Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên tỉnh đồng nai trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.98 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ TRỌNG MINH

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
TỈNH ĐỒNG NAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ TRỌNG MINH

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
TỈNH ĐỒNG NAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ THỊ KIỀU PHƯƠNG

HÀ NỘI 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Kiều Phương.
Nội dung luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước, với
những trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép.
Các kết quả luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác. Các số
liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày……tháng…..năm 2017
Người làm luận văn

Ngô Trọng Minh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP
LUẬT CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....7
1.1. Một số khái niệm ..............................................................................................7
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay ........................................................................................17
1.3. Chủ thể giáo dục ý thức pháp luật ..................................................................21
1.4. Nội dung và phương pháp giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay ......................................................................................212
1.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ........................................................................28
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP
LUẬT CHO THANH NIÊN TỈNH ĐỒNG NAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN

NAY ........................................................................................................................455
2.1. Khái quát một số đặc điểm của tỉnh Đồng Nai và thực trạng ý thức pháp luật
của thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay ......................................455
2.2. Thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai
đoạn hiện nay và một số vấn đề đặt ra .................................................................622
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác giáo dục ý thức pháp luật cho thanh
niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay.........................................................70
KẾT LUẬN ............................................................................................................833
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................855


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GDYTPL

Giáo dục ý thức pháp luật

YTPL

Ý thức pháp luật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức pháp luật là một trong những hình thái của ý thức xã hội bên cạnh ý
thức chính trị, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức đạo đức, v.v.. YTPL là tổng
thể những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, hành vi trong xã hội về pháp luật, là thái
độ tình cảm, sự đánh giá của con người đối với pháp luật cũng như đối với hành vi
pháp luật của các chủ thể trong xã hội. YTPL của mỗi người có vai trò rất quan
trọng trong việc thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Và hơn thế, YTPL còn liên

quan mật thiết đến sự tiến bộ xã hội và sự phát triển của xã hội.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế đang đặt ra cho nước ta nhiều vận hội bên cạnh những thách thức. Đảng và Nhà
nước rất coi trọng việc phát huy nguồn nhân lực và coi đây là yếu tố quyết định tới
việc phát triển kinh tế - xã hội và đồng thời khẳng định vai trò tiềm năng to lớn của
thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng đã khẳng định rõ: vấn đề thanh niên
phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người.
Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị
trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn phụ thuộc vào lực lượng
thanh niên, vào việc bồi dưỡng và rèn luyện thế hệ thanh niên.
Thanh niên là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khỏe, có trình độ học vấn,
có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ nền khoa học hiện đại.
Trong điều kiện hiện nay, việc bồi dưỡng, phát huy vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp phát triển đất nước có ý nghĩa rất quan trọng. Thanh niên là lực lượng quan
trọng có sứ mệnh cùng với Đảng và nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những
năm vừa qua, bên cạnh những chuyển biến tích cực, những điểm tiến bộ cơ bản
trong lực lượng thanh niên thì trong thời điểm hiện nay, do ảnh hưởng từ những mặt
trái của nền kinh tế thị trường cũng như xu thế toàn cầu hóa và nhất là do khôn

1


nghiêm túc trong rèn luyện phấn đấu mà một bộ phận thanh niên ở nước ta đang có
những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống
buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động,
chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh, nghiện ngập, thậm chí có những hành vi
vi phạm pháp luật,… Những hiện tượng đó trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai

của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến
bộ, văn minh của xã hội.
Đồng Nai là một tỉnh thuộc khu vực Miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, có một vị trí quan trọng trong việc kết nối vùng Đông
Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển, từ
một tỉnh chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu, Đồng Nai đã vươn lên trở thành
một trong những tỉnh có GDP bình quân đầu người cao nhất cả nước, tỷ trọng công
nghiệp ngày càng tăng, hình thành những khu công nghệ cao, kinh tế tri thức dần
được định hình. Sự phát triển đó không những được phản ánh qua sự lớn mạnh của
các ngành kinh tế - xã hội mà còn qua điều kiện sống và trình độ nhận thức của
người dân, đặc biệt là thế hệ thanh niên tỉnh Đồng Nai. Là thế hệ có vai trò hết sức
quan trọng mang tính quyết định và là chủ nhân tương lai của đất nước, thanh niên
tỉnh Đồng Nai đang có được những điều kiện thuận lợi để phấn đấu, rèn luyện, cống
hiến trí tuệ và sức lực của mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh Đồng
Nai, đồng thời họ cũng đứng trước những thử thách đòi hỏi phải có bản lĩnh, có tâm
thế vững vàng và có được những hành trang cần thiết để đóng sức vào sự phát triển
của tỉnh nhà cũng như của đất nước trong những điều kiện mới.
Góp phần vào việc tạo dựng những hành trang cần thiết đó cho thanh niên
tỉnh Đồng Nai, tác giả luận văn nhận thấy rằng việc định hướng cho tầng lớp thanh
niên tỉnh Đồng Nai sống, học tập và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giúp cho
thanh niên tỉnh Đồng Nai xác định được rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình đối
với xã hội là rất quan trọng và do vậy, đã lựa chọn vấn đề “Giáo dục ý thức pháp
luật cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ triết học.

