẽ
được ghi âm, tiến hành gỡ băng và phân tích thông tin lồng ghép để làm rõ các số
liệu định lượng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu này góp phần vào việc làm phong phú và sáng tỏ thêm lý thuyết
về thời gian rỗi; lý thuyết về nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu về thời


12


gian rỗi và quan điểm bình đẳng giới thông qua việc sử dụng thời gian rỗi hàng
ngày, cũng như các mối quan hệ tác động giữa các yếu tố làm ảnh hưởng đến việc
sử dụng thời gian rỗi. Đồng thời những thông tin thu thập được từ luận văn là nguồn
tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về phụ nữ nói chung và nữ viên chức
nói riêng trong việc nâng cao chất lượng sống của phụ nữ ở một xã hội đang trong
quá trình chuyển đổi như Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua nghiên cứu thực tế, đề tài sẽ xác định được đâu là những vấn đề
thực tiễn đang đặt ra trong việc sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức trong ngành
giáo dục, những yếu tố nào tác động ảnh hưởng đến quỹ thời gian rỗi của họ.
Đề tài cũng đóng góp một phần nhỏ trong việc khẳng định sự cần thiết của
thời gian rỗi trong nhu cầu của con người nói chung và phụ nữ trong ngành giáo dục
nói riêng.
Mặt khác, nghiên cứu sẽ góp phần chỉ ra những tồn tại và đề xuất giải pháp
để hỗ trợ cho nữ viên chức nhằm cải thiện, nâng cao quỹ thời gian rỗi cần thiết để
nữ viên chức nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động, thư giản tinh thần, sau khoảng
thời gian làm việc chuyên môn, công việc gia đình…
7. Cơ cấu của luận văn
Phần mở đầu
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chƣơng 2: Thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời
gian rỗi của nữ viên chức
Chƣơng 3: Những cách thức mà nữ viên chức linh hoạt, thích ứng để tạo
thời gian rỗi cho bản thân.
Kết luận và giải pháp

13



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con người không bị thúc bách
bởi nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành
cho các hoạt động tự nguyện theo sở thích của chủ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người [5, tr. 27].
Thời gian rỗi của nữ viên chức là khoảng thời gian mà họ hoàn toàn được
tự do thực hiện các hoạt động theo nhu cầu sở thích của bản thân mà không bị chi
phối bởi công việc cơ quan, công việc gia đình và các công việc khác.
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [13, tr. 68].
Vai trò “kép” của người phụ nữ hiện nay là vừa đảm đương tốt công việc gia
đình, vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xã hội. Vai trò kép được hiểu là việc thực
hiện đồng thời 2 nhiệm vụ (công việc) của nữ viên chức: Thứ nhất là nhiệm vụ tại
cơ quan, đây các hoạt động của nữ viên chức trong công việc mà họ phải đảm nhận
ngoài xã hội. Thứ hai là nhiệm vụ trong gia đình đây chính là các công việc ở nhà
mà nữ viên chức phải thực hiện (chăm lo cho chồng con, nội trợ, việc nhà …). Đó là
2 loại công việc mà người nữ viên chức phải làm thường xuyên hàng ngày trong
cuộc sống của họ[32].
Chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản
lý (Nhà nước) sử dụng để tác động lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực
hiện những mục tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể. Những
mục tiêu này không nằm ngoài định hướng của mục tiêu tổng quát. [13, tr. 7].
Chính sách xã hội bao gồm tập hợp các chính sách cụ thể, là sự thể chế hóa,
cụ thể hóa các giải pháp của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề xã hội liên quan

đến từng nhóm người hay toàn bộ dân cư, trên cơ sở phù hợp với quan điểm, đường
14


