Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thể chế, năng suất các yếu tố tổng hợp và tăng trưởng kinh tế nghiên cứu các quốc gia đang phát triển (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------

PHẠM DUY LINH

THỂ CHẾ, NĂNG SUẤT CÁC YẾU TỐ
TỔNG HỢP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
NGHIÊN CỨU CÁC QUỐC GIA ĐANG
PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành:

Tài chính – Ngân hàng

Mã số:

60.34.02.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2017


Công trình được hoàn thành tại: Trường ĐH Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng
2. TS. Phạm Quốc Hùng
Phản biện 1:……………………………………………
Phản biện 2:……………………………………………
Phản biện 3:……………………………………………


Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp trường họp
tại:
………………………………………………………..
Vào hồi

giờ

, ngày

tháng

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

năm


1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU

1.1 Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh mà tác động của việc gia tăng vốn và lao động đến tăng
trưởng đang dần giảm sút, các quốc gia đang phát triển muốn tiếp tục
đạt được sự tăng trưởng thì nhất thiết phải tạo ra năng suất ngày càng
cao. Báo cáo về triển vọng phát triển toàn cầu, OECD (2014) đã đề cập
tới việc cần phải thúc đẩy tăng năng suất để duy trì tăng trưởng trong
tương lai cho các nền kinh tế đang phát triển. Đánh giá tầm quan trọng
của năng suất tới tăng trưởng trong dài hạn, Krugman (1997, trang 11)
nhận định “Năng suất không phải là tất cả, nhưng về lâu dài thì nó gần
như là tất cả. Khả năng không ngừng nâng cao mức sống của một đất

nước phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào khả năng tăng sản lượng trên đầu
công nhân của nước đó”. Kể từ khi Solow (1956) giới thiệu lý thuyết
tăng trưởng kinh tế của mình, khái niệm năng suất yếu tố tổng hợp
(Total factor productivity - TFP) đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu
và phân tích. Hầu hết các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế gần đây,
đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng nội sinh đã nhận định năng suất yếu tố
tổng hợp là yếu tố tạo nên sự khác biệt về tăng trưởng giữa các quốc gia.
Trong khi đó, trường phái kinh tế học thể chế mới khởi nguồn từ nhà
kinh tế Ronald Coase cho rằng thể chế là yếu tố gốc rễ ảnh hưởng tới
hiệu quả của nền kinh tế. Douglass C.North, một nhà nghiên cứu tiêu
biểu cho trường phái kinh tế học thể chế mới đã nhận xét như sau:
“Những yếu tố như mở rộng thị trường, cải tiến công nghệ và cả tăng
cường sự đầu tư cho con người đều đóng góp một phần trong tăng
trưởng năng suất. Nhưng chúng ta giải thích thế nào về sự tiếp diễn của


2
tình trạng đói nghèo ở nhiều nơi trên thế giới một khi chúng ta đã biết rõ
nguyên nhân dẫn tới tăng trưởng kinh tế? Câu trả lời nằm ở sự thất bại
của con người khi đảm trách những đổi mới để gia tăng sản lượng.
Khung thể chế của một xã hội tạo ra cơ chế khuyến khích, tác động trực
tiếp đến hoạt động kinh tế và chính trị, và chúng ta biết rõ về nền tảng
thể chế cho sự tăng trưởng kinh tế thành công.” (North, 2000 trang 5).
Trước đó, North & Thomas (1973) đã phân tích nguyên nhân dẫn tới
tăng trưởng khi phân tách yếu tố quyết định tác động tới phát triển kinh
tế bao gồm yếu tố trực tiếp (Proximate determinants) và yếu tố căn
nguyên (Fundamental determinants), cụ thể hai tác giả biện luận mối
quan hệ trong đó xem thể chế là yếu tố căn nguyên dẫn tới phát triển
kinh tế.
Xuất phát từ những nhận định trên, trước bối cảnh mà các quốc gia, đặc

biệt là nhóm quốc gia đang phát triển vẫn tiếp tục tìm kiếm mô hình
tăng trưởng phù hợp để có thể bắt kịp với các nền kinh tế phát triển, đề
tài nghiên cứu về: “Thể chế , năng suất yếu tố tổng hợp và tăng
trưởng kinh tế: Nghiên cứu các quốc gia đang phát triển” là cần
thiết nhằm củng cố thêm về mặt lý thuyết và bổ sung các bằng chứng
thực nghiệm về vai trò của thể chế, TFP, cũng như mối quan hệ của
chúng tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển.
1.2 Khoảng trống nghiên cứu
Về mặt lý thuyết:
Lý thuyết tăng trưởng do Solow (1956, 1957) phát triển đã mở ra một
hướng nghiên cứu mới về kinh tế. Trong mô hình của mình, ngoài hai
yếu tố vốn và lao động, Solow đã đề cập tới yếu tố thứ ba là tiến bộ
công nghệ (A) hay được xem là TFP, bởi tiến bộ công nghệ ở đây hàm
ý là những yếu tố làm gia tăng hiệu quả sử dụng của vốn và lao động.
Thời gian gần đây, lý thuyết kinh tế học thể chế mới nổi lên qua các