2


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Với đề tài Giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong

giai đoạn hiện nay, về cơ bản, tổng quan vấn đề nghiên cứu gồm các mảng sau:
2.1. Những nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận về ý thức pháp
luật và giáo dục ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật là những vấn đề cấp thiết của
xã hội, liên quan mật thiết đến sự tiến bộ xã hội và sự phát triển của xã hội và do đó,
đến nay, đã có khá nhiều nghiên cứu liên quan đến lý luận về ý thức pháp luật và
giáo dục ý thức pháp luật. Trong số các nghiên cứu đã có về những vấn đề này ở
Việt Nam hiện nay, tiêu biểu có thể kể đến là:
Nguyễn Thị Thúy Vân (2001), Logic khách quan của quá trình hình thành
và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ triết học, Trường Đại học
khoa học xã hội & nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội [33]. Luận án đã có những
đóng góp rất lớn khi phân tích một cách sâu sắc và có hệ thống về sự tác động của
tồn tại xã hội Việt Nam đến quá trình hình thành và phát triển của YTPL ở Việt
Nam. Đây là cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu liên quan đến YTPL.
Đỗ Thành Đô (2016), Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các trường
đại học ở các tỉnh Trung Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết
học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [16]. Trong công trình này, tác giả đã đề
cập một số vấn đề rất cơ bản như khái niệm, đặc điểm, kết cấu, vai trò của YTPL…
góp phần làm cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu liên quan đến YTPL.
Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ công chức
hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội [31]. Tác giả phân tích các khái niệm, mục
tiêu, phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức hành chính trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các công trình nêu trên có mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau,
nhưng nhìn chung, đều xuất phát từ góc nhìn của khoa học pháp lý, triết học… mà
nêu ra những khái niệm cơ bản về ý thức pháp luật, giáo dục pháp luật, giáo dục ý

3



thức pháp luật cũng như vai trò và các mối quan hệ của các yếu tố cấu thành trong
YTPL.
2.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng và giải pháp giáo dục ý
thức pháp luật
Lê Đình Kiên (2002), Nâng cao YTPL cho đội ngũ cán bộ quản lý hành
chính, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội [20]. Trong công trình này, tác giả đã trình
bày tương đối rõ ràng về YTPL của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước và một số
giải pháp nhằm nâng cao YTPL cho đội ngũ cán bộ hành chính nhà nước.
Đỗ Thành Đô (2016), Giáo dục YTPL cho sinh viên các trường đại học ở các
tỉnh Trung Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội [16]. Trong luận án này, tác giả đã phân tích thực trạng
YTPL và GDYTPL cho sinh viên các trường Đại học Trung Trung Bộ, từ đó đề
xuất các giải pháp GDYTPL cho sinh viên có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Đình Đăng Lục (2013), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình
thành nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [21]. Trong cuốn sách này tác giả
đã nêu ra những vấn đề có tính nguyên tắc cho việc giáo dục ý thức pháp luật cho
lứa tuổi vị thành niên.
Nhìn tổng thể, có thể thấy, vấn đề ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp
luật đã được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn trong khá nhiều công trình, đề tài.
Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu trực diện về Giáo dục ý thức pháp luật cho
thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay từ góc độ triết học thì chưa có.
Trong luận văn này, trên cơ sở có kế thừa, tiếp thu những thành quả nghiên cứu từ
các công trình, đề tài đi trước, tác giả luận văn sẽ cố gắng làm rõ thêm vấn đề giáo
dục ý thức pháp luật cho thanh niên từ góc độ triết học, đó là: trên cơ sở mối quan
hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, làm rõ tính tất yếu của việc giáo
dục ý thức pháp luật cho thanh niên cùng những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo
dục đó, cũng như vai trò của việc giáo dục đó đến sự tồn tại và phát triển của tỉnh
Đồng Nai nói riêng, của xã hội Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4


3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác
giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian từ 2011 – 2015
- Không gian: tỉnh Đồng Nai
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục ý thức pháp luật cho
thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, luận văn phân tích thực trạng và
bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao công tác giáo dục ý
thức pháp luật cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về YTPL và GDYTPL cho thanh niên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, phân tích, đánh giá tình hình YTPL của thanh niên tỉnh Đồng Nai
và thực trạng giáo dục YTPL cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện
nay, qua đó nêu một số vấn đề đặt ra và bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao công tác GDYTPL cho thanh niên tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm
duy vật lịch sử nói chung, quan điểm về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội nói riêng, của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luật thanh niên 53/2005/QH11. Ngoài ra, luận
văn có kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lôgíc - lịch
sử, so sánh, phương pháp đánh giá và phân tích tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