lối của Đảng, nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con
người[13, tr. 12].
Thích nghi: Theo bảng phân loại DSM-IV (sổ tay chẩn đoán và thống kê các
rối nhiễu tâm thần- IV 1997, Hiệp hội tâm thần Mỹ), khả năng thích nghi đề cập đến
mức độ đáp ứng những đòi hỏi chung của cuộc sống và mức độ đáp ứng những tiêu
chuẩn độc lập cá nhân- những tiêu chuẩn mà những người cùng tuổi đạt được trong
cùng hoàn cảnh văn hóa, xã hội và môi trường cộng đồng. Có thể nói rằng hành vi
thích nghi gồm có một số các kỹ năng ứng xử, khi kết hợp lại, tạo điều kiện cho mỗi
con người hội nhập được với cộng đồng [42, tr.5].
1.1.2. Tiếp cận lý thuyết trong nghiên cứu
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới
Để xác lập cơ sở lý luận và phương pháp luận cho đề tài, chúng tôi xuất phát
từ tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người Việt Nam đầu tiên gắn liền cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc với
cuộc đấu tranh cho bình đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ Việt Nam. Ngay từ
trong luận cương của Đảng từ khi thành lập Đảng có ghi: “Nam nữ bình quyền”
[16, tr. 1].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc thực hiện sự nghiệp vì sự tiến bộ của
phụ nữ, cần phải có những quy định được thực hiện trên các lĩnh vực cụ thể. Trong
bài viết “Phải thật sự tôn trọng quyền của phụ nữ”, Bác nói rằng “Phụ nữ chiếm
một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải
phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”. Tư tưởng nêu trên được Đảng và
Nhà Nước ta cụ thể hóa trong hiến pháp một văn bản pháp quy có hiệu lực pháp lý
cao nhất, tại điều 24 Hiến pháp 1960 nói: “Phụ nữ nước Việt nam dân chủ cộng hòa
có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và gia đình. Luật Hôn nhân gia đình, điều 1 nói: Nhà nước đảm bảo…nam nữ

bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ…” [17, tr. 225].
Không những quan tâm đến việc thực hiện bình đẳng trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, mà khi đề cặp đến mối quan hệ nam nữ trong gia đình, Bác nói

15


rằng: “Phải kính trọng phụ nữ. Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình
đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau. Phụ nữ thì phải tự mình phấn đấu giữ gìn
quyền bình đẳng với đàn ông. Đàn ông phải kính trọng phụ nữ…”[18, tr. 195]
Không chỉ quan tâm đến quyền lợi, tôn trọng đối với phụ nữ trên cơ sở các
quy định và việc thực hiện trên thực tế mà Bác còn rất chú ý đến sức khỏe của phụ
nữ. Trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Bình, ngày 01 tháng 01
năm 1967, Bác nói: “ Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động của phụ nữ. Phụ nữ là
đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để chị em tham gia
sản xuất được tốt…[19, tr. 194].
Trong sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ, khi nói về trách nhiệm của cán bộ,
Đảng và Chính phủ, Bác nói trong bài nói chuyện tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần
thứ III như sau: “Về cán bộ lãnh đạo …phải chịu khó học tập, ra sức giúp đỡ phụ
nữ giải quyết những khó khăn. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn
quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Cần tổ chức các nơi giữ trẻ, lớp mẫu giáo và tổ chức
những bếp ăn công cộng cho tốt để giải phóng phụ nữ ra khỏi bếp núc, tạo điều
kiện để phụ nữ tham gia công việc ngoài xã hội tốt hơn”[20, tr. 294].
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của người phụ
nữ mà còn rất coi trọng sự nghiệp giải phóng phụ nữ trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng. Theo Người, “Trình độ giải phóng phụ nữ được coi là thước đo của trình độ
phát triển xã hội”. Bởi, “Nói tới phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải
phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ
nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa [21, tr. 300].
Khi Bác đề cặp đến yếu tố chi phối, rào cản đối với sự tiến bộ của phụ nữ

Việt Nam, đồng thời Bác đã nêu ra những cách thức mà Chính phủ, toàn dân cần
phải thực hiện để giúp phụ nữ phát triển, từng bước đạt được các yêu cầu về bình
đẳng giới trong xã hội. Bác nói “Đó không chỉ là tuyên truyền, giáo dục mà còn
phải có những quy định trong chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà
nước…” Trong bài viết của Bác ngày 8 tháng 3 năm 1952 đã nêu “Nam nữ bình
quyền, nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ…..Lầm to! Đó là một cuộc cách

