Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở việt nam hiện nay (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.77 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------

HOÀNG THỊ HƯƠNG

XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 03 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS,TS.NGUYỄN THU NGHĨA

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại:Học viện Khoa học xó hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.NGUYỄN THU NGHĨA

Phản biện 1: PGS. TS. CAO THU HẰG
Phản biện 2: PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội................giờ.............ngày................tháng


.............

năm..............

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiến hành đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông nhằm phát triển năng lực và phẩm chất toàn diện
đức - trí - thể - mỹ cho học sinh, vì thế bản thân các thầy cô giáo trong
tương lai cũng cần phải có đầy đủ tri thức, phẩm chất, đạo đức cần thiết để
đáp ứng được yêu cầu của ngành. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các trường
sư phạm trong cả nước là cần chú trọng nhiều hơn nữa tới việc bồi dưỡng
giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên để họ có thể đảm nhiệm được
những yêu cầu đổi mới.
Song, có một thực tế là trong những năm gần đây, đạo đức, lối sống
của học sinh, sinh viên đang có những biểu hiện suy thoái, lệch lạc khiến các bậc
làm cha mẹ, những người làm công tác giáo dục và cả xã hội vô cùng lo lắng.
Nhiều hội thảo, nhiều chuyên gia đã đi sâu nghiên cứu, lí giải nguyên nhân cho
vấn đề này; nhiều giải pháp đã được đưa ra nhằm tăng cường công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho các em song vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh
viên các trường đại học sư phạm (ĐHSP) ở nước ta - những người sẽ lấy nhân
cách để giáo dục nhân cách, lấy trái tim để nuôi dưỡng tâm hồn học sinh - lại
chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù các trường ĐHSP đều nhấn mạnh mục
tiêu đào tạo ra những thầy cô giáo tương lai không chỉ giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ mà còn cần phải có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có lối sống trong
sạch, lành mạnh, là những tấm gương sáng để các em noi theo song một số môn
học mang tính giáo dục về phẩm chất, lối sống như học phần về đạo đức, kỹ

năng sống, giáo dục pháp luật… lại chưa được giảng dạy phổ biến tới mọi sinh
viên trong nhà trường. Điều này khiến chính sinh viên các trường ĐHSP cũng
rất mơ hồ với những quy chuẩn đạo đức, nghề nghiệp của mình. Chúng ta đều
biết tác động đến người thầy để làm thay đổi trò là hướng đi ngắn và hiệu quả
nhất, bởi đạo đức, nhân cách, lối sống người thầy sẽ quyết định đến đạo đức và
lối sống của trò, của thế hệ sau. Điều này cũng chính là đặc thù khác biệt của
nghề giáo so với những nghề khác. Đặc trưng nghề nghiệp đòi hỏi người thầy
không chỉ cần có kiến thức và năng lực sư phạm, phương tiện giáo dục quan

1


trọng nhất chính là lối sống, nhân cách của người thầy. Một lối sống đẹp và
chuẩn mực của người thầy nhiều khi còn cao hơn hàng trăm ngàn lời khuyên
răn đạo đức. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki cũng từng nói:
"Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh,
sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ
câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách
phạt nào khác" [32, tr.190]. Bởi thế sẽ không thể tính đếm hết hậu quả nặng nề
từ những ứng xử phi sư phạm của người thầy trong môi trường giáo dục; cũng
bởi thế, người thầy cần được xây dựng lối sống đẹp, lối sống chuẩn mực ngay
từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường các trường đại học sư phạm.
Lối sống, nhân cách, đạo đức nhà giáo không bao giờ là vấn đề xưa
cũ, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng càng mang tính thời sự. Bởi
ngày nay, sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, của toàn cầu hóa cũng
như thông tin, truyền thông đã tác động không nhỏ tới đời sống xã hội nói
chung, đời sống đạo đức nói riêng, trong đó có cả sự biến đổi của đạo đức,
lối sống người thầy theo nhiều chiều hướng khác nhau. Vì vậy, cần phải có
sự nhìn nhận, đánh giá, định hướng thật đầy đủ về đạo đức nghề nghiệp, về
lối sống của những giáo viên tương lai, phải thực sự coi đó như là yếu tố nội