5


- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ý thức pháp luật, giáo
dục ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên.
- Ý nghĩa thực tiễn
Giải pháp do luận văn đề xuất có thể áp dụng vào thực tiễn của tỉnh Đồng
Nai nhằm góp phần khắc phục những tồn tại hiện nay trong thực tiễn ý thức pháp
luật và giáo dục ý thức pháp luật, cụ thể là xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân nói chung và lực lượng thanh niên nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giáo dục ý thức pháp luật cho thanh
niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Chương 2: Thực trạng và giải pháp giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Ý thức pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội phát sinh và hình thành cùng
với ý thức chính trị của các giai cấp trong xã hội. YTPL là một hiện tượng xã hội
phức tạp, có nội hàm gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, lòng tin… là sự phản
ánh tồn tại xã hội một cách chủ động, tích cực và sáng tạo bởi con người. Con
người sống trong thế giới khách quan vô cùng phong phú và đa dạng bao gồm nhiều
yếu tố cấu thành như: môi trường tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, phương thức sản
xuất, điều kiện dân cư… Để tồn tại và cải tạo thế giới khách quan, con người phản
ánh nó thông qua các hình thái ý thức xã hội, trong đó có YTPL.
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thông thường đó là ý thức chấp hành pháp luật
của con người, “YTPL là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật… là
thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối
với hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội” [29; 609]. Quan niệm này đã đồng nhất
YTPL với một trong những biểu hiện của nó. Vì vậy, khi đánh giá YTPL của một tập
thể hay cá nhân người ta thường căn cứ vào những hành vi chấp hành pháp luật của
chủ thể đó. Quan niệm này chưa thể hiện rõ đặc trưng cơ bản của khái niệm, không
thấy rõ bản chất của YTPL nên dễ rơi vào quan điểm phiến diện và chủ quan.
Trong nghiên cứu lý luận cũng có nhiều quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.
Có quan niệm tập trung nhấn mạnh kết cấu của ý thức pháp luật như: “YTPL
là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ
thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý, những
tình cảm pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật” [29; 235].
Một số quan niệm khác lại thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật chỉ nhấn
7


mạnh mặt tri thức của pháp luật mà không đề cập đến tâm lý pháp luật như: “YTPL

là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã
hội thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật
hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính
hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong
hoạt động của cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội” [6; 229].
Có quan niệm đề cập đến ý thức pháp luật một cách đầy đủ hơn khi nêu lên
được cả tính chất, cơ cấu và nội dung về ý thức pháp luật: “YTPL là một hình thái ý
thức xã hội, là tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm
của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật
hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng,
đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp
luật trong tương lai, về hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các
cơ quan Nhà nước, tổ chức” [26; 290].
Tổng hợp những yếu tố hợp lý của các quan niệm nêu trên có thể rút ra khái
niệm ý thức pháp luật: “YTPL là một hình thái ý thức xã hội bao gồm tổng thể
những học thuyết, tư tưởng, tình cảm, quan điểm của con người đối với pháp luật,
thể hiện sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá của con người đối với pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có về tính hợp pháp hay không hợp
pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội”.
1.1.1.2. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hiện tượng xã hội có kết cấu phức tạp, trong đó các
yếu tố cấu thành của YTPL vừa thống nhất lại vừa tác động qua lại lẫn nhau. Để
nghiên cứu và tìm ra giải pháp GDYTPL cho thanh niên đòi hỏi phải nghiên cứu
mối quan hệ bên trong của các yếu tố cấu thành YTPL, giúp chúng ta hiểu tầm quan
trọng của các yếu tố cấu thành YTPL cũng như tìm ra giải pháp để hình thành
YTPL cho thanh niên.
Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu, xem xét kết cấu của ý thức pháp luật.
Dựa trên từng góc độ nghiên cứu có thể xem xét kết cấu YTPL ở những cấp độ khác

8



nhau, và mỗi cách tiếp cận sẽ định hình và hình thành nhận thức đặc điểm, vai trò
của YTPL.
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất, nội dung của ý thức pháp luật có thể chia ra
thành tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
“Tâm lý pháp luật là sự phản ánh tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm của
con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác” [2; 329].
Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát trong quá trình thực tiễn
hàng ngày của đời sống con người (cá nhân hoặc nhóm xã hội). Nội dung của tâm
lý pháp luật có thể là tình cảm, tâm trạng, thái độ, cảm xúc, khuôn mẫu hành vi của
con người khi có liên quan đến các quy phạm pháp luật hiện hành và sự thực hiện
chúng. Sự tồn tại của tâm lý pháp luật thường gắn với trạng thái tâm lý của con
người, là sự phản ánh trực tiếp những cung bậc tình cảm của con người đối với các
hiện tượng pháp lý cụ thể. Sự hài lòng hay không hài lòng trước sự kiện thông qua
một đạo luật mới hay bãi bỏ một đạo luật cũ; cảm giác thỏa mãn hay bất bình trước
việc áp dụng những quy phạm pháp luật nào đó trong thực tiễn hay đối với hành vi
của các cơ quan bảo vệ pháp luật; thái độ bức xúc hoặc thờ ơ trước những hành vi
vi phạm pháp luật – đó chính là những cảm xúc pháp luật và trong tổng thể chúng
thuộc YTPL và là một trong những yếu tố cấu thành ý thức xã hội.
Trong cấu trúc của ý thức xã hội, tâm lý pháp luật không hề đóng vai trò thứ
yếu. Nó là hình thức phổ biến, là hình thức ở những mức độ khác nhau của mọi mối
quan hệ xã hội có yếu tố pháp lý. Việc đánh giá tầm quan trọng của tâm lý pháp luật
sẽ định hình và tạo khả năng cho việc tiếp cận pháp luật ở một góc độ rộng hơn,
khắc phục quan niệm thiên lệch khi chỉ xem pháp luật như phương tiên thể chế hóa
ý chí của giai cấp cầm quyền mang tính áp đặt. Pháp luật xét về ngữ nghĩa thì nó
bao hàm những chuẩn mực, giá trị cao quý mà các thành viên trong xã hội đều thừa
nhận. Do vậy, để tạo ra sự hưởng ứng của cộng đồng và nâng cao hiệu lực thi hành
của pháp luật thì yếu tố then chốt là các quy phạm pháp luật phải phù hợp với thực
tiễn cuộc sống, hợp với lòng dân.

