Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC TẠI XÃ TÂN HỢP, HUYỆN TÂN KỲ, TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.97 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
Trang
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ
GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1- Cơ sở lý luận
2
5
1.1 Vai trò của giáo dục 5
1.2 Vai trò của việc nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH 6
1.3 Vai trò của công tác xã hội hoá giáo dục 7
1.4 Nội dung của công tác xã hội hoá giáo dục 9
2- Cơ sở thực tiễn 10
2.1 Nhưng thành tựu giáo dục của cả nước trong mấy năm qua 10
2.2 Những tồn tại trong công tác xã hội hoá giáo dục ở nước ta hiện nay 13
Chương II
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CỦA VÙNG SÂU, VÙNG CAO TÂN HỢP

1 - Đặc điểm tình hình 15
1.1 Tình hình địa phương 15
1.2 Tình hình chung của nhà trường 17
2 - Quá trình thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục tại Tân Hợp trong
thời gian qua
2.1 Những kết quả đạt được và nguyên nhân 17
2.2 Những hạn chế còn tồn tại 22
2.3 Những vấn đề đặt ra cần giải quyết 24
Chương III
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2013

1 - Mục tiêu


26

2 - Một số giải pháp cơ bản 27
Kết luận
35
PHỤ LỤC 36
1
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT
CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
TẠI XÃ TÂN HỢP, HUYỆN TÂN KỲ, TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ IX xác định: “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, nhằm chuẩn
bị tốt nhất về nguồn lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”, “đổi mới giáo dục phổ thông nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng giáo dục và chuẩn bị nguồn lực về con người, nhằm rút ngắn khoảng
cách giáo dục so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chuẩn bị tiềm lực
để xây dựng nền kinh tế tri thức”.
Văn kiện Đại hội X, báo cáo Chính trị tiếp tục chỉ rõ: “Đổi mới toàn diện
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - coi trọng hàng
đầu việc bảo đảm và nâng cao chất lượng dạy và học, điều chỉnh và khắc phục
tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và sách giáo
khoa phổ thông có tính khoa học, đại chúng và phổ cập, phù hợp tâm lý lứa tuổi
và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định
chất lượng giáo dục. Thực hiện xã hội hoá giáo dục, đổi mới cơ chế quản lý,
tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, phấn đấu đến năm 2010
năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ các nước trong khu vực và
đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp”.
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng nhằm tạo cơ sở ban đầu để hình

thành nhân cách con người, phẩm chất năng lực của công dân, đào tạo nguồn
nhân lực cho tương lai theo hướng toàn diện, năng động và sáng tạo, có niềm tự
hào dân tộc, có đạo đức và ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nước ta là một quốc gia có nhiều thành phần dân tộc anh em cùng chung
sống, đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước. Địa bàn miền núi, vùng
sâu, vùng xa thông thường là địa bàn cư trú của các đồng bào dân tộc thiểu số.
Hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các thành phần dân tộc ở nước
2
ta vẫn có sự chênh lệch. Vì vậy phải chú ý hơn nữa đến việc phát triển kinh tế -
xã hội ở vùng dân tộc ít người.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan
trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục
ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ
người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội. Đảng ta đã xác
định: “Sự nghiệp giáo dục là của nhà nước và của toàn dân”, vì vậy công tác xã
hội hoá giáo dục càng có tầm quan trọng và ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai
đoạn hiện nay.
Là người cán bộ quản lý trường tiểu học, chịu trách nhiệm trước Đảng,
Nhà nước và nhân dân trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc dạy và
học của một nhà trường vùng sâu, vùng xa. Tôi càng thấy mình cần xác định rõ
hơn trọng trách, đầu tư hơn về tâm huyết, công sức, trí tuệ. Không ngừng nâng
cao học tập để đưa nhà trường ngày một đi lên. Củng cố, duy trì, nâng cao chất
lượng dạy và học của nhà trường nhằm xây dựng đơn vị từng bước đạt chuẩn
quốc gia theo mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước đề ra. Đối với vùng sâu,
vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Với chủ trương đưa miền núi tiến kịp
miền xuôi, thực hiện chính sách công bằng xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chính sách quan trọng: Chính sách “xoá đói, giảm nghèo”, đầu tư phát

triển cơ sở hạ tầng bằng chương trình 135, dự án hạ tầng cơ sở nông thôn dựa
và cộng đồng (chương trình CBRIP) đã làm cho bộ mặt các xã miền núi thay
đổi căn bản. Điện, đường, trường, trạm được đầu tư xây dựng, khắc phục được
hạn chế từ bao nhiêu đời nay của nông thôn miền núi. Có ý nghĩa hết sức quan
trọng và nổi bật. Đó là điều kiện có ý nghĩa quan trọng, quyết định và hết sức
cơ bản để đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục tiểu học vùng cao vươn tới. Tuy vậy,
việc đầu tư vẫn thiếu tính trọng điểm, còn dàn trải, mỗi hạng mục công trình
một ít. Vì thế phát huy tính hiệu quả chưa cao.
Bên cạnh đó, việc huy động nội lực của nhân dân để tham gia đóng góp
trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng lại đạt kết quả rất thấp mà nguyên nhân
căn bản vẫn là tính trông chờ, ỷ lại dai dẳng của thời kỳ quan liêu bao cấp còn
sót lại mà chưa bứt phá lên được của mỗi người dân nơi đây. Công tác xã hội
hoá vì thế mà còn kém phát triển.
Là người quản lý nhà trường, việc đi sâu nghiên cứu và đề ra được những
giải pháp mang tính thực tiễn và có khả năng thực thi để huy động tốt mọi
nguồn lực cùng xây dựng nhà trường ngày cảng phát triển, vừa bảo đảm phù
3
hợp với đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, vừa mang tính đột phá, lại
vừa là cơ sở thực tiễn đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay. Có như thế mới đảm bảo
được yêu cầu mới đối với người quản lý giáo dục và là con đường ngắn nhất
đưa nhà trường tiến tới đạt chuẩn quốc gia, tạo được uy tín và niềm tin của xã
hội.
Đề tài chỉ giới hạn đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác xã hội hoá giáo
dục của một nhà trường vùng đặc biệt khó khăn. Từ đó đề ra một số giải pháp
thiết thực để nâng cao chất lượng bậc học, chủ yếu là công tác vận động quần
chúng cùng tham gia làm công tác giáo dục, nhằm đưa nhà trường tiến tới đạt
các tiêu chuẩn của một nhà trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
Nhìn nhận, đánh giá đồng thời có những giải pháp hữu hiệu chính là góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trên địa bàn. Thúc đẩy giáo dục
cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện ổn định phổ cập giáo dục tiểu học; góp phần

hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tạo niềm tin vững chắc cho cấp uỷ Đảng,
chính quyền các cấp và nhân dân địa phương. Cùng huyện nhà đưa nền giáo dục
tiến kịp các huyện vùng xuôi trong xu thế phát triển của quốc gia và khu vực.
Đề án về công tác xã hội hoá giáo dục ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn
giữ vai trò, ý nghĩa rất to lớn đối với công tác lãnh đạo và chỉ đạo của người
hiệu trưởng tiểu học bao gồm các mục đích sau:
- Phát triển và nâng cao nhu cầu về giáo dục trong cộng đồng dân cư, từ đó
có tác động tích cực trong việc tự giác của chính quyền và đoàn thể, của mỗi
người dân trong việc tham gia đóng góp nội lực để xây dựng trường sở, huy
động con em tới trường, duy trì số lượng học sinh và trên hết là cùng nhà
trường ngày một nâng cao chất lượng dạy và học.
- Nâng cao thời lượng học tập và giáo dục tại trường.
- Bảo đảm nâng cao chất lượng dạy và học các tiết học và buổi học.
- Giúp hiệu trưởng có cơ sở thực tiễn để xây dựng kế hoạch đúng đắn, phù
hợp, hiệu quả mà không để cho trí tưởng tượng bay bổng. Đề ra những chỉ tiêu,
những biện pháp vừa sức, trong tầm tay. Tạo được niềm tin ở khả năng thực
hiện của mọi thành viên trong tập thể sư phạm, trong lãnh đạo chính quyền,
đoàn thể địa phương và của mỗi người dân.
- Từng bước đưa các phương tiện kỹ thuật vào nhà trường, làm giảm nhẹ
lao động sư phạm, lao động quản lý và những cán bộ giúp việc.
- Tạo ra nhà trường văn minh, sạch, đẹp trong cơ sở vật chất, trong quan
hệ, làm cho học sinh yêu trường, yêu thầy, mến bạn, thêm ham thích hoạt động.
4
- Tạo sự phân công, phân cấp cụ thể, tạo đủ quyền hạn và ý thức trách
nhiệm của những người cộng sự.
- Giúp hiệu trưởng vạch được kế hoạch, tham mưu có hiệu quả, đề ra được
lộ trình và bước đi thích hợp trong từng giai đoạn. Cũng từ đây, hy vọng sẽ đẩy
nhanh hơn một bước để xây dựng nhà trường đạt chuẩn. Góp phần xây dựng
bậc học “ổn định, lành mạnh và phát triển”.
Chương I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1 - Cơ sở lý luận
1.1 Vai trò của giáo dục
Vai trò của giáo dục lớn tới mức, nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong
của cả một dân tộc. Vì sao vậy? Vì giáo dục chính là trụ cột của một quốc gia
để tạo dựng, giữ gìn và phát triển hệ giá trị xã hội.
Nền giáo dục có tốt thì mới góp phần tạo dựng, bảo vệ được một hệ giá
trị nhân bản, phù hợp với đặc trưng tốt đẹp của dân tộc và vì vậy đủ sức mạnh
làm nền tảng cho xã hội phát triển, hưng thịnh; ngược lại, với nền giáo dục kém
và hệ quả đi kèm với nó, hệ giá trị yếu thì dân tộc đó khó có sức bật đi lên.
Trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay, nhiều quốc gia phương Tây càng
chú trọng phát triển giáo dục, coi đấy như một nhiệm vụ quan trọng của nhà
nước trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Họ ý thức rất rõ rằng trong thế giới
ngày càng trở nên “phẳng” và mọi thứ đều giống nhau, một dân tộc muốn “nhận
diện” được so với các dân tộc khác chỉ có thể dựa vào bản sắc dân tộc và nếu
bản sắc dân tộc không còn thì điều đó đồng nghĩa với thảm họa dân tộc ấy sẽ bị
xóa sổ, hòa tan.
Mặt khác, ngoài chức năng bao trùm trên, giáo dục còn mang một nhiệm
vụ không kém phần quan trọng, đó là đảm bảo sự tồn tại và phát triển hay cụ
thể hơn là hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc
sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Bởi, để đạt được điều đó thì họ phải có cơ
hội, ai cũng như ai, tiếp thu những giá trị, tri thức và kỹ năng mà nền giáo dục
đã đưa lại cho họ.
5
Với ý nghĩa này, Hiến pháp của nước ta cũng coi “giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu”; “mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân” (điều 35); “học tập là quyền và
nghĩa vụ của công dân” (điều 59). Cần lưu ý rằng trách nhiệm biến những chức
năng ấy của giáo dục thành hiện thực thuộc về trọng trách của Nhà nước và của

toàn dân.
1.2 Vai trò của việc nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác xã hội
hoá giáo dục giữ vai trò rất quan trọng:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu
"Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi
cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của
con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành
công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường chính
trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ
với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng
mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số
lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động
lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là
nguồn lực quan trọng nhất. Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong
nguồn lực con người cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát
triển tốt yếu tố của con người trong sự nghiệp đi lên của đất nước.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội,
6

kinh tế" tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra
bước ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện mỗi
"Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo
phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội,
lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh
tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức
mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Phải thể hiện
thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân
trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người,
từng nhà cộng đồng, giai cấp và cả dân tộc.
1.3 Vai trò của công tác xã hội hoá giáo dục
Bản thân thuật ngữ “xã hội hoá” (socialization - Tiếng Anh) không có
nghĩa hiểu xã hội hoá theo cách dùng hiện nay trong tiếng Việt. Xã hội hoá dịch
vụ công truyền thống có thể hiểu theo nghĩa sau:
+ Nhà nước giảm bớt tương đối cai trò của mình trong cung cấp dịch cụ
công ở những lĩnh vực mà người dân có thể kham được;
+ Xã hội hoặc người dân (private sector) nhận lấy phần trách nhiệm cung
cấp dịch vụ, lượng người tham gia cung cấp dịch vụ tăng lên;
+ Chia sẻ chi phí (cost sharing) giữa công và tư;
+ Quyền lợi và trách nhiệm của người dân gia tăng hay nói cách khác
quyền tự chủ của người dân gia tăng;
+ Về tổng thể người dân có nhiều cơ hội sử dụng các dịch vụ công do
Nhà nước và các thành phần kinh tế tư nhân cung cấp;
+ Chịu tác động của quy luật giá cả và quy luật cung - cầu. Do chi phí
được chia sẻ dẫn đến xu hướng người dân có quyền quyết định hoặc từ chối một
dịch vụ mà không chịu lệ thuộc vào dịch vụ như trước kia.

+ Sự độc quyền của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ truyền thống bị
giảm đi;
Như vậy, xã hội hoá thực chất là một quá trình huy động nguồn lực
trong xã hội để phát triển các dịch vụ công và làm cho nhiều người hơn được
7
hưởng lợi từ các dịch vụ đó cũng như chịu trách nhiệm nhiều hơn khi sử dụng
dịch vụ.
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch tập trung, người dân tham gia vào
các hoạt động giáo dục do Nhà nước quản lý rất hạn chế. Tuy nhiên, cũng phải
thừa nhận rằng trong thời gian đó, doanh nghiệp nhà nước giúp được nhiều hơn
đối với giáo dục trong việc tạo cơ sở cho học sinh thực tập mà không phải trả
bất cứ khoản chi phí nào.
Đến ngày nay, người dân lại có điều kiện để tham gia vào quá trình giáo
dục và tổ chức giáo dục nhiều hơn. Xã hội hoá giáo dục không chỉ là những
đóng góp vật chất mà cả những ý kiến góp ý của người dân cho quá trình đổi
mới giáo dục. Xã hội hoá giáo dục là cách tiếp cận mang tính dân chủ nhiều
hơn.
Như vậy, có thể xem xã hội hoá giáo dục là sự huy động nguồn lực trong
xã hội để làm giáo dục, để đấu tranh với nghèo nàn và lạc hậu, là tạo điều kiện
tốt hơn cho người dân được hưởng dịch vụ giáo dục có chất lượng và nhiều cơ
hội học tập, đóng góp sáng kiến với giáo dục Ngược lại, lạm dụng cái gọi là
xã hội hoá để huy động tối đa đóng góp người dân, chuyển gánh nặng ngân
sách sang cho người dân, trong khi chất lượng dịch vụ không tăng tương xứng,
ngân sách dành cho giáo dục cắt giảm là không đúng với chính sách của Đảng
và Nhà nước trong xã hội hoá giáo dục. Đã không ít nhà trường chỉ hiểu một
chiều về sự đóng góp của người dân, “tăng thu” các kiểu phí trong nhà trường
và một số người đã lên tiếng phê phán mang tính một chiều của chủ trương xã
hội hoá .
Một số nước phát triển cũng huy động sự đóng góp của lĩnh vực tư cho
giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học dưới dạng hiến tặng (endowment) với số tiền