3
nghiên cứu của North (1990), Acemoglu & cộng sự (2005), Acemoglu
& Robinson (2012), đã đưa những minh chứng rất chặt chẽ để khẳng
định nền tảng thể chế là căn nguyên của sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế của các quốc gia.. North đã chỉ ra sự thiếu sót của lý thuyết tăng
trưởng truyền thống qua nhận định sau: “Một hạn chế cơ bản của kinh
tế học truyền thống khi tiếp cận nguồn gốc tăng trưởng năng suất là nó
không đưa vấn đề tăng trưởng và năng suất vào một bối cảnh thể chế
năng động” (North, 1994, trang 9).
Luận án nhận thấy các lý thuyết tăng trưởng vẫn còn tiếp tục tranh luận
và tìm kiếm yếu tố căn nguyên dẫn tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, mặc dù được thừa nhận là một yếu tố có tác động tới tăng
trưởng nhưng việc nghiên cứu để đưa thể chế vào khung phân tích của

lý thuyết tăng trưởng truyền thống cũng mới bắt đầu thời gian gần đây.
Về mặt nghiên cứu thực nghiệm:
Thứ nhất: Đa số các nghiên cứu xem xét riêng từng mối quan hệ của
thể chế đến tăng trưởng, của TFP đến tăng trưởng, còn ít nghiên cứu
cùng đưa cả thể chế, TFP vào mô hình để cùng phân tích tác động tới
tăng trưởng. Trong khi như lập luận của lý thuyết kinh tế học thể chế
mới thì ba yếu tố này là một chuỗi quan hệ tương tác với nhau, trong đó
thể chế và năng suất có quan hệ qua lại thúc đẩy nhau từ đó tác động tới
tăng trưởng kinh tế.
Một số các nghiên cứu thực nghiệm cùng đưa thể chế, TFP và tăng
trưởng kinh tế vào chung một khung phân tích, nhưng còn một số hạn
chế như: Nghiên cứu của Henriksen & cộng sự (2011) về mối quan hệ
của thể chế, năng suất và sản lượng trong ngành sản xuất bơ, sữa của
Đan Mạch đã đi đến kết luận sự đổi mới thể chế dẫn tới sự đổi mới về
công nghệ dẫn tới sự thành công của ngành sản xuất bơ sữa, qua đó
đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Đan Mạch. Mặc


4
dù đề cập tới cả ba yếu tố, nhưng kết quả của nghiên cứu này ở phạm vi
một ngành kinh tế. Tang & cộng sự (2008) trong bài nghiên cứu về mối
quan hệ giữa thể chế, thay đổi công nghệ với biến động kinh tế vĩ mô đã
đánh giá tác động của cả chất lượng thể chế (thông qua biến đại diện là:
Nguy cơ bị quốc hữu hóa; Các ràng buộc ban đầu về quyền hành pháp)
và tăng trưởng TFP (dẫn xuất cho thay đổi công nghệ) trong cùng một
mô hình. Tuy nhiên, các tác giả sử dụng biến phụ thuộc là bất ổn kinh tế
vĩ mô hay biến động tăng trưởng kinh tế nên kết quả chủ yếu giải thích
về ảnh hưởng của chất lượng thể chế và thay đổi công nghệ trong việc
giảm bớt những bất ổn này chứ chưa đề cập tới việc chúng có làm cải
thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế hay không. Trong một nghiên cứu có

chủ đề tương tự, Gimenez & Sanau (2007) đã xem xét quan hệ của ba
yếu tố này trong một mô hình trên một mẫu gồm 64 quốc gia. Kết quả
nghiên cứu đã phát hiện tác động dương của chất lượng thể chế, tiến bộ
công nghệ và vốn con người đến tăng trưởng, nghiên cứu cũng nhận
định đây là những yếu tố quan trọng có tính quyết định đến tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, dữ liệu của bài nghiên cứu ở giai
đoạn khá xa từ 1985 - 1997, hơn nữa, biến dẫn xuất cho yếu tố (A) hay
được xem là TFP trong mô hình tăng trưởng là tỷ lệ gia tăng về số lượng
tạp chí khoa học, kỹ thuật được xuất bản. Tương tự, Tebaldi & Elmslie
(2013) cũng sử dụng số lượng bằng phát minh, sáng chế để dẫn xuất cho
đổi mới và tiến bộ công nghệ khi đánh giá tác động của nó cùng với chất
lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế. Việc sử dụng biến này tại hai
nghiên cứu trên có thể chưa phản ánh hết sự tiến bộ công nghệ của mỗi
quốc gia.
Thứ hai: Các nghiên cứu chủ yếu thực hiện trên phạm vi một nước hoặc
một nhóm nước, việc kiểm định trên các nhóm mẫu khác nhau là cần
thiết bởi mỗi quốc gia đều có những nét riêng biệt trong thể chế của


5
mình và do đó chất lượng thể chế cũng sẽ là khác nhau. Điều này được
minh chứng qua nghiên cứu mới đây của Krammer (2015) khi phân tách
thành hai nhóm mẫu đã cho thấy xuất hiện những tác động khác nhau
của các biến dẫn xuất cho chất lượng thể chế tới tăng trưởng năng suất.
Law & cộng sự (2013) cũng kết luận chất lượng thể chế tốt hơn thúc đẩy
phát triển kinh tế ở các quốc gia thu nhập cao trong khi phát triển kinh
tế dường như cải thiện chất lượng thể chế ở các quốc gia có thu nhập
thấp hơn. Trong khi đó, Venard (2013) khi thực hiện phân tách mẫu lại
cho rằng việc cải thiện chất lượng thể chế là có hiệu quả hơn cho sự
phát triển kinh tế ở các nước có chất lượng thể chế thấp.

Thứ ba: Khi nghiên cứu về thể chế, có rất nhiều biến được sử dụng để
dẫn xuất cho chất lượng thể chế. Đối với các nghiên cứu có sử dụng bộ
chỉ số quản trị công của WB thì chưa thấy có nghiên cứu nào sử dụng
cùng lúc cả sáu chỉ số để ước lượng tác động của chúng tới tăng trưởng
TFP và tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư: Tìm hiểu bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam, các nghiên cứu
cùng chủ để mà luận án lược khảo của Nguyễn Văn Phúc (2013),
Nguyễn Hồng Nga (2013), Trần Thọ Đạt & Đỗ Thị Tuyết Nhung (2011)
đều sử dụng phương pháp phân tích, thống kê mô tả, chưa thấy có
nghiên cứu thực nghiệm nào về tác động của thể chế và TFP đến tăng
trưởng kinh tế .
1.3 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên, các câu hỏi nghiên cứu đặt
ra gồm:
- Chất lượng thể chế có góp phần cải thiện tăng trưởng TFP hay không?
- Chất lượng thể chế, tăng trưởng TFP và sự tương tác của chúng có tác
động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế?