Hệ tư tưởng pháp luật là hệ thống các vấn đề mang tính bản chất của pháp

9


luật và quan hệ pháp luật, nó được khái quát ở tầm lý luận. Hệ tư tưởng pháp luật là
hệ thống các quan điểm, tư tưởng có tính chất lý luận và khoa học về pháp luật, là
kết quả của sự phản ánh tri giác, có mục đích, có tổ chức của hoạt động tư duy về
pháp luật và các hiện tượng pháp lý, cho nên sự phản ánh này rất sâu sắc, là cơ sở
hình thành lý luận, học thuyết về pháp luật của một giai cấp nhất định.
Nội dung của hệ tư tưởng pháp luật là những tri thức về vai trò, chức năng,
bản chất giai cấp của pháp luật, nó thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật với quyền
dân chủ, bình đẳng… của con người trong xã hội, về mối quan hệ giữa quyền và
nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực thi pháp
luật. Hệ tư tưởng pháp luật khi được khái quát thành hệ thống lý luận phản ánh
đúng đắn thực tiễn đời sống xã hội thì nó luôn luôn có xu hướng chuyển hóa thành
YTPL của toàn xã hội. Với tư cách là một bộ phận cấu thành ý thức xã hội, hệ tư
tưởng pháp luật có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội, nghĩa là khi hệ thống
pháp luật hình thành cùng với những quan hệ mang tính pháp lý phù hợp với thực
tiễn thì nó sẽ phát huy tác dụng và thúc đẩy xã hội phát triển.
Tâm lý pháp luật và hệ tưởng pháp luật là hai trình độ phản ánh khác nhau
của YTPL nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau trong sự
hình thành YTPL. Tâm lý pháp luật hình thành và phản ánh tâm trạng, cảm xúc, thái
độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý một cách tự
phát, chưa hoàn chỉnh và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật. Ngược lại, sự
hoàn thiện hay không hoàn thiện của hệ tư tưởng pháp luật cũng chịu tác động của
tâm lý pháp luật, nó là nhân tố kìm hãm hoặc kích thích tư duy sáng tạo của con
người trong quá trình hình thành hệ tư tưởng pháp luật.
Thứ hai, căn cứ vào mức độ phản ánh và trình độ nhận thức, có thể chia ý
thức pháp luật thành ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật khoa học.

“ý thức pháp luật thông thường là những hiểu biết nhất định về các quy phạm
pháp luật, là những kinh nghiệm để giải quyết các sự việc pháp lý cụ thể, đơn giản,
nhưng sự hiểu biết đó chưa sâu sắc, chưa có tính hệ thống và khoa học” [2; 330].
Ý thức pháp luật thông thường hình thành một cách trực tiếp, tự phát từ thực

10


tiễn đời sống hàng ngày như: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã
hội… Trong quá trình hoạt động thực tiễn, ở họ hình thành những kinh nghiệm, thói
quen, tập quán giải quyết các vấn đề liên quan đến các sự kiện và hiện tượng có tính
chất pháp lý.
Như vậy YTPL thông thường mới chỉ phản ánh được những mối liên hệ bên
ngoài của các hiện tượng pháp luật, nghĩa là chỉ mới phản ánh các sự kiện riêng
biệt, cục bộ của hiện tượng pháp luật chứ chưa đi sâu phản ánh bản chất của của
pháp luật.
“Ý thức pháp luật khoa học tồn tại dưới dạng quan điểm, học thuyết về pháp
luật, về bản chất của pháp luật, về sự tương tác giữa pháp luật và các hiện tượng xã
hội khác, về vai trò của cơ chế điều chỉnh pháp luật…” [2; 330]. Khác với YTPL
thông thường, YTPL khoa học phản ánh mối liên hệ bên trong, bản chất của pháp
luật, do vậy nó phản ánh một cách sâu sắc và có hệ thống các hiện tượng pháp luật
thông qua nghiên cứu và tổng hợp các kiến thức pháp luật.
Ý thức pháp luật khoa học có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng,
chỉ đạo YTPL thông thường, do vậy nó là yếu tố quyết định tốc độ, khuynh hướng
phát triển của của YTPL thông thường. Đồng thời có chức năng dự báo, lập kế
hoạch xây dựng chính sách pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật; GDYTPL.
Thứ ba, dựa trên đối tượng phản ánh, có thể chia ý thức pháp luật thành ý
thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
Ý thức pháp luật xã hội là toàn bộ những tư tưởng, tâm lý chung phản ánh
đời sống pháp luật của các cá nhân, các cộng đồng trong xã hội được thừa nhận và

tồn tại phổ biến trong xã hội. YTPL xã hội xét về nguồn gốc hình thành thì nó là kết
quả của quá trình nhận thức ở trình độ cao được khái quát từ sự tương tác giữa
YTPL của cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, cá nhân với xã hội. Thông
thường YTPL xã hội là ý thức của bộ phận tiên tiến đại diện cho xã hội, nó chứa
đựng những tư tưởng, quan điểm tiến bộ, khoa học về những vấn đề cơ bản nhất của
pháp luật. Chính vì vậy YTPL xã hội được phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội, giữ
vai trò định hướng và quyết định đối với nội dung các đánh giá, phản biện của dư