16


mạng khá to và khó, vì trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại,
vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Ngày
nay Chính phủ, nhân dân đang ra sức giải thích, tuyên truyền giáo dục …nỗ lực của
cuộc Cách Mạng này là sự tiến bộ về Chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải
cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhất định thành
công” [22, tr. 342]
1.1.2.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Bên cạnh việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và bình
đẳng giới trong toàn bộ sự nghiệp hiện thực vì sự tiến bộ của phụ nữ thông qua các văn
kiện của Đảng làm định hướng nền tảng cho đề tài. Nghiên cứu này sử dụng lý thuyết
của Maslow nhằm lý giải các nhu cầu căn bản của con người thông qua thang thứ bậc
nhu cầu. Lý thuyết này giúp người nghiên cứu hiểu rõ và giải thích các thang bậc nhu
cầu của con người nói chung và nữ viên chức nói riêng, trong đó nhu cầu tinh thần và
nhu cầu về quỹ thời gian rỗi là vấn đề mà đề tài tập trung nghiên cứu.
Theo Maslow về căn bản nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm
chính: nhu cầu căn bản và nhu cầu bậc cao. Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố
thể lý của con người như mong muốn có thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ, vui chơi
giải trí, đi lại …Những nhu cầu cơ bản này đều là các nhu cầu không thể thiếu, nếu
con người không được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được vì
thế con người có khuynh hướng đấu tranh để có được “nhu cầu căn bản” trong cuộc

sống hàng ngày. Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản trên được gọi là “nhu cầu bậc
cao”. Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần sự đòi hỏi công bằng, an
tâm, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, vinh danh với một cá nhân…Các nhu cầu cơ
bản thường được ưu tiên chú ý trước so với những nhu cầu bậc cao này.[50]
Chi tiết nội dung của tháp nhu cầu Maslow:
Cấu trúc của tháp nhu cầu có 5 tầng, trong đó những nhu cầu con người được
liệt kê theo một trật tự thứ bậc hình kim tự tháp. Những nhu cầu căn bản ở phía đáy
tháp phải được thỏa mãn trước khi nghĩ đến các nhu cầu cao hơn. Các nhu cầu bậc

17


cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thỏa mãn ngày càng mãnh liệt khi tất cả các
nhu cầu cơ bản ở dưới đã được đáp ứng đầy đủ.

Hình 2: Tháp nhu cầu của Maslow
Trong đó nhu cầu vật chất như nhu cầu nghỉ ngơi chăm sóc bản thân là yếu
tố đảm bảo cho sự tồn tại và duy trì sức khỏe của nữ viên chức. Bên cạnh đó nhu
cầu tham gia các hoạt động vui chơi giải trí trong khoảng thời gian rảnh rỗi là hết
sức cần thiết và thiết thực nhằm tái sản sinh sức lao động, giúp nữ viên chức cân
bằng hoạt động sống: chính các hoạt động vui chơi, nghỉ ngơi trong thời gian rỗi sẽ
giúp cho con người giải tỏa áp lực công việc, mệt nhọc do công việc mang lại. Điều
này không chỉ tốt cho chính bản thân nữ viên chức mà còn có ý nghĩa vô cùng lớn
đối với những người xung quanh họ (gia đình, cơ quan, và cộng đồng).
Áp dụng nội dung lý thuyết này giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu và giải thích
một cách khoa học về nhu cầu nghỉ ngơi và thời gian rỗi của nữ viên chức theo
thang do Maslow. Nghiên cứu này đi sâu tìm hiểu về khía cạnh về nhu cầu nghỉ
ngơi và thời gian rỗi của nữ viên chức.
1.1.2.3. Tiếp cận lối sống và quan điểm duy vật biện chứng
Ngoài ra đề tài còn viện dẫn cách tiếp cận lối sống và áp dụng quan điểm duy

vật biện chứng nhằm lý giải một cách khoa học và giúp đề tài làm rõ các yếu tố ảnh
hưởng đến lối sống và cách sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức. Trong đó đề tài
18