6
- Có sự khác biệt nào về mối quan hệ giữa chất lượng thể chế với tăng
trưởng TFP và giữa chất lượng thể chế, tăng trưởng TFP với tăng trưởng
kinh tế tại các nhóm quốc gia đang phát triển có đặc điểm tương đồng
về thu nhập bình quân?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu cho các nước đang phát triển trên thế giới dựa theo
tiêu chí phân loại thu nhập bình quân của WB. Cụ thể gồm 71 quốc gia,
với thời gian nghiên cứu là 19 năm, từ năm 1996 đến 2014.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, phân tích so sánh và thống kê mô tả:

Phương pháp định lượng: Phương pháp GMM sai phân và phương
pháp FE-2SLS
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
1.7 Một số điểm mới và đóng góp của luận án
Thứ nhất: Luận án trước hết xem xét tác động của chất lượng thể chế
tới tăng trưởng TFP, sau đó đưa hai yếu tố chất lượng thể chế và TFP
vào một khung phân tích chung để kiểm định tác động đồng thời của
chúng tới tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: Luận án đưa thêm biến tương tác giữa chất lượng thể chế và
tăng trưởng TFP vào mô hình thứ hai để xem liệu sự tương tác giữa
chúng có tạo thêm một ảnh hưởng nào tới tăng trưởng kinh tế hay
không.
Thứ ba: Luận án sử dụng cả 6 chỉ số đánh giá chất lượng thể chế để
ước lượng lần lượt tại hai mô hình. Tiếp theo, để kiểm định tính vững
của mô hình, luận án sử dụng chỉ số tổng hợp của 6 chỉ số này để ước
lượng qua hai phương pháp khác nhau.
Thứ tư: Sau khi kiểm định tại mẫu gộp, luận án thực hiện phân tách
thành ba nhóm mẫu để kiểm định gồm nhóm quốc gia có thu nhập


7
trung bình, nhóm quốc gia có thu nhập trung bình khá và nhóm quốc
gia có thu nhập cao. Kết quả cũng chỉ ra một số khác biệt giữa các
nhóm quốc gia, đồng thời cung cấp thêm minh chứng về hiệu ứng
ngưỡng tác động của thể chế tới tăng trưởng TFP và tăng trưởng kinh tế.
1.8 Kết cấu luận án
Luận án được bố cục thành năm chương cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu liên quan về TFP,
thể chế và mối quan hệ của chúng với tăng trưởng kinh tế

Chương 3: Mô hình, phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và gợi ý chính sách
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN VỀ TFP, THỂ CHẾ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CHÚNG
VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1 Lý thuyết về TFP và thể chế
2.1.1 Lý thuyết về TFP
2.1.1.1 Khái niệm về TFP
2.1.1.2 Phương pháp đo lường TFP
2.1.2 Lý thuyết về thể chế
2.1.2.1 Các quan điểm về thể chế
2.1.2.2 Phương pháp đo lường chất lượng thể chế
2.2 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
2.2.1 Các mô hình tăng trưởng kinh tế
* Một số mô hình tăng trưởng kinh tế trước năm 1950
* Các mô hình tăng trưởng kinh tế từ năm 1950 tới gần đây.


8
2.2.2 Các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế
2.3 Mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng trưởng kinh tế
2.3.1 Lý thuyết về mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng trưởng
Năng suất các yếu tố tổng hợp đã được Solow (1957) tiếp tục đề cập
trong mô hình tăng trưởng của mình để giải thích cho sự tăng trưởng
ngoài yếu tố vốn và lao động. Hàm sản xuất được Solow thể hiện dưới
dạng Cobb - Douglas như sau:
Yt  At K t L1t (2.7)


Trong đó Y là tổng sản lượng; L là lực lượng lao động; K là vốn và A
đại điện cho tiến bộ công nghệ hay hiệu quả các yếu tố đầu vào (TFP); α
là tỷ lệ đóng góp của vốn đến sản lượng và 1- α là tỷ lệ đóng góp của lao
động. Trên cơ sở đó A sẽ được xác định bằng cách lấy đạo hàm phương
trình theo thời gian, sau đó chia hai vế cho Yt ta có phương trình như
sau:

Yt
K t
L A

 1    t  t
Yt
Kt
Lt
At
Tốc độ tăng trưởng của A hay TFP được thể hiện qua công thức dưới:

g a  g y   g k  1    gl 

(2.8)

Trong đó ga là tốc độ tăng trưởng TFP, gy là tốc độ tăng sản lượng đầu,
gk tốc độ tăng trưởng vốn, gl tốc độ tăng lao động. Tuy nhiên, căn
nguyên của tăng trưởng TFP trong lý thuyết tân cổ điển về cơ bản xuất
phát từ tiến bộ công nghệ, nhưng lại không giải thích sự tiến bộ này diễn
ra như thế nào, hay bản thân tăng trưởng có ảnh hưởng tới nó không. Vì
thế, yếu tố này không thể giải thích thỏa đáng về tồn tại khoảng cách thu
nhập bình quân đầu người trong dài hạn giữa các quốc gia. Việc tìm
kiếm các nguồn gốc của tăng trưởng TFP để có thể giải thích thuyết

