Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.81 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA NGỮ VĂN VÀ VĂN HÓA HỌC NGÀNH NGỮ VĂN BÁO CHÍ

---------------

THỰC TẬP VIẾT TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ VỚI PHẢN ÁNH TIÊU CỰC
CỦA XÃ HỘI HIỆN NAY
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Thị Linh Chi
Học viên

: Lê Hoàn

Lớp

: BCK36PR

Ninh Thuận – Tháng 12/2016

1


Mục Lục
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT..................................................................................................................... 1
KHOA NGỮ VĂN VÀ VĂN HÓA HỌC NGÀNH NGỮ VĂN BÁO CHÍ........................................................1
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ VỚI PHẢN ÁNH TIÊU CỰC CỦA XÃ HỘI HIỆN NAY ......................1
A.PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 2
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................................... 6
I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HOÁ HỌC.
II. THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ.



6
7

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử văn học Việt Nam có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng. Mỗi tác giả
đã để lại những đóng góp riêng có giá trị để làm nên tiếng nói chung cho nền
văn học dân tộc. Khi nhắc đến nền văn học trung đại thì nhớ đến nhà thơ nữ

2


hết sức tài hoa, luôn đấu tranh để đòi quyền tự do cho những người phụ nữ
trong xã hội phong kiến, nói lên những tâm tư khát vọng được sống hạnh
phúc của người phụ nữ, bên cạnh đó là nhà thơ còn đả kích, châm biếm sâu
cay với thế lực phong kiến như vua, quan, những người có học ......đó là nữ
sĩ Hồ Xuân Hương.
Trong nền văn học trung đại do chịu ảnh hưởng chi phối của những hủ
tục, lễ giáo phong kiến khắc nghiệt nên số lượng nhà thơ nữ rất ít. Có thể kể
ra vài nhà thơ tiêu biểu như: Ngọc Hân, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh
Quan, Hồ Xuân Hương.....Trong đó Hồ Xuân Hương được nhắc đến nhiều
nhất.
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Nữ sĩ bình dân” nên những tác
phẩm của Bà đều đậm nét dân gian, từ hình ảnh cho đến sử dụng ngôn ngữ.
Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương chỉ tìm hiểu nội
dung, tư tưởng cốt lõi trong tác phẩm, trong thơ của bà chỉ nghiên cứu ở
những phương diện nhất định nhưng chưa thật bao quát hết phần ảnh hưởng
của văn học dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương. Khi nghiên cứu thơ Xuân
Hương người đọc thấy được biệt tài dùng từ, hình ảnh rất dân gian. Bà vận

dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, đặc biệt là bà còn sử dụng các cách nói
dân gian được thể hiện qua việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ.....để tạo nên
những tiếng cười thâm thúy, đả kích sâu cay đối với bọn phong kiến.
Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương với mong muốn được hiểu hơn về sự
đóng góp của bà trong việc bình dân hóa, sử dụng chất liệu văn học dân gian
đưa vào thơ ca trung đại.

2. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Nghiên cứu Văn học đã có một lịch sử lâu đời. Từ trước đến nay, có
nhiều phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học theo nhiều quan điểm khác
nhau.Cách nghiên cứu theo quan điểm ngữ văn chỉ thiên về việc giảng giải
từ ngữ, phân tích văn pháp, coi nhẹ những vấn đề có liên quan đến nôi dung

3


tư tưởng của tác phẩm văn học. Cách nghiên cứu theo phân tâm học Feurd
chỉ tập trung khám phá những ẩn ức tình dục ẩn tàng trong tác phẩm. Cách
nghiên cứu tác phẩm theo chủ nghĩa cấu trúc thì chỉ phân tích “cái biểu đạt”
(hình thức) bỏ qua “cái được biểu đạt” (nội dung). Những người xã hội học
dung tục thì chỉ biết đối chiếu một cách máy móc hiện thực khách quan với
nội dung tác phẩm văn học. Chủ nghĩa ấn tượng lại quan niệm tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian không phải đi sâu khám phá bản chất hiện thực mà
chẳng qua chỉ ghi dấu lại những ấn tượng trong phút giây ban đầu của người
nghệ sĩ trước hiện thực và vì thế nghiên cứu tác phẩm cũng chỉ cần đi sâu
khám phá ấn tượng ấy.
Tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
nhưng đối với hiện thực khách quan và chủ quan nhà văn, tác phẩm không
khi nào phản ánh và biểu hiện một cách trực tuyến mà phải dựa vào một di
sản tinh thần nhất định của dân tộc và nhân loại.

Quán triệt chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
mỹ học Mác Lênin, phương pháp luận nghiên cứu văn học hiện đại ngày nay
càng phát triển và đặt ra nhiều vấn đề tiếp cận tác phẩm văn học nghệ thuật
một cách toàn diện. Tác phẩm văn học là tổng hoà của hàng loạt tương quan:
tương quan nội tại cấu trúc, tương quan bên ngoài gồm: hiện thực khách
quan, chủ quan nhà văn, công chúng, di sản văn hoá.
Năm tương quan này không tách rời nhau mà lấy tương quan nội tại
làm tiêu điểm. Các cách tiếp cận trên đều có mặt mạnh, mặt yếu. Tuy nhiên,
để khám phá, tìm ra giá trị đích thực của mỗi tác phẩm văn chương cũng còn
nhiều điều cần bàn cãi. Đặc biệt ngày nay, trong xu thế hội nhập cùng phát
triển với những tiến bộ của nghiên cứu văn học và thời đại, với những cải tổ
và cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có một cách nhìn,
cách đánh giá mới hơn, hữu hiệu, chân xác ,khoa học hơn về tác phẩm văn
chương.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu văn học nước ta từ cách mạng tháng Tám,
tất cả mọi vấn đề xã hội văn hoá văn nghệ đều được nhìn nhận đánh giá lại,
với một nhãn quan mới. Dưới ánh sáng quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, các