11


luận xã hội về các vấn đề liên quan đến pháp luật.
Ý thức pháp luật nhóm là những quan điểm, tư tưởng, tình cảm của một
nhóm xã hội nhất định về pháp luật và đối với pháp luật. Trong xã hội do sự giống
nhau về điều kiện sống, nhu cầu lợi ích của các thành viên trong nhóm mà mỗi cá
nhân trong nhóm có những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ của họ đối với
pháp luật tương đối tương đồng với nhau.
Ý thức pháp luật cá nhân là những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình cảm,
thái độ của mỗi người đối với pháp luật. Trình độ ý thức của mỗi cá nhân không
hoàn toàn giống nhau mà có sự khác biệt, nguyên nhân là do sự khác biệt về điều
kiện hoàn cảnh sống, môi trường giáo dục, trình độ học vấn, kinh nghiệm sống…
của cá nhân. Vì vậy, ý thức pháp cá nhân mang tính phong phú, đa dạng và thể hiện
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biểu hiện của YTPL cá nhân có thể ở
trình độ cao hay thấp, tiến bộ hay lạc hậu, tích cực hay tiêu cực, mức độ phạm vi
ảnh hưởng của nó sâu rộng hay hạn hẹp… Khi xuất hiện các sự kiện, hiện tượng
pháp luật trong đời sống hàng ngày thì YTPL cá nhân chính là cơ sở để mỗi người
đưa ra sự phản biện, đánh giá riêng của mình về hiện tượng, sự kiện, sự việc đó.
1.1.1.3. Chức năng của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có ba chức năng cơ bản đó là: nhận thức, mô hình hóa và
điều chỉnh hành vi.

- Chức năng nhận thức của ý thức pháp luật là sự phản ánh chủ động, tích
cực và sáng tạo thực tiễn đời sống pháp luật vào bộ óc con người, thông qua hệ
thống vật chất có cấu trúc đặc biệt đó mà hình thành nên YTPL. Đó là các quan hệ
xã hội mang tính chất pháp lý diễn ra lặp đi lặp lại trong thực tiễn mà từ đó con
người có được những thông tin, hiểu biết về sự điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng
hệ thống pháp luật, hình thành nên những khái niệm, quan điểm, tư tưởng và niềm
tin của con người đối với hệ thống pháp luật.
- Chức năng mô hình hóa của ý thức pháp luật thể hiện trong việc hoạch định
chính sách pháp luật, xây dựng pháp luật theo những ý tưởng, mô hình, dự án định sẵn.
- Nhờ có ý thức pháp luật mà con người có thể nhận thức được các hiện

12


tượng, bản chất pháp luật, nghĩa là thông qua đó con người có thể khái quát được
những quy luật cũng như xu hướng phát triển của các quan hệ mang tính pháp lý để
hình thành nên những chuẩn mực hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Mặt
khác, nếu tri thức pháp luật giúp cho con người xác định được những hành vi phù
hợp với yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành thì tình cảm pháp luật lại là yếu tố
thúc đẩy con người hoạt động phù hợp với cách thức đã định ra. Như vậy, chính
YTPL đã giúp cho con người tự điều chỉnh hành vi của mình, hướng hoạt động của
mình sao cho phù hợp với pháp luật, do đó, sức mạnh điều chỉnh của YTPL là sức
mạnh tiềm ẩn trong bản thân của mỗi người. Đó là sức mạnh của lý trí, tình cảm có
trong con người. YTPL không chỉ điều chỉnh hành vi của con người mà còn giúp
cho con người điều chỉnh cả hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, áp
dụng pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật.
Tóm lại, ba chức năng chính của ý thức pháp luật đều có sự tác động qua lại,
liên hệ chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất và chúng cùng thể hiện bản chất
chung của YTPL đó là sự phản ánh tích cực, sáng tạo đời sống pháp luật thông qua
hoạt động xã hội của con người.

1.1.1.4. Vai trò của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật ra đời từ những điều kiện xã hội nhất định, phản ánh nhu
cầu điều chỉnh cũng như quá trình điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã
hội. YTPL do tồn tại xã hội quyết định, tuy nhiên YTPL cũng có tính độc lập tương
đối, có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội, nhất là trong đời sống pháp
luật, vai trò của YTPL được thể hiện chủ yếu như sau:
+ Góp phần xây dựng pháp luật và phát triển khoa học pháp lý
Có thể khẳng định rằng, xã hội không thể có một nền khoa học pháp lý với
những khái niệm, phạm trù, khoa học, nếu không có một trình độ ý thức PL tương
xứng. Điều này đòi hỏi YTPL của xã hội không thể dừng lại ở trình độ hiểu biết
thông thường, ở ý thức phục tùng các quy tắc của đời sống xã hội và những quy
định của Nhà nước, mà đòi hỏi phải nâng cao YTPL lên trình độ lý luận có hệ
thống. Từ học thuyết, quan niệm cơ bản, đến các khái niệm, phạm trù.