phục về sự khác biệt trong GDP bình quân đầu người giữa các quốc gia


9
là cần thiết trong nghiên cứu về tăng trưởng gần đây. Solow (2001,
trang 286) đồng ý rằng “việc nghiên cứu về tăng trưởng nên tập trung
nghiên cứu vào sự hiểu biết và phân tích các nguồn gốc của sự khác biệt
về TFP và các chính sách có thể ảnh hưởng đến nó”. Dựa trên mô hình
tăng trưởng tân cổ điển, Romer (1986,1990) và Lucas (1988) phát triển
lý thuyết tăng trưởng nội sinh để tìm lời giải thích rõ hơn cho phần dư là
yếu tố A hay được xem là TFP trong mô hình của Solow.
Trong cả hai mô hình trên vai trò của thể chế đã được đề cập tới, tuy
nhiên nó chưa được đưa vào để xem xét như một yếu tố trong mô hình.
Solow cũng thừa nhận thiếu sót này và cho rằng các yếu tố trong hàm
sản xuất còn bao hàm rất nhiều yếu tố phi kỹ thuật không đo lường
được, trong đó có thể chế. Solow (2001) cũng đề xuất phần dư trong mô
hình của mình (bao gồm cả yếu tố công nghệ và phi công nghệ) có thể
được phân tích dựa trên sự khác biệt về lịch sử thể chế của các quốc gia.
Easterly & Levine (2001) thực hiện tổng lược các nghiên cứu thực
nghiệm nổi tiếng về tăng trưởng kinh tế cũng kết luận là đa số nghiên
cứu đều nhận định TFP là yếu tố đem đến sự khác biệt về thu nhập và
tăng trưởng giữa các quốc gia chứ không phải là tích lũy vốn và lao
động, và cần xây dựng mô hình xác định TFP.
Lý thuyết về kinh tế học thể chế mới khởi nguồn bởi Ronald Coase đã
xem xét thể chế như một yếu tố căn nguyên dẫn tới những thay đổi của
các yếu tố trong hàm sản xuất từ đó tác động đến tăng trưởng. North
(1990, trang 107) nhận xét: “Tôi muốn khẳng định một vai trò rất cơ bản
của thể chế trong xã hội; chúng là yếu tố gốc rễ của hiệu suất nền kinh
tế trong dài hạn”. Khi bàn về mối quan hệ giữa thể chế và năng suất
trong lịch sử, North (1994) cũng đưa ra những kết luận về cách mà thể

chế đã và đang ảnh hưởng tới thay đổi về năng suất.
Tóm lại, các lý thuyết kinh tế đã thể hiện vai trò của thể chế và TFP đối


10
với tăng trưởng kinh tế, đồng thời đa số các nghiên cứu thực nghiệm khi
coi TFP và thể chế là các yếu tố đầu vào độc lập trong mô hình cũng tìm
thấy mối quan hệ dương của chúng tới tăng trưởng. Vậy thì đâu là
nguồn gốc thực sự dẫn tới tăng trưởng kinh tế, sự gia tăng TFP hay là
thể chế, hoặc có tác động đồng thời của cả thể chế và TFP đến tăng
trưởng hay không vẫn là chủ đề mà các lý thuyết tăng trưởng còn tranh
luận. Nhằm mô tả một cách tổng quát về mối quan hệ giữa thể chế, TFP
và tăng trưởng, North & Thomas (1973) đưa ra khung phân tích trong
đó phân tách yếu tố quyết định tác động tới phát triển kinh tế bao gồm
yếu tố trực tiếp (Proximate determinants) và yếu tố căn nguyên
(Fundamental determinants). Cụ thể hai tác giả biện luận mối quan hệ giữa
các yếu tố trong đó xem thể chế là yếu tố căn nguyên thúc đẩy phát triển
kinh tế qua sơ đồ sau:
TFP
Thể chế

Vốn con người

Phát triển kinh tế

Vốn vật chất
Hình 2.1: Khung phân tích mối quan hệ của thể chế, TFP tới phát triển
kinh tế
Nguồn: North & Thomas (1973)
Qua việc kết nối ba lý thuyết tăng trưởng trên, luận án dựa trên quan

điểm rằng thể chế là nguồn gốc của tăng trưởng, tác động tới tăng
trưởng qua các yếu tố trực tiếp khác trong đó có yếu tố TFP. Từ đó,
luận án nghiên cứu tác động của thể chế tới TFP và tác động đồng thời
của cả thể chế, TFP đến tăng trưởng kinh tế.


11
2.3.2 Mô hình phân tích về mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng
trưởng
2.4 Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm liên quan
2.4.1. Các nghiên cứu về mối quan hệ thể chế và TFP
Một số nhận định qua các nghiên cứu về tác động của thể chế tới
TFP:
Một số vấn đề còn tranh luận và hạn chế của các nghiên cứu
Do có rất nhiều biến dùng để đo lường, đánh giá chất lượng thể chế của
các quốc gia, vì vậy chưa thấy có sự thống nhất cao trong việc sử dụng
một bộ chỉ số đo lường chất lượng thể chế. Điều này có thể dẫn tới các
kết quả nghiên cứu và giải thích kết quả nghiên cứu chưa có sự nhất
quán cao.
Hầu hết các nghiên cứu mới phân tích trên một nhóm các quốc gia, hoặc
trên một quốc gia cụ thể, do đó chưa thể hiện được sự so sánh về ảnh
hưởng của chất lượng thể chế tới tăng trưởng TFP cho từng nhóm quốc
gia có điểm tương đồng. Việc so sánh này là cần thiết bởi mỗi quốc gia
đều có những nét riêng biệt trong thể chế của mình và do đó chất lượng
thể chế cũng sẽ là khác nhau.
2.4.2 Các nghiên cứu về thể chế, TFP và tăng trưởng kinh tế
2.4.2.1 Tác động của thể chế tới tăng trưởng kinh tế
Một số nhận định qua các nghiên cứu về tác động của thể chế tới tăng
trưởng kinh tế:
Một số vấn đề còn tranh luận và hạn chế của các nghiên cứu

Các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu sử dụng các biến đo lường chất
lượng thể chế từ bộ chỉ số BERI, ICRG và bộ chỉ số WGI. Đối với bộ
chỉ số WGI gồm có sáu biến đo lường chất lượng thể chế, các nghiên
cứu sử dụng bộ dữ liệu này cũng còn có những kết quả khác nhau như
nghiên cứu của Omoteso & Ishola Mobolaji (2014), Gani (2011).