4


nhà nghiên cứu phê bình đã nhận thức được văn học cũng là một hình thái ý
thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội, nó là công cụ cuộc đấu tranh ấy. Phân tích tác phẩm văn học
theo phương pháp xã hội học tức là theo quan điểm dân tộc và giai cấp.
Phương pháp này tuy có nhiều ưu điểm nhưng không khỏi rơi vào sự quy kết
một cách cực đoan. Con đường đi tìm chân lý nghệ thuật vẫn là con đường
khó và phức tạp, đòi hỏi những tìm tòi, những trăn trở. Trong nhiều chuyên
luận của mình,phó giáo sư tiến sĩ Trần Nho Thìn đã đi sâu nghiên cứu, vận
dụng cách tiếp cận văn hoá học đối với tác phẩm văn chương, đặc biệt trong

cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá”. Tiếp cận tìm
hiểu kỹ vấn đề, giúp chúng ta có một cái nhìn cách đánh giá khoa học hơn,
chân xác hơn đối với giá trị văn học truyền thống, mở ra một hướng nghiên
cứu mới vừa hợp với xu thế phát triển, vừa giữ gìn được bản sắc truyền
thống văn hoá.
Tìm hiểu kỹ, vận dụng vấn đề lý luận trong nhiều chuyên luận của
GSTS Trần Nho Thìn, mà chủ yếu cuốn “Văn học Trung đại Việt Nam dưới
góc nhìn văn hoá”. Chúng tôi áp dụng phân tích một tác phẩm văn chương
trung đại dưới góc nhìn văn hoá học mà ở đây là thơ Hồ Xuân Hương với bài
thơ “Bánh trôi nước” và “Hang Cắc cớ”

5


B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN
HOÁ HỌC.
Văn hoá gắn liền với tất cả các hoạt động nhằm phát triển và hoàn
thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội.
Trong cuộc sống của mình, con người luôn luôn tạo ra các giá trị. Đó
là đạo lý làm người, là những chuẩn mực, là phong tục tập quán, tín
ngưỡng… Nhờ đó, con người có sự gắn kết chặt chẽ với nhau trong một
cộng đồng, trong một dân tộc, trong một làng quê, trong một dòng họ, một
gia đình. Sức mạnh của cá nhân, của cộng đồng cũng được hình thành từ đó.
Như vậy văn hoá trước hết là các hoạt động nhằm phát huy nhu cầu
năng lực tinh thần cơ bản của con người, tạo ra các chuẩn mực, các giá trị,
nâng cao khả năng hiểu biết và sáng tạo của con người. Tổ chức văn hoá
giáo dục khoa học của Liên Hợp quốc đã đưa ra một định nghĩa văn hoá như
sau: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và
cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng

tạo ấy đã hình thành nên hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu, những đặc
tính riêng của mỗi dân tộc”.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội “Văn hoá là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” Hồ Chí Minh.
Theo TS Trần Nho Thìn văn hoá là một hệ thống mở “Nhân học văn
hoá”, “nhân chủng học văn hoá”. Văn hoá Việt còn là sản phẩm của giao lưu
ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ… Vì thế khái niệm văn hoá tương
đối rộng. Văn hoá là phạm trù giá trị làm cho con người thoát ra khỏi tình
trạng mông muội. Văn hoá bao gồm văn minh, kinh tế, sức khoẻ, ăn uống,
văn học… chứ không phải mình lễ hội và nói đến văn hoá là nói đến tập tục
tín ngưỡng tôn giáo, nói đến đời sống tinh thần …
Bất kỳ một giá trị văn học nào cũng đều thoát thai từ một môi trường
văn hoá, từ một đời sống văn hoá nhất định.

6


Tác phẩm là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ, là sản phẩm của một
thời đại. Nhà văn đắm mình trong không khí thời đại, nắm vững tinh thần
thời đại cùng với môi trường, vốn sống, vốn văn hoá… hình thành tư tưởng
thẩm mĩ trong sáng tác văn chương.
Yếu tố văn hoá ảnh hưởng lớn đến sự thành công của tác phẩm. Cách
tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu tác phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta
khám phá chân lý nghệ thuật một cách đúng hướng hơn. TS Trần Nho Thìn
đã chỉ ra một số bước tiếp cận theo phương pháp văn hoá học đối với văn
học Trung đại Việt Nam như sau:
- Đối với văn học trung đại cần phục nguyên tái hiện không gian văn
hoá cũng như những nhân tố thời đại tác động.
- Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hoá thời đại.