lực của sự phát triển. Do vậy, xây dựng lối sống đẹp gắn liền với giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho các thế hệ sinh viên sư phạm cần phải được xem là một
trong những biện pháp then chốt của nhà trường sư phạm nhằm tạo ra những
giáo viên có chuyên môn vững vàng, có năng lực sáng tạo và phẩm chất đạo
đức tốt. Bởi vậy, vấn đề giáo dục lối sống, đạo đức nghề nghiệp và tình yêu
nghề của giáo sinh thực sự đã trở nên cấp thiết. Xuất phát từ những lí do trên,
tôi chọn “Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu về lối sống
Lối sống và các vấn đề liên quan đến lối sống là những nội dung
được các nhà nghiên cứu và làm chính sách quan tâm từ rất sớm. Ngay từ
cuối những năm 70 của thế kỉ trước, nhiều tài liệu về lối sống của Liên Xô
đã được dịch ra tiếng Việt, trong số này nổi bật là các cuốn “Lối sống xã

2


hội chủ nghĩa và các cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay” (Tập thể tác giả
(1976), Nxb Mátxcơva (tiếng Việt)); “Nghiên cứu xã hội học về lối sống ở
Liên Xô” (Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Xã hội học (1983), Nxb Sự thật,
Hà Nội). Sau đó là một số sách “Về lối sống mới của chúng ta” của Phong
Châu và Nguyễn Trọng Thụ (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983); “Bàn về lối sống
và nếp sống chủ nghĩa xã hội” của Trần Thủ Độ (Chủ biên) (Nxb Văn hóa,
Hà Nội, 1985)…. Các cuốn sách này đã tìm hiểu các vấn đề về lối sống chủ
yếu dưới góc nhìn xã hội học, đưa ra những quan niệm khác nhau về lối
sống và vận dụng nó trong sự nghiệp đấu tranh chống lối sống cá nhân, lối
sống thực dụng nhằm mục đích xây dựng lối sống mới - lối sống xã hội chủ
nghĩa.
Ở giai đoạn sau khi “mở cửa” nền kinh tế, vấn đề lối sống, biến đổi

lối sống lại càng được nghiên cứu sâu sắc hơn. Trong số này có thể kể đến
các cuốn: “Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay” của Lê Như Hoa (Chủ
biên, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội, 1993);“Lối sống xã hội chủ nghĩa
và xu thế toàn cầu hoá” của Thanh Lê (Nxb Khoa học xã hội, 2001); “Một
số vấn đề về lối sống đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”của Huỳnh Khái Vinh
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001);“Lối sống dân tộc - hiện đại: Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đỗ Huy (Nxb Văn hoá - Thông tin & Viện
Văn hoá, Hà Nội 2008); “Giá trị truyền thống trước những thách thức của
toàn cầu hóa” Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002); “Giáo dục các giá trị truyền thống dân tộc cho
thanh niên hiện nay” - Bùi Ngọc Minh (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2004)....
Cuốn “Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay”, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993là một công trình vừa mang tính nghiên cứu, vừa là
một kỷ yếu được chọn từ các bài tham luận tại Hội thảo khoa học về lối sống
trong đời sống đô thị do Viện Văn hóa tổ chức ở Hà Nội vào tháng 10 - 1992.
Lối sống đô thị được tìm hiểu từ vấn đề từ vĩ mô như văn hóa, kinh tế, đặc điểm
nguồn lao động… đến những nội dung cụ thể như nghệ thuật, giáo dục trẻ
em, văn hóa tiêu dùng, thời trang, nhà ở…
Cuốn “Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hoá” của tác
giả Thanh Lê, Nxb Khoa học xã hội, 2001 đã đi sâu nghiên cứu khái niệm
“lối sống” với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội, xem nó như một
“chính thể sinh động cụ thể” với những “chi tiết của các quan hệ xã hội
khác nhau: sản xuất, sinh hoạt, văn hóa, gia đình v.v... nói lên đặc trưng của