12
Việc phân nhóm mẫu dựa theo tiêu chí thu nhập bình quân đầu người
hoặc theo tiêu chí về chất lượng thể chế giữa các quốc gia đã được một
số nghiên cứu thực hiện. Kết quả của các nghiên cứu này cũng đã cho
thấy có sự khác biệt về ảnh hưởng của chất lượng thể chế tới tăng
trưởng kinh tế giữa các nhóm quốc gia. Do đó, việc kiểm định trên các
nhóm mẫu khác nhau là cần thiết.
2.4.2.2 Tác động của TFP tới tăng trưởng kinh tế
Một số nhận xét qua các nghiên cứu về tác động của TFP tới tăng
trưởng kinh tế:
Một số vấn đề còn tranh luận và hạn chế của các nghiên cứu
Tác động dương của TFP tới tăng trưởng kinh tế đều được phát hiện qua
hầu hết các nghiên cứu, bên cạnh đó, có một số tác giả kết luận tác động
này là âm vì tại một số quốc gia đặc biệt là các quốc gia ở giai đoạn đầu
thời kỳ chuyển đổi, các quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp
thì đóng góp của vốn và lao động quá lớn làm lấn át đi vai trò của TFP
như nghiên cứu của Kim & Lau (1994), Young (1995) Reem Limam &
Miller (2004).
Là một khái niệm kinh tế mang tính tổng hợp, Việc nghiên cứu về TFP
và các yếu tố cấu thành hay ảnh hưởng đến nó để qua đó tác động tới
tăng trưởng kinh tế vẫn đang là một chủ đề được nhiều nghiên cứu tranh
luận.
2.5 Khoảng trống nghiên cứu và khung phân tích đề xuất



13
CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU
NGHIÊN CỨU
3.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu
3.1.1 Khung phân tích mô hình
𝑌 = 𝐴𝐾 𝛼 𝐿1−𝛼 ,

0 < 𝛼 < 1 (3.1)

Với Y là GDP thực; K là vốn đầu tư trong nước thực; L là số lao động
làm việc; A là năng suất các yếu tố tổng hợp; α, 1- α lần lượt là hệ số co
giãn của sản lượng theo vốn và lao động.
Biến đổi phương trình (3.1) theo dạng log-linear:
𝑙𝑜𝑔𝑌 = 𝑙𝑜𝑔𝐴 + 𝛼𝑙𝑜𝑔𝐾 + (1 − 𝛼)𝑙𝑜𝑔𝐿 (3.2)
Phương trình (3.2) viết dưới dạng chuỗi thời gian:
𝑌𝑖𝑡 = 𝐴𝑖𝑡 + 𝛼𝐾𝑖𝑡 + (1 − 𝛼)𝐿𝑖𝑡 (3.3)
Phương trình (3.3) được sử dụng như một mô hình chuẩn trong ước tính
hồi quy tăng trưởng. Trên cơ sở lý thuyết tăng trưởng nội sinh, các
nghiên cứu thực nghiệm đã đi sâu phân tích yếu tố (A) và đưa ra những
yếu tố ảnh hưởng tới nó từ đó tác động tới (Y). Islam (2008) nhận thấy
khi nghiên cứu về sự khác biệt năng suất giữa các quốc gia, các nghiên
cứu thực nghiệm thường tiếp cận theo hai phương pháp. Một là phương
pháp hồi quy tăng trưởng với thông số kỹ thuật mở rộng (extended
specification), theo phương pháp này các biến dẫn xuất hoặc các biến
được xem là nguyên nhân dẫn đến thay đổi năng suất được thêm vào
bên phải của phương trình (3.3). Cách tiếp cận thứ hai là theo phương
pháp hai giai đoạn (two-stage methodology), theo cách này năng suất sẽ

được ước tính, sau đó tập trung vào phân tích ước tính năng suất thu
được tại bước đầu tiên qua việc hồi quy các yếu tố có thể ảnh hưởng làm
gia tăng năng suất.


14

Qua một số nghiên cứu tiêu biểu của Romer (1990), Hall & Jones
(1999), Islam (2008), Miller & Upadhyay (2000), Loko & Diouf (2009)
đã xác định các yếu tố tác động tới TFP bao gồm: chất lượng thể chế, độ
mở thương mại, quy mô chính phủ, cơ sở hạ tầng, lạm phát, chất lượng
lao động, vốn đầu tư. Do đó, yếu tố (A) tại phương trình (3.3) được thể
hiện bằng phương trình như sau:
(𝐴)𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 + 𝛽2 (𝑇𝐼𝑁𝑉)𝑖,𝑡
+ 𝛽3 (𝐺𝐸𝑋𝑃)𝑖,𝑡 + 𝛽4 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛽5 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡
+ 𝛽6 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.4)
Trong đó: INS là biến đo lường chất lượng thể chế; GEXP là biến chi
tiêu của chính phủ; OPEN là biến độ mở thưởng mại; INF là biến lạm
phát; TINV là biến tổng đầu tư trong nước; TELE là biến dẫn xuất cho
cơ sở hạ tầng.
Để nghiên cứu các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế, luận án dựa
trên cơ sở lý thuyết kinh tế học thể chế mới khi xem xét vai trò của thể
chế như một yếu tố trong mô hình tăng trưởng. Với lập luận của North
& Thomas (1973) coi thể chế là căn nguyên tác động tới các yếu tố tích
lũy khác bao gồm cả TFP qua đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế,
khung phân tích mô hình cũng xuất phát từ phương trình (3.3) được
viết dưới dạng phương trình hồi quy như sau:
𝑌𝑖,𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1 (𝑇𝐹𝑃𝐺)𝑖,𝑡 + 𝛼2 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 + 𝛼3 (𝑇𝐼𝑁𝑉)𝑖,𝑡 + 𝛼4 (𝐺𝐸𝑋𝑃)𝑖,𝑡
+ 𝛼5 (𝐿𝐴𝐵𝑂)𝑖,𝑡 + 𝛼6 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛼7 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡
+ 𝛼8 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.5)