- Xác định cơ sở văn hoá xã hội đã hình thành nên tác phẩm (đề tài,
chủ đề, hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu thành tác
phẩm...)
II. THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ.
1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương:
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một nhà thơ lớn một gương mặt độc đáo
trong thơ ca trung đại Việt Nam cũng như nền văn học dân tộc, Những tài
liệu để lại hiện nay cho thấy bà sống vào khoảng cuối thế kỷ XVIII nửa đầu
thế kỷ XIX. Bà là con Hồ Thi Diễn, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Thi Diễn là một ông đồ nghèo đi dạy học ở vùng Hải
Dương (Kinh Bắc ngày trước) lấy một cô gái họ Hà làm vợ lẽ và sinh ra Hồ
Xuân Hương. Có một thời gia đình ở gần Hồ Tây Hà Nội.
Hồ Xuân Hương thông minh nhưng không được học nhiều, giao du
rộng rãi với các nho sĩ, đấng mày râu nhưng cuộc đời tình riêng lại hết sức
éo le ngang trái. Bà hai lần lấy chồng, hai lần đều làm lẽ và là nạn nhân của
xã hội phong kiến thối nát trọng nam khinh nữ. Hồ Xuân Hương nổi tiếng
với những sáng tác bằng thơ Nôm, từng được mệnh danh là” bà chúa Thơ
Nôm”. Bà là một trong những nhà thơ - nhà nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu
cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Sáng tác
của bà đặt ra một cách sâu sắc và thấm thía những vấn đề riêng tư, những nỗi

7


bất công ngang trái và người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng,
đồng thời lên tiếng bảo vệ đề cao người phụ nữ, bênh vực quyền bình đẳng
và quyền được hưởng hạnh phúc của họ. Thơ Hồ Xuân Hương là một hiện
tượng nghệ thuật kỳ lạ, nghệ thuật thơ bà vừa đa dạng và độc đáo tạo ra một
vẻ “duyên dáng Xuân Hương” khi trào phúng hóm hỉnh chua cay, lúc trữ
tình đằm thắm xót xa. Tiếng nói trong thơ bà thẳng thắn nhiều lúc táo bạo

thể hiện một bản lĩnh nghệ thuật vững vàng. Thơ bà sáng tác theo thể đường
luật nhưng dân tộc hoá cao độ, góp phần đáng kể vào việc cách tân nghệ
thuật thơ trung đại: đưa cái trần tục thô ráp hàng ngày vào một thể thơ vốn
đài các quý phái.
Về ngôn ngữ bà đã vận dụng thành công ca dao tục ngữ, thành nữ, lời
ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Thơ bà mang đậm sắc thái văn hoá dân
gian. Bằng một tư duy nghệ thuật độc đáo, thơ Hồ Xuân Hương đa tầng đa
nghĩa và là một hiện tượng lạ đối với giới nghiên cứu phê bình văn học. Việc
nghiên cứu đánh giá thơ bà là vấn đề khó và phức tạp, đặc biệt có rất nhiều ý
kiến đánh giá xoay quanh vấn đề dâm và tục trong thơ Hồ Xuân Hương.
Nhưng ở đây trong khuôn khổ bài viết chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu thơ Hồ
Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá về yếu tố dâm và tục.
Biểu tượng trong văn hoá là những hình ảnh cụ thể, sinh động nhưng
mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc, các từ ngữ thông
thường khi đi vào văn bản đều có thể trở thành biểu tượng nghệ thuật mang
nội dung cảm xúc và khái quát. Nhờ vào tính biểu tượng mà ngôn ngữ văn
học nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng có khả năng biểu đạt sâu rộng và
phong phú hơn so với ngôn ngữ thông thường.
Những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng từ thế
giới cảm giác đậm chất dân gian và cực kỳ phong phú: Quả mít, bánh trôi
nước, con ốc nhồi, cái quạt, đánh đu, đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, Thiếu
ngữ ngủ ngày, tranh tố nữ … đó là những biểu tượng văn hoá dân gian, văn
hoá tôn giáo đã ăn sâu vào tâm khảm tiềm thức của dân tộc Việt Nam từ bao
đời. Từ những biểu tượng ấy, qua tư duy thơ Hồ Xuân Hương được biến hoá
thần tài lấp lánh nhiều tầng nghĩa, đem đến nhiều cánh lý giải khác nhau.
Thế giới thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới đầy biểu tượng tồn tại dưới

8



nhiều dạng thức khác nhau với những sắc màu khác nhau muôn hình vạn
trạng.
Trong thơ Hồ Xuân Hương luôn luôn tồn tại hiện tượng đa nghĩa, một
hình ảnh kép, hoặc một biểu tượng sóng đôi: Hang Cắc Cớ, Kẽm Trống,
Chùa Hương, Quán Thánh, Đèo Ba Dội, Hang Thanh Hoá … hiện thực vẫn
sống động không ai chối cãi được nhưng nếu dừng ở đó chưa đủ. Nghĩa
ngầm, nghĩa khác nảy sinh từ biểu tượng thứ nhất là biểu tượng thứ hai, theo
kiểu tư duy liên tưởng, tưởng tượng, so sánh ý vị đem đến cho người ta cách
hiểu bất ngờ mà tất cả đều hướng tới một mục đích nhất định, một ý nghĩa
trào phúng chua cay. Trong thơ Hồ Xuân Hương là sự lấp lửng hai mặt
thanh mà tục, tục mà thanh là sự kết hợp hài hoà giữa chất trữ tình đằm thắm
và chất trào phúng sâu sắc.
Đáng chú ý là những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương mang đậm
ý nghĩa phồn thực.
Theo Đỗ Lai Thuý: những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương đều
có cội nguồn xa xưa đó là hình ảnh liên quan đến âm dương vật và tính giao.
Những hình ảnh thân thể phụ nữ nhất là bộ phận tính dục; những biến cố
trong cuộc đời phụ nữ như dậy thì, chửa đẻ, chết chồng, cưới xin… trong
thời gian như giao thừa chuyển màu, mùa xuân… chúng đều liên quan đến
huyền thoại về vũ trụ. Trong các biểu tượng phồn thực hình ảnh âm vật trong
thơ Hồ Xuân Hương liên quan đến tính chất sáng chế. Trong sự lưỡng phân
trời đất thì trời là cha đất là mẹ. Con người cũng như muôn loài được sinh ra
từ lòng đất mẹ từ hang động bang giếng thật tự nhiên. Từ xa xưa người ta đã
coi hàng động bang giếng là nơi con người từ bụng mẹ đẻ ra. Hang động
cũng là nơi cư trú che mưa che nắng của người sơ thuỷ. Các huyền thoại
sáng chế này có mặt trong mọi tộc người trong buổi sơ khai.
Vì vậy ta không phải ngạc nhiên thơ Hồ Xuân Hương đầy những ám
ảnh về biểu tượng hang động: Động Hương Tích, Hang Cắc Cớ, Đào Ba
Dội, Hang Thanh Hoá, Kẽm Trống, Cửa Dó, Đá ông Chồng bà Chồng…
Hang động xưa vẫn là nơi thờ phật “người quen cõi phật chen chân