3


một xã hội nhất định.
Cuốn Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở
thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước do tác giả Nguyễn Viết Chức chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội, 2001 gồm các bài tham luận của nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý
văn hóa, ở những góc độ khác nhau đã đề cập đến tầm quan trọng và cần
thiết của việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở
thủ đô Hà Nội.
Cuốn Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội do tác
giả Huỳnh Khái Vinh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trên cơ
sở phân tích thực trạng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới, các tác giả
đã đưa ra những phương hướng, quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng
lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới.
Trong cuốn Lối sống dân tộc - hiện đại mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tác giả Đỗ Huy đề cập đến một
số vấn đề lý luận và thực tiễn của lối sống dân tôc- hiện đại xã hội chủ
nghĩa:khái niệm lối sống, phân biệt lối sống với những khái niệm gần gũi,
tập trung phân tích và làm sáng tỏ bản chất xã hội của lối sống, nêu lên
những yêu cầu của lối sống dân tộc - hiện đại cũng như phân tích thực trạng
đạo đức, lối sống và sự biến đổi về giá trị, chuẩn giá trị của người Việt Nam
hiện nay.
Công trình “Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Nguyễn Ngọc Hà
chủ biên,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011 ngoài phần trình bày lý luận
về tư duy, lối sống, các tác giả còn phân tích sâu đặc điểm tư duy và lối
sống của người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay trên các
phương diện; đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục đổi
mới tư duy và lối sống của người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế…
Ngoài ra, chúng tôi còn thấy rất nhiều các bài viết trên các báo có
liên quan đến đề tài như:“Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn mực giá trị
xã hội để hoàn thiện phát triển con người”, Tạp chí Thông tin lý luận, số
03/1998 của Huỳnh Khái Vinh; “Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” của tác giả Trần

Văn Bính, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2013, Lối sống người Việt Nam

4


dưới tác động của toàn cầu hóa hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Huyên,
tạp chí Triết học, số 12, 2003,…
- Nghiên cứu về lối sống của thanh niên nói chung và sinh viên nói
riêng:
Lối sống của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng đã được rất
nhiều nhà khoa học quan tâm, tìm hiểu. Đáng chú ý trong số đó là cuốn
“Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Đây là một trong
những kết quả nghiên cứu chính của đề tài "Thực trạng và xu hướng biến đổi
lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc
tế" do PGS.TS Phạm Hồng Tung làm chủ nhiệm. Đây là đề tài cấp Nhà
nước thuộc Chương trình KX.03/06-10 do Viện Việt Nam học và Khoa học
Phát triển - ĐH Quốc gia Hà Nội chủ trì thực hiện. Công trình này tập trung
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên
và lối sống của thanh niên trên cơ sở các kết quả điều tra xã hội học, thực
chứng từ tư liệu báo chí cùng nhiều phương pháp nghiên cứu khác, các tác giả
đã phân tích rõ các xu hướng biến đổi tiêu cực và tích cực trong lối sống hiện
nay của thanh niên; chỉ ra các biểu hiện, phân tích mức độ và cảnh báo hậu quả
đối với sự phát triển xã hội. Từ đó, các tác giả đề xuất các nhóm giải pháp thực
tiễn liên quan đến đường lối, chính sách Nhà nước; đến hoạt động của tổ chức
đoàn, hội của thanh niên...
Tác giả Đỗ Long trong bài “Lối sống và nhân cách của thanh niên”,
Tạp chí Tâm lý học, số 8/1996 đã đề cập vấn đề mối quan hệ giữa lối sống
và việc hình thành nhân cách cho thanh niên. Tác giả Trần Thị Minh Đức với
công trình “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên với lối sống sinh

viên nội trú”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 6/1995 đã phân tích thực trạng lối
sống của sinh viên cả mặt tích cực và tiêu cực trong môi trường ký túc xá, từ đó
nêu lên những kiến nghị cải tạo điều kiện sống ở ký túc xá và việc giáo dục lối
sống cho sinh viên nội trú để sinh viên trong môi trường nội trú có thể xây
dựng lối sống phù hợp.
Một số luận án tiến sĩ nghiên cứu cụ thể hơn về thanh niên và lối
sống của họ ở một địa phương nhất định dưới lăng kính của tâm lý học, xã
hội học như luận án tiến sĩ của Nguyễn Ánh Hồng có tên “Phân tích về mặt
tâm lý học lối sống của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh ”; luận án tiến sĩ
của Đặng Quang Thành có tên “Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh

5


niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”....
Ngoài ra còn có các bài viết “Tác động toàn cầu hóa đến đạo đức
sinh viên hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 (155), tháng 4 - 2004 của Võ
Minh Tuấn; “Định hướng cái đẹp cho thanh niên”, Tạp chí Xây dựng Đảng
(online - đăng 10:36' 26/3/2013) của Nguyễn Đức Vinh, Bùi Văn Hải; “Giáo
dục lối sống cho sinh viên - một khía cạnh của giáo dục thẩm mỹ”, Tạp chí
Tâm lý học số 5 (110), 5/ 2008 của Nguyễn Phương Huyền... Như vậy, vấn đề
lối sống đã được nghiên cứu và khái quát ở nhiều góc tiếp cận khác nhau, nhờ
đó chúng ta có cái nhìn đa chiều, toàn diện về lối sống. Ngoài ra, những công
trình trên cũng chỉ ra mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức với phát triển văn hoá
và con người; sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội đến lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, từ đó đề xuất giải pháp xây dựng đạo đức, lối
sống, chuẩn giá trị xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Song nghiên cứu cụ thể về việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên
các trường sư phạm lại chưa có một công trình nghiên cứu nào. Chính vì vậy,

chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường sư
phạm ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học
của mình. Các công trình trên đây chính là những tư liệu quý, cung cấp cơ sở lý
luận quan trọng để chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về lối
sống, lối sống đẹp theo quan điểm mácxít, cũng như tầm quan trọng, nội
dung và yêu cầu xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư
phạm, luận văn tiến hành tìm hiểu thực trạng lối sống của sinh viên ở một số
trường đại học sư phạm và đề xuất các giải pháp xây dựng lối sống đẹp cho sinh
viên các trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích này, luận văn giải
quyết các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lí luận về lối sống như: khái niệm lối sống,
lối sống đẹp, tầm quan trọng, yêu cầu và nội dung cơ bản trong xây dựng
lối sống đẹp cho sinh viên đại học sư phạm hiện nay.
+ Phân tích thực trạng lối sống của sinh viên các trường ĐHSP ở
nước ta hiện nay để chỉ ra những ưu điểm và hạn chế.

6


+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng lối sống đẹp cho
sinh viên các trường ĐHSP ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lối sống của sinh viên của các trường
ĐHSP ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Lối sống của sinh viên các trường ĐHSP ở
nước ta trong các hoạt động cơ bản: Học tập, hoạt động chính trị - xã hội,
đời sống văn hoá tinh thần.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của
Đảng ta về lối sống, đồng thời kế thừa một cách có chọn lọc ý tưởng của
các tác giả đi trước về vấn đề này.
- Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản: Lịch sử - lôgíc, phân
tích - tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn, điều tra xã
hội học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn bản chất và những đặc trưng cơ
bản của lối sống nói chung, lối sống của sinh viên ở các trường đại học sư phạm
nói riêng; giúp cho nhà trường và các nhà làm chính sách có cái nhìn đầy đủ về
lối sống của sinh viên đại học sư phạm hiện nay.
- Khảo sát thực trạng lối sống của sinh viên các trường đại học sư phạm
hiện nay làm cơ sở thực tế cho việc xây dựng chương trình, kế hoạch và giải
pháp cụ thể để xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên đại học sư phạm.
- Làm tài liệu tham khảo để xây dựng các chương trình giáo dục lối
sống, đạo đức của sinh viên.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1. Khái niệm lối sống, lối sống đẹp

1.1.1. Khái niệm lối sống
Lối sống là đề tài thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa
học trong nước và quốc tế chính vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về lối sống, tiếp cận đối tượng nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và có
nhiều cách định nghĩa khác nhau về phạm trù “lối sống”. Trong tiếng Anh,
người ta sử dụng một số thuật ngữ khác nhau để diễn đạt cách hiểu về lối sống,
trong đó có hai cách diễn đạt chủ yếu là “Way of Living”, “Way of Life”.
Ngoài ra, còn có một số thuật ngữ gần gũi khác cũng được sử dụng với nghĩa
tương đương trong ngôn ngữ thường nhật như “Life Style” hoặc “Life Form”.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “lối sống” được sử dụng khá phổ biến nhưng ít khi
được định nghĩa rõ ràng về nội hàm với tính cách một phạm trù khoa học.
Với tư cách là một thuật ngữ khoa học, khái niệm lối sống lần đầu
tiên được Max Weber sử dụng. Đến thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, phong trào
nghiên cứu về lối sống phát triển mạnh mẽ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở nước ta, thuật ngữ lối sống cũng được
nhiều học giả quan tâm như GS Vũ Khiêu, GS.Thanh Lê, GS.TS Nguyễn Văn
Huyên, Nguyễn Ngọc Hà...; trong đó đáng chú ý là cách tiếp cận liên ngành của
nhà nghiên cứu Phạm Hồng Tung. Với mỗi phương diện tiếp cận khác nhau,
cách hiểu về lối sống lại có những đặc điểm khác nhau song theo chúng tôi, lối
sống chính là phương thức hoạt động của con người, chịu sự quy định của
phương thức sản xuất và toàn bộ những điều kiện sinh sống của con người được
thể hiện thông qua các lĩnh vực của đời sống xã hội như hoạt động vật chất,
hoạt động tinh thần và hoạt động giao tiếp hàng ngày.
1.1.2. Khái niệm lối sống đẹp
Từ cách hiểu về lối sống ở trên, chúng tôi muốn đưa ra khái niệm về
lối sống đẹp nhằm nhấn mạnh đến yêu cầu về phẩm chất trong việc xây
dựng lối sống của cộng đồng, cụ thể ở đây là của sinh viên ĐHSP vì “việc hình
thành một lối sống đẹp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay sẽ giữ
vai trò định hướng tốt đến việc lựa chọn hành động cũng như phương thức hoạt