rất lớn hàng tỷ USD và điều này dường như đã trở thành văn hoá của người dân
và doanh nghiệp. Ở ta, quá trình mới chỉ bắt đầu những đóng góp như thế và
quá trình xã hội hoá đang vận động đòi hỏi một sự định hướng và khuyến khích
rất lớn từ phía nhà nước.
Dù gì đi chăng nữa, xã hội hoá giáo dục cần đảm bảo các nguyên tắc:
Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục không giảm, chất lượng giáo dục và số
người được đi học tăng, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng về cơ hội tiếp cận
giáo dục. Điều này đã được ngành giáo dục khẳng định tại Hội nghị tổng kết
năm học vừa qua.
Tóm lại, xã hội hoá là một cách tiếp cận đến kinh tế thị trường và thực
chất là quá trình phi công lập hoá, làm cho người sử dụng dịch vụ có trách
8
nhiệm chia sẻ chi phí của các dịch vụ, làm tăng cơ hội tiếp cận của người dân
đến các dịch vụ công.
Xã hội hoá không có nghĩa là Nhà nước bị loại mất vai trò quản lý của
mình, ngược lại vai trò quản lý nhà nước cần tăng lên khi thiết lập lại vai trò và
trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công. Sự thiếu vắng vai
trò quản lý nhà nước và bỏ mặc theo kiểu “khoán trắng” có thể dẫn đến sự mất
ổn định trong cung ứng dịch vụ công và làm cho quá trình xã hội hoá thiếu tính
bền vững, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Đặc biệt, trong những lĩnh vực
trước đây Nhà nước nắm độc quyền hoặc những dịch vụ do “cầu” vượt quá
“cung” (như lĩnh vực giáo dục đại học chẳng hạn) dẫn đến sự độc quyền tự
nhiên trong cung ứng dịch vụ, thì vai trò quản lý Nhà nước là vừa đảm bảo các
mục tiêu phát triển xã hội trên cơ sở huy động nguồn lực lại vừa phải đảm bảo
quá trình xã hội hoá diễn ra theo quy luật của thị trường.
1.4 Nội dung của công tác xã hội hoá giáo dục
- Xây dựng phong trào học tập trong toàn xã hội, làm cho nền giáo dục trở
thành một nền giáo dục cho mọi người.
- Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, vận động toàn dân chăm sóc
thế hệ trẻ, phối hợp chặt chẽ giáo dục gia đình - nhà trường - xã hội. Tăng

cường trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể,
tổ chức kinh tế - xã hội, cá nhân đối với giáo dục.
- Đa dạng hoá các loại hình giáo dục.
- Tăng cường đầu tư từ nguồn ngân sách, khai thác triệt để và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực trong xã hội để phát huy giáo dục.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới Giáo dục phổ thông cần phải có cơ sở vật chất
đạt chuẩn để đảm bảo việc dạy và học trong nhà trường.
Vậy xã hội hóa giáo dục là gì? Nói một cách nôm na, đó cũng chỉ là một
trong những phương cách để nhà nước thực hiện nhiệm vụ hiến định là tạo điều
kiện cho con em của mọi tầng lớp trong xã hội đều được đến trường và mọi cái
gì cản trở nó đều không phải xã hội hóa giáo dục. Nói cách khác, xã hội hóa
giáo dục (hay không xã hội hóa) dù kiểu nào đi chăng nữa đều phải nhằm đạt
được những mục tiêu thiết yếu của giáo dục và nhà nước, trong mọi trường hợp,
luôn luôn phải chịu trách nhiệm chính, không thể chuyển giao trách nhiệm của
mình cho ai khác. Càng không thể lợi dụng xã hội hóa để biến giáo dục, nhiệm
vụ chính danh của nhà nước, thành một ngành kinh doanh lấy lợi nhuận làm
mục tiêu thay thế.
9
Điển hình cho quan niệm như trên về phát triển giáo dục là CHLB Đức.
Học sinh, sinh viên ở đây từ cấp phổ thông đến đại học đều được hưởng chế độ
miễn học phí. Ngoài ra, riêng những học sinh, sinh viên nghèo (không đủ điều
kiện vật chất sống tối thiểu) còn được nhà nước trợ cấp, “bù” thêm tài chính để
họ có thể an tâm sống và học tập. Ngoài hệ thống trường công lập, tại Đức có
tới 2.500 trường tư. Trong số ấy, theo quy định của pháp luật, bất kỳ trường tư
nào được nhà nước công nhận văn bằng có giá trị tương đương trường công thì
nhà nước có nghĩa vụ cung cấp toàn bộ tài chính cho hoạt động của trường đó.
Điều này cho thấy giáo dục trong mọi trường hợp là nhiệm vụ không thể tách
rời của nhà nước, kể cả khi giáo dục được xã hội hóa và cho tư nhân tham gia.
Tuy nhiên, không nên hiểu xã hội hóa giáo dục một cách đơn giản dưới
góc độ huy động nguồn vốn đầu tư mà phải mở rộng ra nhiều góc độ, phạm vi

khác nhau.
Trước hết, là dưới góc độ của người đi học. Xã hội hóa giáo dục ở đây có
nghĩa tạo điều kiện để làm sao cho người đi học được tham gia vào việc quản lý
của trường cũng như xây dựng chương trình học tập, giảng dạy.
Ở một góc độ khác, xã hội hóa giáo dục nhìn từ phía thầy giáo, nhà
trường chính là nhằm mục tiêu đảm bảo quyền tự do giảng dạy của họ hơn nữa.
Ví dụ, ở Đức trước đây nhà nước đặt ra chương trình giảng dạy cố định, bắt
thầy giáo phải dạy theo chương trình đó, kể cả phương pháp sư phạm. Với quá
trình xã hội hóa, từng trường, từng địa phương, từng đối tượng học sinh được
quyền có chương trình cũng như cách thức giảng dạy riêng cho phù hợp.
Còn dưới góc độ phụ huynh, xã hội hóa giáo dục là nhằm đảm bảo cho họ
quyền tự do lựa chọn nơi học tập cho con em của họ. Có những gia đình giàu
có, muốn con em của họ vào học ở những trường tốt hơn thì nhà nước tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức mở những cơ sở giáo dục tiện nghi, chất
lượng cao hơn để đáp ứng nhu cầu. Nhưng, một lần nữa xin lưu ý xã hội hóa
giáo dục không có nghĩa là nhà nước chuyển giao hay phó thác nhiệm vụ hiến
định của mình cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, mà là tạo điều kiện để
toàn xã hội tham gia vào giáo dục, sao cho nó đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi
thành viên trong xã hội, sao cho ai cũng được đến trường, ai cũng có điều kiện
hưởng cơ hội vào đời như nhau.
2 – Cơ sở thực tiễn
2.1 Những thành tựu giáo dục của cả nước trong mấy năm qua
10
2.1.1 Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội
Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng
1,03% so với năm học 2000-2001; Tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ
khác nhau tăng từ 20% vào năm 2000 lên 31,5% vào năm 2007.
Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ
bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả

các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ
thông có ở tất cả các huyện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội
trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số.
2.1.2 Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có tiến
bộ. Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã toàn diện hơn.
Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh
được nâng cao. Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất lượng đã đặc
biệt được chú trọng. Đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và
kiểm định chất lượng. Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở
nhiều địa phương.
Đồng thời với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học
theo Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội, phương pháp giáo dục ở các nhà
trường đã bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ
động và tích cực của người học, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin vào quá trình dạy và học. Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên ở
các cấp học và trình độ đào tạo đã và đang được xây dựng làm cơ sở cho việc
đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn.
2.1.3 Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn
quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập
trung học cơ sở. Đến 12/2008 đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 47/63 tỉnh (74,6%) đạt chuẩn phổ cập giáo
dục trung học cơ sở. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%;
số năm học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,6. Sự khác biệt về trình
độ học vấn giữa nam và nữ ngày càng được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt
được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ bản.
2.1.4 Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo
dục đã đạt được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày
càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế
cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp
11

kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách nhà nước đầu
tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong
năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của
người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy động được sự đóng góp của các doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước ngoài.
2.1.5 Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ
hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và
trẻ em khuyết tật. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ
trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính
sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập.
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ
rõ rệt. Đến năm học 2007-2008 có 278 trường dân tộc nội trú của trung ương,
tỉnh, huyện và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh; các trường, lớp hoà nhập và
chuyên biệt đã thu hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học.
2.1.6 Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến. Công tác quản
lý chất lượng đã được chú trọng với việc tăng cường hệ thống đánh giá và kiểm
định chất lượng. Năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành việc xây
dựng đề án đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục đào tạo, trong đó có đề án
học phí. Việc phân cấp quản lý giáo dục cho các địa phương và sở giáo dục được
đẩy mạnh, đặc biệt tăng quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục trong tuyển dụng
giáo viên, sử dụng ngân sách, tổ chức quy trình giáo dục, tổ chức thực hiện kế
hoạch dạy học, thực hiện chương trình, sách giáo khoa phù hợp với đặc điểm đối
tượng học sinh và điều kiện cụ thể của từng vùng miền. Cải cách hành chính
trong toàn ngành giáo dục được đẩy mạnh. Cơ chế “một cửa” được triển khai thí
điểm tại cơ quan Bộ và 63/63 văn phòng của các Sở giáo dục. Công nghệ thông
tin được ứng dụng mạnh mẽ trong quản lý ngành.
Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng
của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác
mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của

Chương trình phát triển Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những
tiến bộ đáng kể: từ 0,688, xếp thứ 109 trong số 174 quốc gia vào năm 2000 đã
tăng lên 0,733, xếp thứ 105 trong số 177 quốc gia vào năm 2005. Những thành
tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã
hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới, tạo
điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
12
Sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền
các cấp, sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức kinh tế-xã hội và toàn
dân đối với giáo dục đã góp phần quyết định cho sự thành công của sự nghiệp
giáo dục.
Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường với các điều kiện thuận lợi cho
phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước đã
liên tục tăng qua các năm.
Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và
quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng thực
hiện nhiệm vụ giáo dục. Các giáo viên và cản bộ quản lý công tác ở mọi miền tổ
quốc, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử
thách to lớn, đóng góp công sức vào sự nghiệp trồng người.
Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong
từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc
công sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó, chăm
chỉ học tập, hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.
2.2 Những tồn tại trong công tác xã hội hoá giáo dục ở nước ta hiện nay
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng giáo dục nước ta vẫn
còn những bất cập và yếu kém:
Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình
hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều
cải thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2007 vẫn còn 11% số lớp học ở tình trạng

lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện,
phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và
lạc hậu, nhất là ở các trường đại học.
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt
đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục
Trong nhiều năm qua Đảng ta đã luôn luôn nhấn mạnh quan điểm “Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động
lực của quá trình phát triển”. Tuy nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa
được hiểu một cách đầy đủ để triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh
vực. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo
dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với giáo dục nên chưa dành ưu tiên thỏa
13
đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một số địa phương còn sử dụng ngân
sách giáo dục vào những hoạt động không phục vụ mục đích giáo dục.
Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế
Trong khi tình hình kinh tế xã hội trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc và
trên thế giới đang diễn ra nhiều xu thế đổi mới giáo dục mạnh mẽ thì nhiều tư
tưởng chỉ đạo giáo dục ở nước ta vẫn còn xơ cứng, trì trệ. Chưa nhận thức đúng
mức sự cần thiết phải tập trung quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống giáo
dục quốc dân. Nhận thức về những tác động của nền kinh tế thị trường chưa đầy
đủ nên chưa tạo được sự phù hợp của cơ chế quản lý giáo dục với cơ chế thị
trường. Tư tưởng trọng bằng cấp dẫn đến những thành tích giả tạo trong giáo
dục. Ở phổ thông, quan niệm đề cao kiến thức, coi nhẹ năng lực hoạt động của
học sinh đã dẫn đến tình trạng còn tổ chức nhiều môn học trong chương trình
giáo dục, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, chưa tạo
được niềm vui học tập cho người học.
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập
Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa
hợp lý, chưa quan tâm đúng mức đến các địa phương khó khăn. Đầu tư của nhà

nước cho giáo dục còn thiếu hiệu quả, chưa tập trung cao cho những mục tiêu
ưu tiên. Cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp lý, trong đó phần chi cho hoạt
động chuyên môn là không đáng kể.
Những tác động khách quan làm tăng thêm những yếu kém bất cập của
giáo dục
Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng mang
đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Trong xã hội, chủ nghĩa hình thức,
hám danh vọng còn nặng nề; tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối mạnh việc
dạy, học và thi cử. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực
đến giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong khi khả năng
đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn
chế. Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu
việc làm của người lao động đã qua đào tạo.
Do thời gian duy trì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp quá dài, nảy sinh tư
tưởng trông chờ ỷ lại quá lớn trong nhân dân kể cả chính quyền các cấp, sự bứt
phá, dám nghĩ, dám làm còn hạn chế. Do đó công tác xã hội hoá nói chung, công
tác xã hội hoá giáo dục nói riêng còn quá nhiều bất cập.
14
Chương II
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VÙNG SÂU, VÙNG CAO TÂN HỢP
1 - Đặc điểm tình hình
1.1 Tình hình địa phương
Tân Hợp là xã cùng cao nằm phía Bắc của huyện miền núi Tân Kỳ. Xã có
chiều dài là 13km, chiểu rộng 7km, diện tích tự nhiên là 6.775 ha. Trong đó
diện tích canh tác nông nghiệp là 1703 ha, đất lâm nghiệp 4399 ha, đất phi nông
nghiệp 129 ha, đất chuyên dùng 42 ha. Là một xã ở độ cao hơn hẳn so với các
xã khác tại huyện Tân Kỳ, lại gần như là biệt lập với các xã xung quanh. Nói là
biệt lập bởi vì Tân Hợp ngăn cách với các xã xung quanh toàn là các dãy núi
cao, như ngăn cách với xã Giai Xuân bởi dãy Rú Nàn, ngăn cách với xã Châu
Lý huyện Quỳ Hợp bởi dãy Bù Tro (có ngọn cao 720m so với mực nước biển),