xọc”. Hồ Xuân Hương đã đưa đạo phật về với thời nguyên thuỷ gắn với tín

9


ngưỡng phồn thực với tính dục. Lúc mà người ta nhìn bông xen của phật
người ta hiểu ngay đến biểu tượng âm vật sinh sôi nảy nờ, sự an lành thịnh
vượng. Đối tượng tưởng như có vẻ phi lý nhưng thực ra hợp với truyền
thống đạo phật. Hồ Xuân Hương đã đưa hình tượng hang động bang giếng âm vật trở về với ý nghĩa cổ xưa mang tính vũ trụ.
Ở bài “Cái giếng”
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tốt thảnh thơi giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai có biết
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.
Một cái giếng dân gian đào lấy nước ăn với tất cả tính chất đặc điểm
rất thật của nó: giếng sâu, nước tốt trong, có cầu ván đứng múc nước, xung
quanh cỏ gà mọc, dưới có cá diếc bơi, thật dễ hiểu nhưng đó chỉ là biểu
tượng thứ nhất. Quan trọng hơn là biểu tượng thứ hai. Đây là “cái giếng”
thanh tân ở tuổi dậy thì của người con gái “cái giếng” ấy đẹp trong trẻo tinh
nguyên vì thế “Đố ai dám thả nạ dòng dòng”.
Trong thực tế giếng mang ý nghĩa âm vật đối với người Việt có một
vai trò hết sức quan trọng: đó là nới xuất phát của giống nòi.
Dệt cửi là công việc thường làm trong dân gian. Xuân Hương cũng
dùng để biểu hiện hành động của tính giao. Qua đó để gửi gắm ý tưởng của
mình. Bài thơ có hai nghĩa rất rõ ràng nghĩa phô thể hiện ở nhan đề bài thơ.
Nghĩa ngầm là nghĩa liên tưởng từ những từ ngữ kết cấu bài thơ mà đem đến

biểu tượng thứ hai.
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau

10


Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Từ khung cảnh ban đầu thắp đèn lên thấy màu trắng của sợi. Các bộ
phận của khung như: con cò, suốt, khuôn… Đến các động tác “ hai chân đạp
xuống năng năng nhắc. Một chút đâm ngang thích thích mau” . Đều được
miêu tả chính xác. Nhưng lý thú hơn càng miêu tả chính xác bao nhiêu thì
nghĩa ngầm, nghĩa chìm càng lộ ra rõ ràng bấy nhiêu. Nghĩa phô nghĩa ngầm
xoắn xuýt vào nhau lấp lửng hai mặt.
Những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương phần lớn là biểu tượng
văn hoá tôn giáo nó đã in đậm trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam.
Thế giới nghệ thuật trong thơ bà là một thế giới đầy biểu tượng tồn tại dưới
nhiều dạng thức khác nhau muôn màu muôn vẻ. Những biểu tượng phồn thực
đã trở thành ý đồ nghệ thuật, trở thành phương tiện chuyển tải ý đồ nghệ
thuật của nhà thơ.
Những sự vật đời thường gần gũi thân quen với ta là thế nhưng trong
thơ Hồ Xuân Hương lại đem đến cho chúng ta một cách hiểu bất ngờ. Mặt
trăng thì “Mặt trái trăng thu chín mõm mòn - Nẩy vừng quế đỏ lòm lom Giữa in chiếc bích khuôn còn méo. Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm”
đến các vị thuốc: giao cầu, thuyền tán “Thạch nhũ trần bì sao để lại - Quy
tâm liên lục tẩm mang đi - Giao cầu thiếp biết trao ai nhỉ?”. Thậm chí đầu

sư là một thứ đáng kính trọng mà trong thơ hàng hoá lại gợi đến một cái đầu
khác thật oái oăm. “Đầu sư há phảigì bà cốt?”. Lâm tuyền rừng suối ở động
Hương Tích của Hồ Xuân Hương lại phục nguyên ý nghĩa là hình ảnh âm
vật. Một số hình ảnh: sừng “Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa” (Lũ ngẩn
ngơ).
Hình ảnh dùi trống Trống thủng vì chưng kẻ nặng dùi” (trống thủng)
Hoặc hình ảnh chơi đu:
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”.

11


(Đánh đu).
Đều là những biểu hiện hành vi tính giao.
Nếu “giếng” với ý nghĩa là biểu tượng âm vật thì trong tâm thức của
người Việt được coi là nơi xuất xứ của giống nòi, nơi cung cấp nước cho
mùa màng, cho con người. Thì đánh đu biểu hiện cho trò chơi dân gian vừa
thể hiện hoạt động tính giao và là sự bù trừ đắp đổi mang một ý nghĩa phồn
thực thuần khiết.Ngoài ra xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương là các “ siêu
mẫu” tượng trưng cho người phụ nữ.“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
(Bánh trôi nước) hoặc “Đôi gò Bồng Đào sương còn ngậm - Một lạch đào
nguyên suối chửa thông” (Thiếu nữ ngủ ngày).