13


Thật vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta chưa có hệ thống pháp luật đầy đủ,
hệ thống pháp luật mới chỉ có được một số bộ luật, đạo luật về hình sự, hôn nhân và
gia đình… Nhưng chỉ trong thời gian mười năm thực hiện đổi mới (1986 – 1996),
Quốc hội đã xây dựng và ban hành một khối lượng văn bản pháp luật gấp nhiều lần
so với các năm trước cộng lại. Sở dĩ có điêu này là nhờ vào YTPL của xã hội đã
phát triển ngày càng cao hơn, thể hiện ở chỗ nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò
của pháp luật trong đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Trình độ nhận thức ngày
càng cao YTPL ngày càng sâu sắc, lan tỏa trong toàn xã hội thì những văn bản quy
phạm pháp luật nhất là bộ luật, đạo luật…, tạo ra những hành lang pháp lý cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội nói chung và của đời sống pháp luật nói riêng. Và
đến lượt nó, tồn tại xã hội của đời sống pháp luật được ý thức, làm cho ý thức phát
triển… cứ như thế sự tác động biện chứng giữa tồn tại xã hội của đời sống pháp luật
và YTPL làm cho chúng phát triển hợp quy luật.

+ Góp phần thi hành pháp luật
Việc thi hành pháp luật, kể cả việc tuân thủ pháp luật và nhất là người áp
dụng pháp luật đều cần có ý thức pháp luật cao. YTPL cao thì việc áp dụng pháp
luật trong hoạt động quản lý nhà nước, kiểm sát, xét xử, thi hành án và ban hành
các quyết định pháp lý càng chính xác, nghiêm minh hơn và hiệu quả đối với xã
hội sẽ cao hơn.
Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật sẽ tốt hơn nếu kiểm sát viên có tri thức
pháp luật cao, cùng thái độ tôn trọng pháp luật và gương mẫu trong thực thi pháp luật.
Công tác xét xử của tòa án sẽ sẽ tốt hơn nếu các thẩm phán, hội thẩm nhân
dân có ý thức pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn và đạo đức tốt. Thực tiễn đã
chứng minh: đạo đức của người nhân danh công lý là nhân tố quan trọng trong việc
đảm bảo áp dụng pháp luật được khách quan nghiêm minh. Mặt khác YTPL càng
đầy đủ thì việc thực thi pháp luật sẽ càng nghiêm minh, sẽ nâng cao nền đạo đức xã
hội, và đạo đức càng nâng cao sẽ tác động tích cực đến quá trình thực thi pháp luật.
Ngược lại pháp luật không được thực thi nghiêm minh, đạo đức xuống cấp thì pháp
luật bị “chọc thủng”. Đây là quan hệ biện chứng giữa đạo đức và pháp luật.

14


Tóm lại, ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong việc giữ gìn trật tự xã hội và xã
hội đó lại tạo điều kiện thuận lợi để YTPL được nâng cao và phát triển. Sự quan hệ
biện chứng đó làm cho YTPL và tồn tại xã hội của đời sống pháp luật cùng phát triển.
+ Thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Ý thức pháp luật xét trong tổng thể bao gồm cả hệ thống tri thức pháp luật,
cả tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật của toàn xã hội. Điều này sẽ có tác dụng
bảo vệ và thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội đi theo một trật tự nhất định. Mặt
khác với YTPL cao mọi người sẽ sớm nhận thấy những tình huống có vấn đề từ
thực tiễn đời sống xã hội đặt ra và đòi hỏi pháp luật điều chỉnh; đó chính là tiền đề
làm cho hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, tạo môi trường pháp lý thuận lợi

cho kinh tế - xã hội phát triển.
+ Giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ tổ quốc
Ý thức pháp luật không chỉ có vai trò trong sự phát triển kinh tế xã hội, mà
còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ tổ quốc, chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự
xã hội, đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế, mở cửa như hiện nay, việc nắm
vững pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là đòi hỏi tất yếu đối với cán bộ, chiến
sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và quan hệ quốc tế. Họ sẽ có bản lĩnh và hành động
kiên quyết để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia và tham
gia quan hệ quốc tế mang lại hiệu quả cao hơn.
1.1.2. Giáo dục ý thức pháp luật
Để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục ý thức pháp luật, trước hết cần
xuất phát từ khái niệm giáo dục. Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu là hoạt động
có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể
giáo dục, nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: truyền bá những kinh nghiệm
trong sản xuất, trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để
khách thể có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội. Giáo dục theo nghĩa này
không bao hàm trong đó những ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, nghĩa là
không tính đến những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài lên đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa rộng hơn, giáo dục lại được hiểu là quá trình ảnh hưởng của

15


những điều kiện khách quan như chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, phong tục tập quán… và sự tác động của các nhân tố chủ quan như sự tác
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên việc
hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của khách thể giáo dục.
Trên cơ sở của khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng chúng ta thấy rằng khái
niệm giáo dục được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố là chủ quan
và khách quan. Do đó, giáo dục YTPL cũng được đặt trong mối quan hệ này. Sự