ngăn cách với Hạ Sơn (cũng của huyện Quỳ Hợp) bởi dãy Đồi Chè. Đứng ở
giữa xã là dãy núi Soong, ngoài ra còn hàng trăm ngọn núi khác cao thấp nhấp
nhô, không tên hoặc có tên mà giờ đây không ai còn nhớ nổi tên gọi nữa.
Dân số Tân Hợp tại thời điểm tháng 01-4-2009 có 925 hộ và 4018 nhân
khẩu. Số hộ nghèo là 314 hộ chiếm tỷ lệ là 37,3% (cao nhất huyện).
Tháng 11-1997 tỉnh Nghệ An thành lập Tổng đội Thanh niên xung phong
4 tại Tân Hợp và cũng trực thuộc xã Tân Hợp quản lý về mặt hành chính.
Xã Tân Hợp hiện nay có 8 thôn bản thì có 7 thôn bản là người dân tộc
thiểu số gồm 657 hộ và 3145 nhân khẩu. Xã có 1 trường tiểu học, 1 trường mầm
non và 1 phân hiệu THCS trực thuộc trường THCS Giai Xuân
Nằm trên địa bàn vùng cao nhất của huyện, đồi núi nhấp nhô, trong đó có
nhiều lèn đá vôi, nhiều dốc đèo hiểm trở, đất đai canh tác không nhiều lắm. Tân
Hợp ở vào vị trí không thuận lợi về mặt lưu thông - phân phối. Đường bộ đến
nay chưa được trải nhựa, cả xã chỉ có được khoảng 500m đường nhựa từ chân
dốc Vình đi vào Tổng đội Thanh niên xung phong 4.
Các con đường vào đến xã:
Đường liên hương nối từ đường 545 tại ngã ba Cừa đi vào xã Giai Xuân
qua dốc Vình, khe Hao vào Yên Hoà đi Trung Độ, Nghĩa Thành. Đường này
đến đỉnh dốc Vình là hết đường trải nhựa và đến đường đất. Đường quanh co,
khúc khuỷu, dốc đèo, khe suối, gập ghềnh rất khó đi lại.
15
Đường liên hương từ Tân Đông thuộc xã Đồng Văn đi Đồng Hạ, Hồng
Sơn lên Yên Hoà phải qua con Dốc Kè rất hiểm trở, đây cũng là đường đất cheo
leo, trở ngại rất lớn đến giao thông kể cả ô tô đi lại. Ngoài hai con đường chính
trên mà ô tô có thể vào được xã, còn có các con đường liên thôn từ xóm nọ đến
xóm kia. Song do địa hình phức tạp, giữa các vùng trong xã thường bị ngăn
cách bởi các dãy núi cao, thấp, các thung lũng, các cánh rừng nên giao thông
của xã còn rất nhiều trở ngại. Đường sá như vậy lại xuống cấp, dốc đèo nhiều.
Vài năm lại nay do việc khai thác nguyên liệu đá trắng, quặng măng - gan của
các công ty nhà nước và tư nhân, việc vận chuyển mía, hàng nông sản, lâm sản

làm cho đường càng xuống cấp nhiều, nắng khấp khểnh, mưa xập xình. Làm
cho Tân Hợp gặp rất nhiều khó khăn, có thể là bậc nhất của huyện nếu không
được sớm đầu tư về tiền vốn và công sức đáng kể của nhà nước và sự nỗ lực
vượt bậc về trí tuệ và sức người của Đảng bộ và nhân dân Tân Hợp.
Theo điều tra xã hội học, Tân Hợp chiếm khoảng 93% là đồng bào dân
tộc Thổ thuộc nhóm Việt - Mường cư trú lâu đời tại địa phương. Số còn lại là
đồng bào miền xuôi lên lập nghiệp.
Xã có 8 xóm bản, cách nhau từ 3 - 4 km, từ trung tâm xã đi xóm xa nhất
là 8 km.
Đất nước sau 20 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã làm cho bộ mặt kinh tế, xã hội của nước ta thay đổi căn bản. Tình trạng
đói nghèo triền miên đã bị đẩy lùi, chính trị ổn định, môi trường xã hội lành
mạnh. Nhân dân phấn khởi làm ăn và đã có của ăn, của để. Từng bước vươn lên
làm giàu, con em có điều kiện để học hành, được chăm sóc, nuôi dạy ngày càng
tốt hơn. Vùng cao cũng chính nhờ đó mà ngày càng thay đổi, khác xa những
năm của thập kỷ 90. Đường sá ô tô đã vào tận trung tâm xã mà nhiều vùng
trước đó những người dân gần trọn cuộc đời họ không giám mơ ước. Nhờ sự
quan tâm của nhà nước, nhiều chương trình, dự án mang tầm quốc gia đã được
đầu tư cho vùng cao, như chương trình 135, chương trình CBRIP, dự án
RAICA Điện, đường, trường, trạm được xây dựng khang trang, hiện đại. Đời
sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tân Hợp, đời sống nhân dân Tân Hợp đã
có nhiều khởi sắc. Hộ nghèo đã được giảm xuống nhanh chóng, thu nhập của
nhân dân ngày càng cao hơn. Vì vậy đã góp phần làm cho bộ mặt xã hội tại địa
phương cũng có nhiều đổi thay rõ rệt. Văn hoá, tinh thần ngày càng phát triển,
nhân dân ngày càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề nâng cao dân trí, chăm lo
nhiều hơn công tác giáo dục và đào tạo.
16
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, Tân Hợp vẫn là xã nghèo, xã đặc biệt
khó khăn nhất của huyện. Nếu như nhân dân Nghĩa Đồng, Nghĩa Thái hàng

năm huy động nội lực mỗi khẩu 2-3 trăm ngàn đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng
thì Tân Hợp chưa thể có được. Để làm được về công tác huy động nội lực,
chính quyền hàng năm phát động nhân dân đóng góp ngày công lao động để
làm đường giao thông, khai thác vật liệu như gỗ, đá để đối ứng các công trình
dự án. Tính ra, hàng năm nhân dân tham gia đóng góp từ 15 đến 20 công mỗi
người. Nhờ đó mà các công trình của nhà nước vẫn được xây dựng, làm được
bờ rào các nhà trường, san lấp tạo mặt bằng, xây dựng thêm nhà nội trú cho
giáo viên, tạo cảnh quan đường làng, ngõ xóm
Nhìn chung công tác xã hội hoá đang có chiều hướng ngày một phát
triển. Việc huy động đảm bảo số lượng học sinh đi học, quản lý học sinh học
bài đã và đang đi vào nề nếp trong các ban quản lý xóm, các đoàn thể như Hội
phụ nữ, Hội khuyến học, Hội CCB và Đoàn thanh niên. Năm học này đã có 2
xóm thực hiện được quản lý học sinh học bằng tiếng trống học bài ban đêm như
Trung Độ và Tân Lập. Hai năm nay Trường Tiểu học Tân Hợp đưa mô hình học
8 buổi / tuần được nhân dân đồng tình hưởng ứng cho con tham gia học đầy đủ.
Tuy nhiên, vấn đề đóng góp tiền học thì còn là vấn đề khó khăn.
1.2 Tình hình chung của nhà trường
Trường Tiểu học Tân Hợp có 7 điểm trường, 32 lớp và 410 học sinh
(trong đó học sinh con em đồng bào dân tộc Thổ chiếm trên 93%). Trường có
49 CBCNV, tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 1,28. Ban giám hiệu 4 đồng chí, 1 hiệu
trưởng và 3 phó hiệu trưởng, có 5 tổ chuyên môn ứng với 5 khối lớp.
2 - Quá trình thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục tại Tân Hợp
trong thời gian qua
2.1 - Những kết quả đạt được và nguyên nhân
* Kết quả
+ Về công tác tổ chức và quản lý:
- Cán bộ quản lý: 04 người; trình độ chuyên môn đại học: 4/4 người.
Toàn bộ Ban giám hiệu đều là Đảng viên, có phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng
chính trị vững vàng, được đồng nghiệp và nhân dân tín nhiệm.
- Hoạt động của các tổ chức, đoàn thể và hội đồng trong nhà trường:

Trường có đủ các tổ chức đoàn thể, hoạt động thường xuyên theo đúng điều lệ,
chức năng và nhiệm vụ của từng tổ chức. Chi bộ đảng của trường có 34 đảng
17
viên, sinh hoạt và lãnh đạo nhà trường theo đúng Điều lệ Đảng cộng sản Việt
nam. Hàng năm chi bộ luôn đạt danh hiệu chi bộ trong sạch vững mạnh, 100%
đảng viên được xếp loại đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ. Chi đoàn thanh niên
hoạt động có hiệu quả, là nòng cốt trong các phong trào thi đua của nhà trường.
Liên đội thiếu niên và các sao nhi đồng hoạt động thường xuyên và có nhiều
hoạt động bổ ích trong công tác giáo dục và chăm sóc thiếu niên nhi đồng.
Công đoàn nhà trường hoạt động theo đúng Luật công đoàn và theo sự chỉ đạo
của công đoàn cấp trên, 4 năm liền đạt Công đoàn cơ sở vững mạnh. Các tổ
chức và hội đồng trong nhà trường phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động đã góp
phần làm cho nhà trường thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục và giảng dạy. Quy
chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường được thực hiện tốt.
+ Về đội ngũ giáo viên:
- Tổng số giáo viên : 41 người.
- Số giáo viên đảm bảo đủ về số lượng và cơ cấu. Trong tổng số giáo viên
trực tiếp đứng lớp: có 40 người / 32 lớp, tỷ lệ 1,28 giáo viên trên một lớp, có
giáo viên Tổng phụ trách chuyên trách và 01 giáo viên phụ trách Thư viện -
Thiết bị (do trường tự hợp đồng), đã qua tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ.
- Trình độ đào tạo của giáo viên:
Tổng số 41/41 giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn, trong đó có 27
giáo viên trình độ vượt chuẩn, chiếm tỉ lệ: 65,8 %.
Cụ thể trình độ đào tạo của giáo viên như sau:
+ Đại học: 14 người = 34,1 %.
+ Cao đẳng: 13 người = 31,7 %.
+ Trung học: 14 người = 34,1 %.
- Số giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh:
Có 4/41 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện;
đạt tỉ lệ: 19,51 %.

Có 8/41 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh;
đạt tỷ lệ: 9,76 %
- Số giáo viên dạy giỏi cấp trường:
Có 14 /41 giáo viên dạy giỏi cấp trường, đạt tỉ lệ: 34,15%.
+ Về cơ sở vật chất:
18
- Khuôn viên nhà trường:
Diện tích đất đai mà nhà trường đang sử dụng và UBND xã đang lập hồ
sơ xin cấp quyền sử dụng đất tại 6 điểm trường là: 31.803m
2
đạt 77m
2
cho mỗi
học sinh. Đất đai không bị tranh chấp.
Diện tích đất đai đã được xây dựng: 1629m
2
, diện tích sân chơi cho học
sinh: 1800m
2
; diện tích bãi tập: 750m
2
.
- Hệ thống cây bóng mát, cây cảnh, thảm cỏ đầy đủ đảm bảo cảnh quan
xanh, sạch, hợp vệ sinh.
- Tổng số phòng học: 34 phòng học / 32 lớp, trong đó có 14 phòng học
kiên cố và 20 phòng học cấp 4B, mỗi phòng có diện tích 42 m
2
, bình quân 3,2
m
2

/ 01 học sinh.
- Thư viện có diện tích 54m
2
, có các loại sách tham khảo, sách nghiệp vụ,
sách giáo khoa phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập nghiên cứu với tổng
số sách là 897 cuốn.
- Có các phòng chức năng phục vụ cho hoạt động của nhà trường.
Bao gồm:
+ Phòng Hội đồng sư phạm: 42 m
2
.
+ 2 phòng P.Hiệu trưởng: 56 m
2
.
+ Phòng đoàn đội: 24 m
2
.
- Phương tiện trong lớp học:
43,7% số phòng học đã được xây dựng chuẩn hoá, có đủ bàn ghế cho
giáo viên và học sinh theo đúng quy cách. Phòng học có đủ ánh sáng và được
trang trí theo đúng quy định.
- Thiết bị giáo dục:
Có các trang thiết bị giáo dục đầy đủ theo danh mục tối thiểu của Bộ
Giáo dục và Đào tạo quy định. Có các thiết bị nghe nhìn, nhạc cụ, các bộ thiết
bị mô hình, tranh ảnh dùng chung cho tất cả các khối lớp.
- Điều kiện vệ sinh.
Nhà trường được đặt ở trung tâm xã, địa thế bằng phẳng, cao ráo và
thoáng mát thuận tiện cho học sinh tới trường học tập.
Trường có công trình vệ sinh, có cổng, biển trường, tường bao và bờ rào
cây sống bảo vệ. Không có hàng quán trong khu vực nhà trường. Các điều kiện

19
về vệ sinh được nhà trường đảm bảo tốt, cảnh quan môi trường sạch sẽ. Nhà
trường có hệ thống cây xanh, cây bóng mát và thảm cỏ.
+ Về chất lượng giáo dục:
Thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục.
- Nhà trường tổ chức dạy đủ các môn học theo đúng chương trình và kế
hoạch theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Toàn trường có 28 / 32 lớp
học 8 buổi / tuần đạt tỷ lệ 87,5 %, 4 lớp còn lại học 6 buổi / tuần. Các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tổ chức thường xuyên và có hiệu quả thu
hút được 100% học sinh tham gia. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo
học sinh yếu theo đúng quy định. Đặc biệt nhà trường đã làm tốt công tác giáo
dục hoà nhập, đưa đa số trẻ khuyết tật tới lớp trong đó có những em học sinh
khuyết tật nặng.
Thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ.
Nhà trường đã làm tốt công tác PCGDTH - CMC và PCGDTH-ĐĐT trên
địa bàn quản lí. Tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi phổ cập đạt 97%, tỷ lệ học sinh
học đúng độ tuổi: 410/443 = 92,76%
Số học sinh 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học: 66/90 = 73,3%
Duy trì tốt sĩ số, năm học 2008-2009 không có học sinh bỏ học, không
có hiện tượng tái mù chữ. Kết quả công tác phổ cập cụ thể như sau:
Được công nhận phổ cập GDTH - CMC năm 1999.
Được công nhận phổ cập GDTH - ĐĐT lần thứ nhất năm 2006.
Kết quả công tác phổ cập GDTH - ĐĐT thời điểm tháng 9 năm 2008:
- Tổng số trẻ 6 tuổi phải phổ cập: 75 em.
Số huy động vào lớp 1: 75 em. Đạt tỉ lệ: 100 %.
- Tổng số trẻ 11 tuổi phải phổ cập: 90 em.
Số đã hoàn thành chương trình bậc tiểu học: 66 em. Đạt tỉ lệ: 73,3%;
(Chưa đạt PCGDTH-ĐĐT). Số trẻ bỏ học ở tiểu học: không có.
- Duy trì trẻ vào lớp 1 cách đây 5 năm về trước:
+ Tổng số trẻ vào học cách đây 5 năm: 90 em.