III. PHÂN TÍCH BÀI THƠ “BÁNH TRÔI NƯỚC” BẰNG PHƯƠNG
PHÁP DÂN GIAN
Đến với thơ của Bà Huyện Thanh Quan chúng ta thưởng thức được
những lời thơ trang nhã, mang tính chất cung đình, luôn gợi nỗi buồn man
mác. Ngược lại học thơ của Bà Hồ Xuân Hương ta lại gặp một phong cách
hoàn toàn khác. Giọng điệu thơ mạnh mẽ, rắn rỏi, đề tài thơ bình thường

dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý, chua cay, chất chứa nỗi niềm phẫn uất, đả
kích xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ quen thuộc thể hiện rõ
phong cách thơ của bà.
Đây là bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác giả đã mượn chiếc tránh trôi nước
để thể hiện vẻ đẹp về hình thể và tâm hồn của người con gái thân phận nhỏ
bé, bị chìm nổi, phụ thuộc mà vẫn giữ gìn trọn vẹn phẩm giá của mình.

12


Toàn bài thơ là một hình ảnh nhân hoá tượng trưng. Nhờ tài quan sát,
nhờ khả năng liên tưởng kì lạ, Hồ Xuân Hương đã phát hiện được những nét
tương đồng giữa chiếc bánh trôi nước tầm thường và hình ảnh cũng như cuộc
đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cả hai đều có vẻ bề ngoài đẹp
(trắng, tròn) có tâm hồn cao quý (tấm lòng son), cuộc sống chìm, nổỉ, lênh
đênh (trong nồi nước sôi luộc bánh cũng như trong cuộc đời), không làm chủ
được số phận của mình. Chính những nhận xét riêng rất mới này, hình tượng
thơ đã được xây dựng. Nhà thơ ngay từ những từ đầu tiên đã nhân hoá cái
bánh trôi, gắn liền những chi tiết tả thực với những từ ngữ đa nghĩa tạo lên
một trường liên tưởng rộng rãi cho người đọc. Do đó, bài thơ tả thực mà hàm
nghĩa tượng trưng, nói về cái bánh trôi với đầy đủ đặc điểm của nó mà thành
chuyện người phụ nữ chìm nổi trong cuộc đời. Người con gái ở đây có hình
thể thật đẹp, da trắng nõn nà, thân hình đầy đặn, xinh xắn, có tâm hồn thật
trong trắng nhân hậu hiền hoà:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”.
Lẽ ra với vẻ đẹp như thế, nàng phải có cuộc đời sung sướng. Nhưng
không, cuộc đời nàng phải long đong, vất vả, phiêu dạt, chìm nổi không chỉ
một lần, trong cuộc đời rộng lớn:
“Bảy nổi ba chìm ưới nước non”.
Người phụ nữ không làm chủ được cuộc đời, sô phận của họ do người

khác định đoạt, nàng bị phũ phàng, vùi dập:
“Rắn nát mặc dầu tay kể nặn”
Nhưng không, dù đời có phũ phàng, dù trải bao bất hạnh người phụ nữ
vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá và tâm hồn cao đẹp của mình.
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Ở đây ta lại thấy được tài năng sáng tạo của nữ sĩ. Ngay trong câu thơ
đầu, bà chọn chi tiết không nhiều nhưng chọn kĩ và tả đúng với đặc điểm cua
chiếc bánh và tác giả chỉ cần đặt trước những từ miêu tả ấy hai từ thân em.
Câu thơ lại sinh động hẳn lên. Thân em lời xưng hô của cái bánh được nhân
hoá mà đó cũng chính là lời của người phụ nữ tự giới thiệu. Nhờ hai từ này,
trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ đẹp

13


hiện ra trong tâm trí mọi người. Cặp quan hệ từ vừa… lại vừa phụ trợ cho tứ
thơ khiến giọng thơ hàm chứa một ý thức và một chút hài lòng kiêu hãnh về
vẻ đẹp hình thể đó.
Thế nhưng sang câu thứ hai giọng thơ đột ngột chuyển hẳn. Từ thoáng
chút hài lòng, tự hào chuyển sang than vãn về số phận hẩm hiu. Đảo lại một
thành ngữ quen thuộc (ba chìm bảy nổi), nhà thơ đã tạo nên cách nói mới,
nhấn mạnh hơn vào sự long đong. Thành ngữ này đi liền với hình ảnh vừa
trắng vừa tròn tạo ra sự đối lập bất ngờ càng tô đậm nỗi bất hạnh của người
phụ nữ. Cụm từ với nước non đi kèm theo hình ảnh bảy nổi ba chìm như một
lời oán trách: Tại sao xã hội bất công lại vùi dập cuộc đời người phụ nữ như
vậy?
Và từ giọng than vãn lời thơ lại chuyển sang giọng ngậm ngùi cam
chịu Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn người phụ nữ không làm chủ được cuộc dời
mình mà phụ thuộc vào tay kẻ khác. Nhưng đến câu cuối cùng giọng thơ, ý
thơ đột ngột chuyển lại Mà em vẫn giữ tấm lòng son. ơ đây kết cấu đối lập