tập trung xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và các yếu tố xã hội ảnh
hưởng tới nhu cầu và cách thức sử dụng thời gian rỗi của nữ viên chức, để từ đó nhà
nghiên cứu có thể giải thích hiện tượng nêu trên một cách khoa học.
Lối sống là một phạm trù xã hội học bao hàm cả các điều kiện sống, các hình
thức hoạt động sống của con người, các quan hệ xã hội, hình thức sinh hoạt, các
hình thức thoả mãn nhu cầu của con người. Cụ thể PGS.TS.Trần Thị Kim Xuyến
cho rằng hoạt động sống của con người bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố bao gồm các
yếu tố khách quan của môi trường sống, điều kiện kinh tế, văn hóa-xã hội, cộng
đồng và các yếu tố chủ quan của con người đó. Hành vi ứng xử của cá nhân được
xác định trên cơ sở bản thân họ đánh giá hoạt động sống của mình trong tương quan
với điều kiện sống.
Hành vi ứng xử của cá nhân trong quá trình sống xuất phát từ những tình
huống sống cụ thể, được quy định bởi những điều kiện sống và sự đánh giá chủ
quan của cá nhân về ý nghĩa của các điều kiện đó, về sự ảnh hưởng của chúng đối
với việc tiếp nhận chất lượng sống của họ. Để đi đến hành động, cá nhân có sự suy
xét và sàng lọc những sự tác động bên ngoài, những kì vọng của xã hội và đánh giá
hoàn cảnh sống của bản thân [23].
Theo A.P.Butenko thì “lối sống là một phương thức hay đặc điểm của toàn
bộ hoạt động sống của một cá nhân xác định, một nhóm xã hội hay toàn xã hội”.
Phương thức hay tính chất này trước hết chịu sự quy định của phương thức sản
xuất, mức sống, toàn bộ các điều kiện kinh tế, địa lý – tự nhiên và lịch sử xã hội,
cũng như các định hướng giá trị. Lối sống cho ta thấy con người sống ra sao và
sống vì cái gì, họ làm gì, cuộc sống của họ là những hành động và hành vi của con
người trong xã hội [48].
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì lối sống là một hiện tượng lịch sử

của xã hội, hình thành khách quan bên ngoài xã hội, chịu sự chi phối của phương
thức sản xuất và toàn bộ điều kiện sống của con người cũng như các yếu tố khách
quan và chủ quan. Theo M.N.Rutkevich thì, “lối sống là tổng hoà những đặc điểm
căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá

19


nhân trong điều kiện một hình thái kinh tế - xã hội xác định”. Tuy nhiên, lối sống
không chỉ là sản phẩm thụ động bị chi phối bởi phương thức sản xuất mà nó còn
gắn liền với toàn bộ hệ thống giá trị, tinh thần của con người với tổng thể các quan
hệ vật chất – tinh thần, cá nhân – xã hội. Điều đó, có nghĩa nó bao hàm mọi mặt
của đời sống con người. Nó phụ thuộc vào thái độ và sự lựa chọn khác nhau của cá
nhân, nhưng còn bị chi phối bởi cộng đồng và xã hội mà cá nhân đó sinh sống. Lối
sống là một cơ cấu phẩm chất nhất định của hoạt động sống hàng ngày của con
người nhằm thể hiện họ về mọi mặt với tư cách là những chủ thể xã hội. “Lối sống
là cách thức cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội bằng những hoạt động của
mình. Và sự lựa chọn đó được xác định trên cơ sở con người biết đánh giá hoạt
động sống của mình trong tương quan với điều kiện sống”[53, tr.89-93].
Cách tiếp cận theo quan điểm xã hội học và duy vật biện chứng nêu trên chỉ
ra rằng, khi nghiên cứu bất cứ dạng hoạt động nào đó của con người, cần cùng một
lúc sử dụng cả hai hướng tiếp cận: thứ nhất, tiếp cận khách quan, theo đó tìm các
yếu tố tác động tới các hoạt động đó từ phía những điều kiện kinh tế, văn hóa-xã
hội, chính trị, …của xã hội rộng lớn; thứ hai, tiếp cận chủ quan, bao gồm các yếu tố
như kiến thức, quan niệm, thái độ, động cơ của chính chủ thể các hoạt động đó.
Các hoạt động sống được nghiên cứu trong đề tài để hiểu rõ mối quan hệ
biện chứng về các nhu cầu căn bản của con người nói chung và nữ viên chức nói
riêng được hình thành khách quan bên ngoài xã hội, chịu sự chi phối của phương
thức sản xuất và toàn bộ điều kiện sống của họ cũng như các yếu tố khách quan và
chủ quan. Lối sống gắn liền với toàn bộ hệ thống giá trị, tinh thần của con người với

tổng thể các quan hệ vật chất – tinh thần, cá nhân – xã hội.

20


×