+ Tổng số còn học ở các lớp tiểu học: 25 em.
+ Số hoàn thành chương trình tiểu học: 66 em
20
+ Bỏ học: 3 em
- Tỷ lệ huy động và duy trì số trẻ 6 đến 14 tuổi ra học các lớp tiểu học:
Huy động: 819/ 829, đạt 98,8%.
- Duy trì sĩ số hàng năm đạt 99,4 %.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục
- Tỉ lệ học sinh lên lớp thẳng toàn trường đạt 93,32 %.
- Tỉ lệ học sinh lớp 5 hoàn thành chương trình bậc tiểu học:
86/91 = 94,5%.
- Kết quả học sinh được đánh giá nhận xét việc thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ của học sinh:
- Kết quả chung toàn trường: 386 học sinh = 95,3 %.
Học lực:
- Môn Tiếng Việt:
Loại giỏi: 10 tỷ lệ = 2,5 % ; Loại Khá: 123 tỷ lệ = 30,4 % ;
Loại TB: 193 tỷ lệ = 47,7 % ; Loại Yếu: 77 tỷ lệ = 19,0 %
- Môn Toán:
Loại Giỏi: 21 tỷ lệ = 5,2 % ; Loại Khá: 121 tỷ lệ = 29,9 % ;
Loại TB: 174 tỷ lệ = 43,0 % ; Loại Yếu: 87 tỷ lệ = 21,5%.
- Môn Khoa học: (Số HS khối 4,5: 194 , trong đó khuyết tật: 15)
Loại Giỏi: 26 tỷ lệ = 14,5% ; Loại Khá: 64 tỷ lệ = 35,8% ;
Loại TB: 84 tỷ lệ = 46,9% ; Loại Yếu: 5 tỷ lệ = 2,8%.
- Môn Lịch sử + Địa lý
Loại Giỏi: 36 tỷ lệ = 20,1% ; Loại Khá: 90 tỷ lệ = 50,3%
Loại TB: 52 tỷ lệ = 29,1% ; Loại Yếu: 1 tỷ lệ = 0,6%.
* Nguyên nhân của những kết quả trên
Sự quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng uỷ - HĐND - UBND xã Tân
Hợp đối với nhà trường, nhân dân tin tưởng. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo

viên có phẩm chất đạo đức tốt, toàn tâm toàn ý vì nghề nghiệp, vì học sinh, an
tâm công tác, đoàn kết nhất trí. Học sinh ngoan ngoãn, xã hội ổn định về an
21
ninh chính trị, nhân dân phấn khởi làm ăn, môi trường lành mạnh ít xẩy ra các
tệ nạn xã hội là điều kiện tốt cho người làm công tác giáo dục.
Nhân dân đã bước đầu chuyển biến được về mặt nhận thức của công tác
học hành cho con cái, trước xu thế phát triển ngày càng đi lên của nền kinh tế
xã hội tại địa phương nói riêng và của toàn quốc nói chung. Nền kinh tế tri thức
bước đầu đã thâm nhập vào nếp ăn, nếp nghĩ của đồng bào. Tính trông chờ, ỷ
lại dần được xoá bỏ trong một bộ phận người dân.
Kinh tế tại xã nhà từng bước được tăng trưởng do xã nhà có nhiều chính
sách phát triển kinh tế khá phù hợp. Chính sách đầu tư của nhà nước có hiệu
quả khs rõ nét.
Tập thể đoàn kết nhất trí sẵn sàng khắc phục khó khăn - tổ chức được
nhiều phong trào thi đua dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và ban giám hiệu
nhà trường. Nhà trường đạt loại khá, chi bộ Tiểu học Tân Hợp được Đảng uỷ
công nhận danh hiệu chi bộ “TSVM”.
Tỷ lệ học sinh học đúng độ tuổi: 410/443 = 92,76%
Số học sinh 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học: 135/138 = 98%
2.2 – Những hạn chế còn tồn tại
Trường Tiểu học Tân Hợp có 7 điểm trường, đây cũng là đơn vị có đặc
thù đặc biệt nhất hiện nay trong địa bàn huyện, trường có nhiều điểm trường lẻ.
Năm học 2008-2009 trường có 28 lớp và 4 lớp ghép, có 413 học sinh. Bình
quân học sinh trên lớp là 14,75 em/lớp, trong tổng số học sinh của trường có
384 em là học sinh con em đồng bào dân tộc Thổ, chiếm tỷ lệ 93,1%. Do đặc
thù là xã đặc biệt khó khăn về mọi mặt, nhất là kinh tế - xã hội nên mặc dù đã
có nhiều cố gắng trong nhiều năm nhưng cho đến nay xã Tân Hợp vẫn chưa đạt
PCGDTH-ĐĐT và cũng là xã duy nhất chưa đạt PCGD THCS. Giáo dục và đào
tạo trên địa bàn xã Tân Hợp tồn tại một số khó khăn, bất cập. Công tác quản lý
giáo dục của nhà trường còn có nhiều hạn chế; chất lượng dạy và học mặc dù đã

được nâng lên nhưng vẫn còn chậm. Quy mô, mạng lưới trường lớp, điều kiện
cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học chưa đáp ứng yêu cầu với việc đổi mới
phương pháp dạy; trình độ năng lực của một bộ phận giáo viên còn bất cập so
với yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông; một số giáo viên chưa biết vận dụng
tiếng dân tộc thiểu số trong giảng dạy nên hạn chế trong việc truyền thụ kiến
thức cho học sinh; nhiều ngành, địa phương, hộ gia đình chưa thật sự quan tâm
đến công tác giáo dục, chưa coi công tác giáo dục là quốc sách hàng đầu.
22
Nhân dân trên địa bàn xã chủ yếu là thuần nông, kinh tế phụ thuộc vào
mùa vụ, điều kiện vật chất thiếu thốn. Nhà trường thì thiếu các phòng chức
năng, một số phòng học khi trời mưa, gió to không học được, cơ sở vật chất
xuống cấp, không đủ chuẩn. Diện tích sân chơi không đảm bảo, chưa đáp ứng
được yêu cầu dạy và học…
Trong mấy năm nay, giáo dục tiểu học Tân Hợp đã đạt được những tiến
bộ căn bản, so với xuất phát điểm. Tuy nhiên, những cái đã đạt được, xem ra
giữa vùng cao Tân Hợp so với miền xuôi, hoặc với các xã thuận lợi trong huyện
vẫn có một sự chênh lệch. Trẻ học đúng độ tuổi càng lên lớp trên càng chênh
lệnh so với miền xuôi, do một số em bỏ học hoặc phải lưu ban. Hiệu quả đào
tạo là tỷ lệ biểu thị: Trong tổng số trẻ em vào lớp 1, số % được công nhận hoàn
thành chương trình tiểu học sau 5 năm (số còn lại hoặc đã bỏ học dở chừng
hoặc đang lưu ban ở các lớp dưới). Tính tại thời điểm tháng 9 năm 2008 ở Tân
Hợp là 73,3% và của Thị trấn là 99,3%, của Tân Phú là 98,2%.
Trên thực tế, việc xếp loại học sinh đạt mức trung bình, khá, giỏi tại các
nhà trường thường chỉ có ý nghĩa so sánh tương đối trong mỗi trường, mỗi
vùng. Vì thế xin không so sánh chất lượng học của học sinh Tân Hợp với các
trường khác, chính do điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện về giao thông, về
mọi mặt của đời sống xã hội đã quyết định tỷ lệ cao thấp của trẻ em học đúng
độ tuổi, của hiệu quả đào tạo và của trẻ em thất học.
- Vấn đề căn bản và bao trùm là: Kinh tế - xã hội của địa phương trong
mấy năm qua đã có sự tiến bộ rất nhiều, thế nhưng sự chuyển biến đó ở miền