được tác giả khai thác triệt để. Đó là sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ
trong câu ba và câu bốn, đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ quả quyết
bảo vệ phần trong sáng trong tâm hồn con người. Sự đối lập này tràn ra cả
ngôn từ Mặc dù… mà em vẫn giữ… chỉ quan hệ đối lập nhưng do đặt vị trí
đầu câu lại được tăng cường thêm của từ vẫn khiến cho ý nghĩa đối lập càng
thêm sắc, mạnh. Từ mà là một "nhãn từ" (chữ hay nhất trong câu thơ) nói lên
một cách dõng dạc và dứt khoát sự kiên trì cố gắng đến cùng để giữ tấm lòng
son. ở đây người phụ nữ dám đối lập tấm lòng son với tất cả sóng gió, bảy
nổi ba chìm của cuộc đời. Đó là người phụ nữ có ý thức rất rõ về cuộc sống
và phẩm chất của mình. Đó là lời khẳng định giá trị đáng kính của người phụ
nữ.
Bài thơ vỏn vẹn chỉ có bốn câu, đề tài lại là sự vật bình thường nhưng
dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo nhiều vẻ. Bài thơ chứa đựng
một luồng ánh sáng ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và ý
thức về giá trị, phẩm giá của người phụ nữ chân chính, của con người luôn
giữ tấm lòng son dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

14


“Bánh trôi nước” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Đây
là tiếng nói của người phụ nữ tự bộc bạch mình, là lời oán ghét sự bất công
đối với người phụ nữ đồng thời cũng là lời khẳng định giá trị tâm hồn của
họ. Nhà thơ đã thay mặt giới phụ nữ cất lên tiêng nói ấy cũng là lời bà tự
khẳng định mình.
Một bức tranh tuyệt vời tao nhã có thể sánh với các bức tượng thời Hy
Lạp cổ đại. Tất cả vẻ đẹp của thế gian, vẻ đẹp của muôn loài đã hội tụ ở
đây.
Thi pháp trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người còn
Hồ Xuân Hương thì lấy con người làm kiểu mẫu của vạn vật. Điều đó, như là

một vượt rào so với thi pháp học trung đại.
Có nhiều ý kiến cho rằng thơ Hồ Xuân Hương nói nhiều đến cái dâm
nhưng thực ra cái dâm đó mang ý nghĩa phồn thực, ý nghĩa triết học, ý nghĩa
thẩm mỹ.
Tóm lại đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến với một rừng biểu tượng.
Những biểu tượng có ý nghĩa xã hội sâu sắc và những biểu tượng phồn thực
văn hoá tôn giáo. Nhưng biểu tượng ấy đều có hai mặt lấp lửng thanh và tục,
nghĩa ngầm và nghĩa phô, nghĩa đen và nghĩa bóng. Hai mặt này kết nối với
nhau, chuyển hoá cho nhau như âm với dương trong một trạng thái cực độ.
Bởivậy, nếu tách chúng ra là phá vỡ cấu trúc của biểu tượng, dễ đi đến cái
nhìn phiến diện định kiến.
Ở Hồ Xuân Hương quan niệm về tự nhiên là cái gốc của mọi vấn đề.
Nhưng nó luôn luôn chuyển hoá sang đặc điểm xã hội và văn hoá tôn giáo.
Triết lý tự nhiên ở thơ Hồ Xuân Hương dựa trên cơ sở tín ngưỡng phồn thực
coi trọng sự sinh sôi nảy nở, đề cao sự sống. Đó là vấn đề muôn thủa của con
người. Rõ ràng cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với tự nhiên là một cái nhìn
nghệ thuật nhằm khẳng định sức mạnh và khát vọng sống mãnh liệt của con
người.
IV. PHÂN TÍCH BÀI THƠ ‘HANG CẮC CƠ’ BẰNG PHƯƠNG PHÁP
VĂN HOÁ HỌC.

15


“Hang Cắc Cớ” là bài thơ có thể xem tiêu biểu cho bản sắc thơ Hồ
Xuân Hương. Ở đó nó hội tụ nhiều nét tinh hoa trong phong cách thơ bà:
Một tình yêu thiên nhiên dữ dội trong lối biểu hiện, dục tính trong tài hoa
miêu tả, ỡm ờ mà khiêu khích người khác giới, lập lờ hai mặt trong nỗi khát
khao tình dục, sự hoà điệu giữa nhạc và hoạ…
Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
(Hang Cắc Cớ)
Bài thơ mang biểu tượng lấp lửng hai mặt. Trước hết là nghĩa thực
được gợi ra từ nhan đề bài thơ “Hang Cắc Cớ” không ai nói là sai được. Nó
rất thật, rất đúng. Nhưng những ngôn từ cứ lồ lộ “nứt đôi mảnh” “kẻ hầm rêu
mốc” “giọt nước hữu tình” “con đường vô ngạn” “hớ hênh” “đẽo đá” “trơ
toen hoẻn”, cùng với vần om, chòm, phòm, bõm, om, các từ láy “hõm hòm
hom”, toen hoẻn, phập phòm, lõm bõm đứng cạnh nhau hoà phối tạo nên một
nghĩa ngầm. Mà người cho đó là rất tục, rất dâm. Yếu tố thanh tục trong thơ
Hồ Xuân Hương được người ta bàn đến nhiều. Vận dụng thuyết phân tâm
học của Feurd, các nhà nghiên cứu cho rằng Hồ Xuân Hương là một người
đàn bà hết sức phóng túng. Thơ bà biểu hiện khủng hoảng về tính dục của
một “thiên tài hiếu dâm đến cực điểm”. Đánh giá như vậy là thoá mạ hạ thấp
giá trị văn chương của một hồn thơ trác Việt.
Cách nhìn xã hội học coi yếu tố dâm dục tiếng cười trào phúng trong
thơ Hồ Xuân Hương là vũ khí đấu tranh giai cấp chống phong kiến, sức phản
kháng chống lại sự bóp nghẹt quyền sống con người, phá phách cái xấu xa.
Với nhu cầu hạnh phúc của con người nhất là người phụ nữ. Cách nhìn nhận

16


này không phải lúc nào cũng đúng. Đôi lúc xa vào suy diễn thiếu thực tế.