Luận án đưa thêm biến tăng trưởng TFP ban đầu (TFPGt-1) vào vế trái
của phương trình (3.4) do biến phụ thuộc tại phương trình này đã thể
hiện dưới dạng tốc độ tăng trưởng TFP, nên không cần đưa thêm biến
TFPGt-1 vào vế phải. Tiếp theo, biến thu nhập bình quân đầu người ban


15
đầu (GDP/L)it-1 được thêm vào cả hai vế của phương trình (3.6) có hai
phương trình sau:
𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 (𝑇𝐹𝑃𝐺)𝑖,𝑡−1 + 𝛽2 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 + 𝛽3 (𝑇𝐼𝑁𝑉)𝑖,𝑡
+ 𝛽4 (𝐺𝐸𝑋𝑃)𝑖,𝑡 + 𝛽5 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛽6 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡
+ 𝛽7 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.7)
𝐺𝐷𝑃
𝐺𝐷𝑃
(
) −(
)
𝐿 𝑖,𝑡
𝐿 𝑖,𝑡−1

𝐺𝐷𝑃
= 𝛼0 + 𝛼1 (
)
+ 𝛼2 (𝑇𝐹𝑃𝐺)𝑖,𝑡 + 𝛼3 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡
𝐿 𝑖,𝑡−1
𝑇𝐼𝑁𝑉
𝐺𝐸𝑋𝑃
+ 𝛼4 (
) + 𝛼5 (
) + 𝛼6 (𝐿𝐴𝐵𝑂)𝑖,𝑡

𝐺𝐷𝑃 𝑖,𝑡
𝐺𝐷𝑃 𝑖,𝑡
+ 𝛼7 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛼8 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡 + 𝛼9 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡
+ 𝜀𝑖,𝑡 (3.8)

3.1.2 Mô hình thực nghiệm và lựa chọn biến nghiên cứu
Mô hình 1:
𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛽1 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡−1 + 𝛽2 𝐼𝑁𝑆𝑖𝑡 + 𝑍′𝑖𝑡 𝛽3 + 𝜂𝑖 + 𝜉𝑖𝑡

(3.10)

Mô hình 2:
∆𝑌𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛽1 𝑌𝑖𝑡−1 + 𝛽2 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡 + 𝛽3 𝐼𝑁𝑆𝑖𝑡 + 𝛽4 𝐼𝑆𝑁 × 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡
+ 𝑍 ′ 𝑖𝑡 𝛽5 + 𝜂𝑖 + 𝜉𝑖𝑡 (3.11)
3.2 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp ước lượng
3.2.2 Dữ liệu nghiên cứu và đo lường biến
3.2.3 Phân tích thống kê, mô tả dữ liệu
3.2.3.1 Đánh giá chung về thực trạng thể chế, TFP và tăng trưởng của
các quốc gia
3.2.3.2 Phân tích thống kê dữ liệu nghiên cứu
Bảng 3.1: Thống kê mô tả các biến ở mẫu gộp


16
Các biến

Obs

Mean


Std.Dev.

Min

Max

GDP bình quân đầu người

1349

4773.001

6616.97

129.782

46856.84

TFPG

1349

0.7738

3.82831

-22.18

22.70


Kiểm soát tham nhũng

1349

-0.3045

0.63649

-1.5513

1.7647

Hiệu quả chính phủ

1349

-0.1731

0.61308

-1.4949

1.5957

Ổn định chính trị

1349

-0.3431


0.78595

-2.8120

1.3468

Chất lượng luật pháp

1349

-0.1048

0.67809

-2.1492

1.6749

Tuân thủ pháp luật

1349

-0.2877

0.65907

-1.8895

1.4509


Tiếng nói và giải trình

1349

-0.2838

0.76462

-2.0986

1.4729

Đầu tư trong nước

1349

22.033

6.15636

5.3853

45.869

Chi tiêu chính phủ

1349

28.177


9.38335

0.552

54.549

Lực lượng lao động

1349

62.333

7.34750

46.792

85.963

Độ mở thương mại

1349

75.719

35.0479

15.58

220.40


Lạm phát

1349

10.477

34.2120

-8.484

1058.3

Cơ sở hạ tầng

1349

14.031

12.3451

0.1026

52.922

Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13

3.2.3.3 Kiểm định về sự khác biệt về thể chế giữa các nhóm mẫu
Bảng 3.2: Kết quả kiểm định sự khác biệt về chất lượng thể chế
INS1


INS2

INS3

INS4

INS5

INS6

≤ -.282 ***

≤ -.073***

≤ -.364***

≤ -.04***

≤ -.325***

≤ -.267***

≤ .322***

≤ .429***

≤ .312***

≤ .491***


≤ .357***

≤ .184***

Nhóm thu nhập trung
bình thấp với thu nhập
trung bình khá
Giữa nhóm thu nhập
trung bình khá với thu
nhập cao

Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13


17
Kết quả tại Bảng 3.6 cho thấy chất lượng thể chế tại ba nhóm mẫu là
hoàn toàn khác biệt. Điều này cho thấy theo phân loại của WB dựa trên
thu nhập bình quân thì tại các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người
càng cao thì tương ứng với chất lượng thể chế càng tốt.
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Tác động của thể chế tới tăng trưởng TFP
4.1.1 Mô hình ước lượng
4.1.2 Kết quả nghiên cứu và bàn luận
4.1.2.1 Kết quả cho mẫu gộp
Bảng 4.3: Kết quả ước lượng GMM sai phân Arellano-Bond cho mẫu
gộp
Biến phụ thuộc: TFPG
INS1

TFPG (-1)