xuôi lại có tốc độ lớn hơn. Từ đó, Tân Hợp vốn có xuất phát điểm, nên tuy có
phát triển, nhưng độ chênh lệch so với các vùng miền khác vẫn tồn tại, không
những thế, độ chênh lệch đang có khuynh hướng gia tăng trong các gia đình.
Giáo dục nói riêng và các lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng nói chung
phản ánh kinh tế - xã hội. Kết quả đạt được của giáo dục và đào tạo phải được
coi là phản ánh toàn bộ kết quả của các hoạt động kinh tế - xã hội.
Kinh tế - xã hội ở vùng cao còn ở mức thấp, dẫn đến nhu cầu bên trong
về giáo dục cũng ở mức thấp nhất. Từ đó, động lực để thúc đẩy và các điều kiện
để phát triển giáo dục của toàn cộng đồng cũng như từng cá thể chưa đủ để khắc
phục thắng thế những trở lực và ức chế đã tồn tại từ bao đời.
- Do tính dàn trải của địa bàn dân cư, điều kiện địa lý phức tạp, buộc nhà
trường cũng phải dàn trải nhiều phân hiệu. Chính do vậy mà ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng quản lý. Hơn nữa số lượng học sinh mỗi khối lớp thường ít
23
do dân số mỗi bản làng thường thấp, lại phân bố thưa thớt, trong khi diện tích
địa lý rộng, do vậy mà nhiều năm trường phải tồn tại mô hình lớp ghép dẫn đến
chất lượng giáo dục không đạt như mong muốn.
- Do kinh tế còn khó khăn, trẻ em phải tham gia nhiều vào công việc phụ
giúp gia đình, thời lượng học nhất là học tăng buổi không đạt 10 buổi/tuần như
vùng thuận lợi. Do nhiều nguyên nhân khác nữa như thời tiết, một số học sinh
không học được đủ số buổi trong năm học. Trong khi đó những vùng thuận lợi
học sinh được học đủ thời lượng quy định, ngoài ra còn được học bán trú, học
kèm cặp ở nhà mà ở Tân Hợp chưa thể có được. Do đó, thời lượng của học
sinh Tân Hợp được học chỉ bằng 4/5 học sinh các vùng thuận lợi.
Cùng mức độ về tinh thần trách nhiệm và năng lực nhưng điều kiện
đường sá đi lại, nhiều điểm trường đã làm cho sự quản lý, chỉ đạo của ban giám
hiệu chưa đạt hiệu quả đúng mực.
Điều kiện cơ sở vật chất cho dạy và học ở Tân Hợp chưa đáp ứng được
yêu cầu, trong khi nhiều đơn vị trường tầng là phổ biến, thì Tân Hợp đến nay 7
phân hiệu mới chỉ có 2 phân hiệu là nhà học cao tầng, nhờ nguồn vốn đầu tư

theo chương trình 135 của Chính phủ, còn lại 5 phân hiệu đang là phòng học
cấp 4B xuống cấp, bàn ghế cho giáo viên, cho học sinh thiếu lại không đúng
quy chuẩn, Từ đó tính kích thích thi đua và phấn đấu học tập tất yếu còn thấp,
trong khi đó nhà ở cho giáo viên đã hẹp, nhỏ lại phải dồn 2 - 3 người cho 1
phòng làm cho giáo viên thiếu tâm huyết phấn đấu.
Điều kiện về nguồn nước sinh hoạt cũng rất khó khăn, nguồn nước cả xã
Tân Hợp hầu hết ô nhiễm vôi, mùa khô thiếu nước sinh hoạt từ 3 đến 4 tháng.
Nguồn nước ở đây muốn ăn uống phải đun sôi 2-3 lần để lọc mới dùng được.
Trong khi đó thực hiện chính sách hưởng tiền vận chuyển nước ngọt của Chính
phủ thì giáo viên Tân Hợp chỉ được cấp theo vùng thiếu nước theo mùa, mỗi
năm 3 tháng là không hợp lý.
2.3 - Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
- Ổn định quy mô trường lớp;
- Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bao gồm: hệ thống phòng
học, phòng chức năng, sân chơi, bãi tập, trang thiết bị dạy và học. Xây dụng thư
viện đạt chuẩn, công trình vệ sinh đảm bảo theo quy định. Tập trung cao độ để
trong thời gian sớm nhất đạt chuẩn quốc gia mức độ 1.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tăng
cường đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đại trà, chất lượng
24
mũi nhọn, sớm đưa nhà trường đạt chất lượng tối thiểu theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
- Tăng cường quản lý sĩ số học sinh, dạy học đảm bảo chất lượng, sớm
đưa xã nhà đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và
phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên địa bàn.
- Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục:
Nhà trường phối hợp với cộng đồng tổ chức Đại hội Giáo dục cấp cơ sở
theo định kỳ với nội dung thiết thực.
Nhà trường đóng vai trò nòng cốt trong Hội đồng Giáo dục cấp cơ sở, chủ
động đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện chủ trương và kế hoạch do

Đại hội Giáo dục đề ra.
Ban đại diện cha mẹ học sinh hoạt động đều, có hiệu quả trong việc kết
hợp với nhà trường để giáo dục học sinh.
Các hoạt động của gia đình và cộng đồng nhằm xây dựng môi trường giáo
dục Nhà trường - Gia đình - Xã hội lành mạnh
Có các hoạt động tuyên truyền dưới nhiều hình thức để tăng thêm sự hiểu
biết trong cộng đồng về mục tiêu giáo dục tiểu học, về nội dung, phương pháp
và cách đánh giá học sinh tiểu học, tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia thực
hiện mục tiêu và kế hoạch giáo dục tiểu học.
Nhà trường phối hợp với các bậc cha mẹ theo cơ chế phân công - hợp tác,
cùng gia đình giáo dục con em và tạo điều kiện thuận lợi cho con em học tập;
đảm bảo mối liên hệ thường xuyên giữa nhà trường, giáo viên và gia đình thông
qua việc sử dụng hợp lý các hình thức trao đổi thông tin như họp giáo viên - gia
đình, ghi sổ liên lạc,
Tổ chức các hoạt động giáo dục cụ thể như giáo dục đạo đức, lối sống,
pháp luật, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao.
Sự tham gia của gia đình và cộng đồng trong việc tăng cơ sở vật chất cho
nhà trường
Huy động được sự đóng góp về công sức và tiền của của các tổ chức, cá
nhân và gia đình để xây dựng cơ sở vật chất; tăng thêm phương tiện, thiết bị dạy
và học khen thưởng giáo viên dạy giỏi, học sinh học giỏi và hỗ trợ học sinh
nghè
25

×