Nhìn nhận thơ Hồ Xuân Hương theo góc độ văn hoá học chúng ta sẽ có cái
nhìn mới hơn khả quan hơn.
Hang Cắc Cớ còn gọi là hang Thanh Hoá ở xã Thuỵ Khê, huyện Sai
Sơn, tỉnh Sơn Tây, nay là tỉnh Sơn Tây. Hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Mỗi
năm đều có hội Chùa Thầy. Mà đã đến hội Chùa Thầy ai mà chả qua hang
Cắc Cớ nhưng cách cảm, cách tả của Hồ Xuân Hương quả là tài hoa và độc
đáo. Cảm nhận đầu tiên về hang Cắc Cớ đó là cứ nhạc phát ra trong hang do
sự cộng hưởng của âm thanh với không gian vòm, sâu, trầm, đục. Qua âm
điệu của lời thơ được kết dệt thành bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt đậm sắc
màu dân gian.
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom
Mượn âm thanh để dựng lại không gian đó là nét đặc sắc trong thơ Hồ
Xuân Hương. Cách hiệp vần chòm, hõm hòm hom, điệp âm gợi nên rờ rỡ cái
hang tròn, sâu và nhỏ “trời đất sinh ra”, “nứt làm đôi mảnh” rất tự nhiên,
hang của trời cho, của tạo hoá ban tặng. Càng vào sâu trong hang càng nghe
những âm thanh lạ.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Hang sâu, tối, ẩm nên rêu không phát triển được “rêu mốc” không sắc
mầu, trơ đất đá mà ở đây Xuân Hương đã dùng chữ đến cạn cùng ngôn ngữ.
Trơ toen hoẻn. Khác với Đèo Ba Dội có ánh sáng mặt trời dương thịnh nên
rêu mọc xanh rì. Âm thanh trong hang cộng hưởng với tiếng gió thoảng
“thông reo” tạo thành âm thanh khuếch đại “Luồng gió thông reo vỗ phập
phòm”.”phập phòm” một thư âm thanh lạ phát ra trong cái nhịpgiao hoà của
hang tối Thạch nhũ giỏ từng giọt ,từng giọt thành tiếng lõm bõm. Cách tả rất
thực,rất sống động. Giọt nước hữu tình hay có cả tiếng lòng Xuân Hương.
Hang càng vô càng tối “vô ngạn” hình như không có bờ bến mà thăm thẳm.
Cách nhìn, cách cảm của Xuân Hương là cách nhìn cách cảm của dân gian
vừa rất thực tế nhưng cũng rất dí dỏm.


17


Hai câu cuối có vẻ khiêu khích bỡn cợt.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Nhưng sự đùa dỡn của Hồ Xuân Hương cũng có cơ sở của nó: đến hội
Chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết Chùa Thầy.
Ngày xưa khi nam thanh nữ tú đến hội Chùa Thầy vào hang Cắc Cớ khi vào
đốt đuốc vào trong hang thì tắt đuốc. Vì vậy Hồ Xuân Hương mới “Khen ai”.
Dân gian đã từng có câu ca:
Ở Chùa Thầy có hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội Chùa Thầy
Nhưng đó mới chỉ là nghĩa phô, nghĩa đen. Đằng sau câu chữ đầy ma
lực, biến hoá oái oăm là nghĩa ngầm mà nhiều người vẫn cho đó là dâm tục.
Cái hang hay biểu tượng của âm vật, tính giao đã “đá một chòm” rồi lại “đôi
mảnh hỏm hòm hom” “rêu mốc trơ toen hoẻn”- cái xấu xí mà lại để ra, trơ ra
không ngượng ngùng không xấu hổ, “rơi lõm bõm”, “tối om om”. Cả cách
nói lái, lấp lửng “đẽo đá”, “hữu tình”, “hớ hênh” - bày ra để lộ ra, cái đáng
phải che kín. Những ngôn từ cứ lồ lộ một cách tính nghịch làm cho người ta
dễ nhận ra nghĩa ngầm, nghĩa tục. Khác với cách nhìn phân tâm học hay xã
hội học, theo cách tiếp cận văn hoá học ta thấy nghĩa ngầm, biểu tượng hang
mang ý nghĩa phồn thực sâu sắc.
Biểu tượng hang, “hang”, “giếng”, “động”… đó là những “siêu mẫu”
tượng trưng cho bộ phận sinh sản. Thực tế ở nước ta thờ sinh thực khí như
cột đá, các hốc cây, hốc đá trong hang động, các kẽ nứt trên đá như: Chùa
Dạm (Hà Bắc), Sở Đầm, Hòn Đổ (Khánh Hoà)…
Tính dục có mặt ở đây như một yếu tố vũ trụ hiện hữu ở mọi con
người. Hồ Xuân Hương hay nói tới hang, kẽ, lạch, giếng, thân em… nhưng ở

đây là cái tự nhiên, cái sức sống, cái đẹp mang ý nghĩa phồn thực trong cái
nhìn dân gian hết sức hồn nhiên tự nhiên.
Triết lý phồn thực, văn hoá dâm tục chính là nằm trong nguồn văn hoá
dân gian. Nhiếu lễ hội dân gian nước ta có tục tắt đèn giữa đêm (tục dã đám)
ở La Cả, La Khê, Hà Đông. Trong khi hội hè đang tiếp diễn mọi người được