INS2
*

INS3
-0.179

**

INS4

INS5

INS6

0.068

0.975

0.135*

-0.150

0.159

Thể chế

27.21***


14.94**

10.30***

8.161**

9.015***

5.367**

Đầu tư trong nước

-0.686***

-0.025

-0.542***

-0.352

0.000

-0.365***

Chi tiêu chính phủ

-0.842***

-0.226***


-0.789***

-0.218***

-0.818***

-0.198***

Lực lượng lao động

0.391

-0.328

-0.124

-0.440***

-0.408**

-0.031

Độ mở thương mại

0.138***

0.08***

0.234***


0.149***

0.146***

0.086***

Lạm phát

-0.124***

-0.075***

-0.254***

-0.439

-0.080***

-0.045***

Cơ sở hạ tầng

0.041

-0.017

0.020

0.008


-0.003

0.007

Obs

1065

1065

994

1065

1136

1136

AR(2) test

0.102

0.718

0.112

0.113

0.74


0.904

Sargan test

0.311

0.101

0.146

0.111

0.208

0.143


18
*** **

,

,* lần lượt là các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10%

Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13

Thực hiện ước lượng D-GMM cho lần lượt từng biến đo lường chất
lượng thể chế, có thể thấy ở tất cả sáu ước lượng giá trị p của chỉ số
Sargan và Arellano – Bond đều có ý nghĩa thống kê lớn hơn 10%. Kết
quả cho thấy cả sáu biến chất lượng thể chế đều có tác động dương tới

tăng trưởng TFP.
4.1.2.2 Kết quả ước lượng cho từng nhóm mẫu
Thực hiện kiểm định trêm ba nhóm quốc gia phân loại theo tiêu chí thu
nhập. Kết quả chỉ ra tại nhóm quốc gia thu nhập trung bình khá và thu
nhập cao là đồng nhất với kết quả mẫu gộp, còn tại các quốc gia có thu
nhập trung bình thấp thì chất lượng thể chế có tác động âm tới tăng
trưởng TFP.
4.2 Tác động của tăng trưởng TFP, thể chế và tương tác của chúng
tới tăng trưởng kinh tế
4.2.1 Mô hình ước lượng
4.2.2 Kết quả nghiên cứu và bàn luận
4.2.2.1 Kết quả ước lượng cho mẫu gộp
Bảng 4.8: Kết quả ước lượng GMM sai phân Arellano-Bond cho mẫu
gộp
Biến phụ thuộc: Δ GDP
INS1

INS2

INS3

INS4

INS5

INS6

-0.166***

-0.167***


-0.153***

-0.134***

-0.171***

-0.106***

TFPG

1.022***

0.935***

1.017***

0.933***

0.907***

1.068***

Thể chế

4.861**

1.691*

5.121**


1.575*

7.707**

6.528**

Thể chế*TFPG

0.262***

0.162***

0.136**

0.875*

0.152**

0.146**

Đầu tư trong nước

0.166***

0.176***

0.132***

0.141***


0.118***

0.416***

GDP bình quân (-1)


19
Chi tiêu chính phủ

-0.056

-0.070

0.008

-0.053

-0.048

0.016

Lực lượng lao động

2.308

Độ mở thương mại

0.105***


0.132***

0.113***

0.135***

0.162***

0.122***

Lạm phát

0.090***

0.073***

0.115***

0.061**

0.072***

-0.007

-0.054***

-0.050***

-0.037*


-0.040**

-0.036**

-0.043*

Obs

1136

1136

1136

1065

1065

994

AR(2) test

0.673

0.771

0.139

0.929


0.971

0.454

Sargan test

0.253

0.166

0.134

0.171

0.178

0.932

Cơ sở hạ tầng

***

2.174

***

2.148

***


1.780

***

2.036

***

1.317**

*** ** *

, , : ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%.

Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13
Tại mẫu gộp, các biến nghiên cứu chính gồm TFPG, thể chế và biến
tương tác Thể chế*TFPG đều thể hiện tác động dương tới tăng trưởng
kinh tế. Kết quả này cho thấy sự nhất quán cao và phù hợp với giả
thuyết nghiên cứu của luận án về vai trò tích cực của chất lượng thể chế
trong mối quan hệ với TFP và tăng trưởng kinh tế.
4.2.2.2 Kết quả ước lượng cho từng nhóm mẫu
Kết quả khi tách mẫu chỉ ra sự khác biệt tại nhóm quốc gia thu nhập
trung bình thấp đó là tác động âm của chất lượng thể chế thể tới tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, biến tương tác Thể chế*TFPG tại nhóm
quốc gia có thu nhập cao cũng thể hiện tác động âm lên tăng trưởng
kinh tế. Những phát hiện này góp phần cho việc hoạch định các chính
sách phát triển phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia.
4.3 Kiểm định tính vững của mô hình
Bảng 4.12: Kết quả ước lượng GMM sai phân Arellano-Bond cho mẫu

gộp
GDP bình quân (-1)

Biến phụ thuộc TFPG

Biến phụ thuộc ∆GDP



-0.170***


20
0.132





0.897***

6.807**

6.14**



0.166*

Đầu tư trong nước


-0.131

0.116***

Chi tiêu chính phủ

-0.234***

-0.06

Lực lượng lao động

-0.238

2.169***

Độ mở thương mại

0.085***

0.158***

Lạm phát

-0.075***

0.441

Cơ sở hạ tầng


0.002

-0.039**

Obs

1065

994

24

31

AR(2) test

0.652

0.966

Sargan test

0.21

0.422

TFPG (-1)
TFPG
Thể chế (average index)

Thể chế*TFPG

Number of instruments

*** ** *

, , : ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%.

Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13

Bảng 4.13: Kết quả ước lượng FE-2SLS cho mẫu gộp
Biến phụ thuộc ∆GDP

Coef

Std.Err

Prob

GDP bình quân (-1)

-0.083

0.004

0.000***

TFPG

0.863


0.024

0.000***

Thể chế (average index)

-0.719

0.58

0.215

Thể chế*TFPG

0.128

0.035

0.000***

Đầu tư trong nước

0.211

0.018

0.000***

Chi tiêu chính phủ


-0.052

0.019

0.007***

Lực lượng lao động

0.108

0.042

0.011**

Độ mở thương mại

0.010

0.005

0.073*

Lạm phát

-0.019

0.006

0.002***



21
Cơ sở hạ tầng

0.003

Obs

1207

Sargan test

0.26

0.002

0.135

*** ** *

, , : ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%.

Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13

Luận án sử dụng chỉ số trung bình của sáu chỉ số đánh giá chất lượng
thể chế để ước lượng thông qua hai phương pháp là D-GMM và FE2SLS. Việc sử dụng thêm phương pháp ước lượng khác nhằm củng cố
cho kết quả của phương pháp ước lượng chính của luận án. Kết quả cho
thấy ở cả hai phương pháp các biến giải thích chính có sự nhất quán cao
với kết quả ước lượng trước đó, trong khi các biến giải thích còn lại

cũng có sự tương đồng với tỷ lệ thấp nhất là 66.6% và cao nhất là 85,7%
cho mỗi biến so với kết quả ước lượng tại mục 4.1 và 4.2 của luận án.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
5.1 Kết luận
Bảng 5.1: Tóm tắt kết quả ước lượng từ hai mô hình nghiên cứu
Mô hình 1 (Biến phụ thuộc (TFPG)
Thu

Các biến
nghiên
cứu

Mô hình 2 (Biến phụ thuộc ΔGDP)
Thu

Thu
nhập
Mẫu

Thu
Thu

nhập
trung

gộp

nhập
Mẫu


nhập
trung

bình

gộp
cao

Thu

trung

nhập cao

bình

bình khá

bình khá

thấp
TFPG

nhập
trung

thấp
+ (6)


+ (6)

+ (6)

+ (6)


22
INS*TFPG

+ (6)

+ (5)

+ (6)

- (5)

INS

+ (6)

- (6)

+ (5)

+ (5)

+ (6)


- (5)

+ (5)

+ (5)

TINV

- (3)

+ (5)

In-sign(*)

- (5)

+ (6)

+ (6)

+ (5)

+ (6)

GEXP

- (6)

- (6)


- (4)

- (6)

In-sign

In-sign

In-sign

In-sign

LABO

- (2)

In-sign

- (3)

- (2)

+ (6)

+ (6)

+ (6)

In-sign


OPEN

+ (6)

+ (6)

+ (4)

+ (4)

+ (6)

In-sign

+ (6)

+ (5)

INF

- (6)

- (6)

- (6)

- (6)

+ (5)


In-sign

- (3)

In-sign

In-sign

- (2)

In-sign

+ (1)

- (6)

- (6)

- (5)

In-sign

TELE

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả nghiên cứu ( *In-significant: không có ý nghĩa)

Tại mô hình ước lượng thứ nhất: Đối với biến giải thích chính là chất
lượng thể chế, kết quả cho thấy tất cả sáu biến dẫn xuất đều tác động
dương có ý nghĩa tới tăng trưởng TFP ở mẫu gộp, mẫu các quốc gia thu
nhập trung bình khá. Một khác biệt so với mẫu gộp được ghi nhận đó là

tại mẫu các quốc gia thu nhập trung bình thấp thì sáu chỉ số đại diện
chất lượng thể chế lại có tác động âm ý nghĩa đến tăng trưởng TFP.
Điều này khá phù hợp với tình hình thực tế cho thấy đây là nhóm quốc
gia có điểm đánh giá chất lượng thể chế rất thấp, vì vậy nó trở thành rào
cản đối với các hoạt động của nền kinh tế dẫn tới không có tác động tích
cực trong việc thúc đẩy gia tăng năng suất yếu tố sản suất.
Tại mô hình ước lượng thứ hai: Đối với ba biến giải thích chính, kết
quả cho thấy sự nhất quán tại mẫu gộp khi chất lượng thể chế, tăng
trưởng TFP và biến tương tác đều có tác động dương ý nghĩa đến tăng
trưởng GDP bình quân đầu người trong cả sáu ước lượng. Phát hiện có
tính nhất quán này góp phần củng cố lý thuyết về vai trò của thể chế và


23
TFP đối với tăng trưởng kinh tế, đồng thời giữa chúng còn có mối quan
hệ tạo ra thêm một hiệu ứng dương đến tăng trưởng.
Kiểm tra tính vững của mô hình: Kết quả phân tích khi sử dụng chỉ số
bình quân của sáu chỉ số đánh giá chất lượng thể chế khi ước lượng
bằng phương pháp D-GMM cho thấy các biến nghiên cứu chính tại hai
mô hình trên đều ra kết quả tương tự.
Từ những phát hiện trong hai mô hình ước lượng trên cùng với việc
kiểm tra tính vững thông qua hai phương pháp khác nhau có thể nhận
định, chất lượng thể chế có vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng TFP
từ đó tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời nó cũng có ảnh
hưởng trực tiếp tới tăng trưởng.
5.2 Hàm ý chính sách
5.2.1 Đối với việc cải thiện và nâng cao chất lượng thể chế
(i) Thực thi các giải pháp mạnh mẽ để giảm tham nhũng, đồng thời tăng
trách nhiệm giải trình của chính phủ.
(ii) Cải cách hành chính, áp dụng công nghệ vào quản lý nhằm nâng

cao hiệu quả quản trị của bộ máy chính quyền, tạo điều kiện tiếp cận
thông tin minh bạch cho người dân.
(iii) Hoàn thiện hệ thống pháp luật để xây dựng nhà nước pháp quyền
đúng nghĩa, đảm bảo tất cả mọi thể nhân và pháp nhân đều bình đẳng
trước pháp luật.
(iv) Duy trì ổn định chính trị, hạn chế xung đột và các hình thức bạo
lực trong hoạt động đối nội và đối ngoại của chính phủ.
(v) Nâng cao hơn nữa quyền tự do, dân chủ, quyền tự do kinh doanh
của người dân và các quyền về tài sản.


×