hình thành và phát triển ý thức của con người, là sản phẩm của một quá trình phức
tạp, trong đó các điều kiện khách quan là những nhân tố ảnh hưởng có thể tự phát
theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính
tác động có ý thức, có mục đích và định hướng rõ ràng cụ thể. Khi hai nhân tố
khách quan và chủ quan có ảnh hưởng cùng chiều thì hiệu quả giáo dục sẽ đảm bảo,
ngược lại thì hiệu quả giáo dục không những không đạt hiệu quả mà còn khó tránh
khỏi những hạn chế. Vì vậy, khi các chủ thể giáo dục tác động lên các yếu tố khách
quan nếu có ảnh hưởng bất lợi thì phải kịp thời có những điều chỉnh cả về nội dung,
hình thức và phương pháp giáo dục để sao cho phù hợp với mục đích giáo dục.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố khách quan với các tác động
của nhân tố chủ quan trong giáo dục hình thành ý thức của con người cho phép
chúng ta có thể nghiên cứu những vấn đề về giáo dục pháp luật trong quá trình đi
tới mục tiêu hình thành ý thức pháp luật của đối tượng được giáo dục. Sự hình thành
YTPL là sản phẩm của điều kiện khách quan và chủ quan tác động vào ý thức con
người. Trong đó GDYTPL chỉ là một yếu tố của quá trình hình thành YTPL, đó là
sự tác động có mục đích, có định hướng của nhân tố chủ quan.
Thực tiễn nước ta trong những năm qua đã chỉ ra rằng, sự tác động của
những điều kiện mang tính tiêu cực của nền kinh tế thị trường đang tác động mạnh
mẽ đến nhận thức, lối sống, tình cảm, lòng tin của con người đối với pháp luật đã
tác động rất lớn đến YTPL của mỗi người. Việc tiến hành các hoạt động GDYTPL
với những nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp có ý nghĩa rất quan
trọng nó sẽ hạn chế được những mặt tiêu cực của nhân tố khách quan đem lại, từ đó

16


sẽ hình thành và phát triển YTPL tiến bộ cho con người.
Từ sự phân tích ở trên có thể rút ra khái niệm giáo dục ý thức pháp luật như
sau: GDYTPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo
dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ sự hiểu biết,

thái độ và sự đánh giá về pháp luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong
xã hội, về hành vi hợp pháp hay không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức trong xã hội.
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Đặc điểm và vai trò của thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Thanh niên Việt Nam (có độ tuổi từ 16 đến 30, theo quy định của Luật
Thanh niên) là một tầng lớp xã hội đặc thù, chiếm số đông trong dân số cả nước.
Thanh niên Việt Nam không phải là một giai cấp nhưng có mặt ở cả giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; thanh niên không phải là một tầng lớp
xã hội độc lập mà có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các tầng lớp khác trong xã
hội; thanh niên có mặt ở tất cả các địa phương, các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước.
Đứng ở góc nhìn của triết học, tâm lý học, xã hội học, thanh niên được xem
là một “mốc son” quan trọng của cuộc đời mỗi con người đánh dấu bước chuyển
biến từ tuổi ấu thơ, tuổi thiếu niên sang tuổi trưởng thành. Ở tuổi này, con người
phát triển nhanh về thể chất, tâm lý, sinh lý. Đó là tuổi bắt đầu trưởng thành về nhân
cách, đạo đức và văn hóa, là độ tuổi khẳng định tính sáng tạo, nuôi dưỡng mơ ước,
hoài bão, khát vọng của tuổi trẻ, có ý chí vươn lên, sống sôi nổi trong quan hệ tình
bạn, tình yêu. Tuổi thanh niên là tuổi đến với lý tưởng, với khao khát, hoài bão cháy
bỏng được mang sức trẻ, lòng nhiệt huyết và trí tuệ của mình cống hiến cho xã hội,
đất nước. Lịch sử đã chứng minh rằng, mỗi khi xã hội trải qua những biến động, qua
những cuộc cách mạng thì vai trò, tính xung kích của thanh niên được đặt lên hàng
đầu. Thanh niên là lực lượng tiên phong dám thay đổi cái cũ và đương đầu với
những thử thách mới với một ý chí tự lực tự cường mạnh mẽ. Trong bất cứ hoàn

17


cảnh nào, thời đại nào, thanh niên Việt Nam vẫn là người phản ánh và thể hiện rõ

nhất hình ảnh của dân tộc Việt Nam với những đức tính lao động cần cù, thông
minh, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, tự tôn và tự hào về truyền thống con rồng cháu
tiên. Vì vậy, mọi cơ chế, chính sách, đầu tư cho thanh niên cũng chính là đầu tư cho
việc giữ gìn và nâng cao những giá trị chuẩn mực tốt đẹp của người Việt Nam trong
một thế giới hội nhập, hợp tác, phát triển nhưng cũng đầy biến động khôn lường.
Thanh niên chính là bộ mặt, là thước đo cho sự phát triển của một xã hội,
một quốc gia. Với vị thế mà mình đang có, lực lượng thanh niên đã, đang và ngày
càng ra sức cống hiến sức lực, tài năng và trí tuệ của mình cho đất nước. Vấn đề
YTPL của thanh niên là một điểm trọng yếu trong số những chính sách và động thái
tích cực của Nhà nước quan tâm tới đối tượng này.
1.2.2. Yêu cầu khách quan của việc giáo dục ý thức pháp luật cho thanh
niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh những điều kiện
vật chất, chính trị, xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật của xã hội có giai cấp.
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của YTPL xuất phát từ nhu cầu khách quan của
đời sống xã hội. Từ nhu cầu khách quan đó của đời sống xã hội con người phản ánh
tồn tại xã hội và hình thành ở họ những tư tưởng, quan điểm, quan niệm về sự cần
thiết phải điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật và điều chỉnh chúng như thế
nào cho có hiệu quả nhất. Ý thức pháp luật phát sinh, phát triển từ tồn tại xã hội và
do tồn tại xã hội quyết định. Thực tiễn nước ta cho thấy, khi mà xã hội có những
biến đổi thì ý thức pháp luật cũng biến đổi theo, sự biến đổi đó ngày càng đa dạng,
phong phú. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà đời sống xã hội có sự biến đổi
nhanh chóng và tác động trên tất cả các lĩnh vực có ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc
sống của con người. Chính sự biến đổi đó đòi hỏi hệ thống pháp luật phải thay đổi,
đồng nghĩa với việc ý thức pháp luật cũng phải biến đổi.
Ý thức pháp luật bị quyết định bởi tồn tại xã hội, tuy nhiên ý thức pháp luật
cũng có tính độc lập tương đối, được biểu hiện cụ thể trên các phương diện sau:

18



- Ý thức pháp luật có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thực tế cho thấy
khi những sinh hoạt vật chất, điều kiện sinh hoạt vật chất đã thay đổi nhưng ý thức
pháp luật cũ vẫn còn tồn tại, đặc biệt là tâm lý pháp luật. Thông thường một văn bản
pháp luật mới ra đời hoặc thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay đổi nhưng nhiều
người vẫn chưa nắm bắt được do nhiều lý do khác nhau, nên ý thức pháp luật của họ
chậm đáp ứng nhu cầu của thực tế cuộc sống pháp luật. Sự lạc hậu của ý thức pháp
luật sẽ tác động tiêu cực, kìm hãm sự tiến bộ của xã hội, mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Ý thức pháp luật có thể tiến bộ hơn so với tồn tại xã hội. Những tư tưởng
pháp luật, đặc biệt là những tư tưởng khoa học pháp lý của cơ quan chuyên trách,
hội đồng tư vấn trong vấn đề xây dựng hệ thống pháp luật sẽ có tác dụng to lớn
trong việc hình thành và phát triển một nền pháp luật tiên tiến, thúc đẩy sự phát
triển của đời sống xã hội xã hội.
Đánh giá về tính cần thiết của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội từ
hai góc độ:
Thứ nhất, về góc độ xây dựng luật và ban hành luật: Nhà nước với tư cách là
người trực tiếp sáng tạo pháp luật trước hết phải nhận thức được những đòi hỏi
khách quan của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội. Chỉ có xuất phát từ thực tiễn đời
sống để tổng kết, khái quát thì hệ thống pháp luật đó mới dẽ đi vào được sống.
Chẳng hạn trong đời sống kinh tế, ý thức xã hội có thể góp phần thúc đẩy đời sống
kinh tế phát triển, bởi lẽ ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp để xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật. Hệ thống pháp luật nếu phản ánh
đúng quy luật phát triển kinh tế, phản ánh đúng nhu cầu và xu hướng phát triển của
chế độ kinh tế - xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định thì mới có tác dụng thúc
đẩy và tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế - xã hội mới phát triển.
Thứ hai, về góc độ thực hiện pháp luật: trong tất cả các mối quan hệ xã hội
từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đều chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật.
Khi mà các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật khoa
học, tiến bộ thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên vai trò thúc đẩy đó chỉ có


19


tác dụng khi mà ý thức pháp luật của nhân dân đã được xác lập và được nâng cao.
Một hệ thống pháp luật có đi vào cuộc sống được hay không là ở ý thức pháp luật
của người dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất
yếu đối với các quốc gia hiện nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung
đó. Nhà nước pháp quyền không chỉ đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn thiện,
thống nhất, ổn định, minh bạch, dân chủ và công bằng mà còn đòi hỏi tinh thần
thượng tôn pháp luật của mọi cá nhân trong đời sống của một quốc gia. Điều đó
cũng có nghĩa, song song với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là
quá trình xây dựng ý thức pháp luật.
Trên tinh thần đổi mới toàn diện, triệt để trên tất cả các lĩnh vực, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã và đang ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước với mục tiêu
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, một trong những
nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là phải xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Một
trong những tiêu chuẩn để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đó là thượng
tôn pháp luật, nghĩa là việc chấp hành pháp luật đã trở thành tự giác với ý thức pháp
luật cao. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, một tỷ lệ không nhỏ thanh niên còn hiểu
biết pháp luật một cách rất sơ sài, hời hợt. Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan
mà một bộ phận thanh niên còn ít hiểu biết thậm chí là không hiểu biết về quyền và
nghĩa vụ của bản thân, không biết đánh giá một hành vi là hợp pháp hay vi phạm
pháp luật. Thanh niên có hành vi xử sự không đúng với quy định của pháp luật hay
có tâm lý thiếu tự tin trước các vấn đề pháp lý, không có khả năng tự bảo vệ quyền
lợi của mình khi bị xâm hại. Hậu quả đáng tiếc là người phạm tội không biết mình
phạm tội, người bị hại không nhận thức rằng mình bị hại. Tình trạng này đã và đang
là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn tới bất ổn định xã hội.
Bên cạnh bộ phận thanh niên thiếu hiểu biết pháp luật thì còn một bộ phận

dù có hiểu biết pháp luật nhưng lại mang thái độ thờ ơ hay bất tuân pháp luật. Ở bộ
phận thanh niên này không tồn tại niềm tin vào sự công bằng, nghiêm minh của
pháp luật, thay vào đó là thái độ thờ ơ, lãnh đạm trước sự thay đổi của hệ thống văn

20


×