18


tự do. Nét văn hoá ấy trở thành phổ biến như một trào lưu nhất là khi chế độ
phong kiến suy thoái đến cùng cực như ở nước ta cuối thế kỷ XVIII nửa đầu
thế kỷ XIX. Các yếu tố dâm dục lấp lửng trong bài thơ nói riêng, trong toàn
bộ thơ Hồ Xuân Hương nói chung gần gũi với tiếng cười nông dân trong thời
buổi người ta không tìm ra cái gì vui hơn ngoài những thứ: ăn nằm, nói tục,
hút điếu cày, ăn trầu, … vì thế ta cũng dễ nhận ra việc nhìn hang Cắc Cớ mà
hình dung ra âm vật và tính giao là một lẽ thường tình tự nhiên. Đó là cái
nhìn dân dã hết sức hồn nhiên vẫn thường diễn ra trong cuộc sống bình dị
của người dân quê.
Những từ lấp láy, “hỏm hòm hom”, “toen hoẻn”, “phập phòm”, “lõm
bõm”, “om om” vừa có giá trị tạo nhạc, vừa có giá trị tạo hình, vừa mô tả
sống động cảnh vật tự nhiên, vừa gợi nghĩa ngầm hóm hỉnh, hồn nhiên, tinh
nghịch. Ngôn ngữ gai góc sắc nhọn chắt ra từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của
quần chúng nhân dân : nứt, trơ, đẽo, hớ hênh, chòm, dòm. Nó không làm cho
lời thơ thô thiển, rời rạc, trái lại cấu trúc ngôn ngữ chặt mà tinh, chữ dùng
vừa chân thực, sống động, vừa gợi liên tưởng thú vị. Vì vậy, bài thơ như là
một mảnh hồn cuộc sống, một cuộc sống đang ở độ sinh sôi tràn trề sinh lực.
Ở đó con người và thiên nhiên giao hoà hữu tình. Trong thời đại phong kiến
khủng hoảng trầm trọng thế kỷ XVIII, XIX mà lại có cái nhìn sự vật tươi vui
hồn nhiên như Hồ Xuân Hương quả là hiếm có.


19


C. KẾT LUẬN
Tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng là con đẻ của người nghệ sĩ. Là sản
phẩm của một thời đại. Nhận thức phản ánh là quy luật văn chương. Vì thế
thơ Hồ Xuân Hương là một sản phẩm của thời đại. Một thời đại đang trên
đường băng hoại về đạo đức, suy vi về chính trị, cùng kiệt về kinh tế … Thơ
Hồ Xuân Hương là tiếng nói hết sức hồn nhiên tự nhiên mang đậm bản sắc
văn hoá dân gian. Nhưng cũng là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ đối với chế
độ phong kiến đầy rẫy những bất công ngang trái lên tiếng bênh vực quyền
sống con người đặc biệt là người phụ nữ.
Với một sức sáng tạo tuyệt vời. Một nghệ thuật độc đáo có một không
hai. Thơ Hồ Xuân Hương là hiện tượng giao thoa, là cái gạch nối giữa văn
chương bác học và văn chương bình dân: vừa nôm na dung dị, vừa quý phái
cao sang. Những trước tác nghệ thuật của nữ sĩ có sức lay động, sức ám ảnh
sâu xa trong tâm hồn người đọc.
Qua hàng loạt các công trình nghiên cứu công phu hay những bài viết đầy
tính phát hiện các tác giả đã cho chúng ta thấy Hồ Xuân Hương không chỉ
mang đậm tinh thần, thế giới quan của văn hóa dân gian mà hình thức thể
hiện của nó cũng bình dị, dân dã như ca dao, tục ngữ. Hồ Xuân Hương được
phong tặng danh hiệu “Bà Chúa thơ Nôm”, hay “Nữ sĩ bình dân” chính
bởi những bài thơ giản dị và gần gũi với quảng đại quần chúng như thế

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguồn dữ liệu được tìm tại các tài liệu sau sau:
1.


Trần Nho Thìn (2003), Truyện Kiều dưới góc nhìn văn hoá, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.
2.

Nguyễn Bá Thành, Bản sắc văn hoá Việt Nam qua giao lưu văn

hoá, Nxb ĐHQG Hà Nội,
3.

Đỗ Lai Thuý, Thơ Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực. Nxb

Văn hoá Thông tin.
4.

Hồ Xuân Hương (2001), Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục

5.

Phạm Đăng Dư (2005), Giáo trinh Lý luận văn học, NXB Giáo

6.

Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình tác giả văn học nhà nho tài

dục.
tử trong văn học Việt Nam. Nxb. Giáo dục.
7.


/>
nom-ho-xuan-huong-va-tran-te-xuong-tu-goc-nhin-so-sanh.htm

21


LỜI CẢM ƠN!
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Ths. Nguyễn Thị Linh
Chi đã nhiệt tình hướng dẫn em bài viết thực tập viết tiểu luận này. Trong
quá trình làm bài cô đã cho em nhiều ý kiến để cho bài viết thêm phong phú
và hoàn chỉnh hơn cả về nội dung và hình thức. Một lần nữa em xin chân
thành cảm ơn cô rất nhiều. Kính chúc cô nói riêng và toàn thể Quý thầy cô
khoa Ngữ văn báo chí trường đại học Đà lạt thật nhiều sức khỏe, hạnh
phúc và thành công trong cuộc sống cũng như trong công việc.
Trân trọng!

22



×