8


động của con người trong xã hội” [1], “tạo ra động lực thúc đẩy con người
hoạt động làm xã hội phát triển” [2].
Trong sinh hoạt, trong các hoạt động xã hội của các cá nhân, các
nhóm xã hội đều có nét riêng về lối sống của mỗi người song lối sống đó ít
nhiều đều chịu sự quy định của những chuẩn mực xã hội nhất định thông
qua sự điều chỉnh của dư luận xã hội, của đạo đức, thẩm mĩ và cả pháp luật.
Trong đó, đẹp là giá trị thể hiện sự hài hoà giữa các yếu tố “chân”, “thiện”,
“mỹ” - những giá trị cao quý mà con người luôn mong mỏi đạt tới; là sự
phù hợp trong suy nghĩ, hành động để đạt đến các chuẩn mực xã hội, đạo
đức của cộng đồng. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, có thể hiểu lối sống
đẹp là lối sống phù hợp với trình độ phát triển, với điều kiện khách quan
của xã hội lúc đó; với quy chuẩn nghề nghiệp, cũng như đặc điểm dân tộc
và thời đại, phù hợp với lối sống mới của người Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc được mọi người thừa nhận. Đó là lối sống lành mạnh, văn
minh, lịch sự, chứa đựng những giá trị tốt đẹp mà nhân loại hướng đến
đồng thời phải được định hướng bởi một lý tưởng sống cao đẹp mà biểu
hiện trước hết là lòng yêu nước, thái độ sống hướng tới cộng đồng, có ý
thức công dân, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ cương phép nước, có ý thức
phấn đấu cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, lối sống đẹp là
phương thức sống của con người thể hiện ở sự lựa chọn các hoạt động và
cách thức thực hiện các hoạt động đó nhằm thực hiện mục tiêu phát triển
con người toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đức, trí, thể, mỹ và xây dựng xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh và tiến bộ.
Lối sống đẹp chính là một trong những nhân tố thúc đẩy xã hội phát
triển theo chiều hướng tiến bộ nên chúng ta cần chủ động xây dựng một lối
sống đẹp để tạo động lực thúc đẩy con người hoạt động. Muốn vậy, trước
hết phải chủ động tạo ra những điều kiện và yếu tố cấu thành nên lối sống

như: phương thức hoạt động của con người trong sự thống nhất với điều
kiện môi trường khách quan, cụ thể là cơ sở vật chất đầy đủ, môi trường
văn hóa lành mạnh. Chỉ khi nào xây dựng được lối sống đẹp thì nó mới tạo

1Nguyễn

Ngọc Hà (Chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội,Hà Nội, tr. 32
2 Sdd, tr. 34

9


ra động cơ đúng đắn cho con người hành động. Việc hình thành động cơ và
hoạt động này chịu sự chi phối của tổng hòa các yếu tố: lý tưởng sống, sự
định hướng các giá trị cá nhân và xã hội, sự lựa chọn và theo đuổi các lợi
ích; cách nghĩ và cách tư duy trong nhìn nhận và đánh giá sự việc… Bên
cạnh đó, lối sống đẹp sẽ là cơ sở để con người lựa chọn phương thức hoạt
động phù hợp với yêu cầu về lối sống đã hình thành trong họ. Điều đó có
nghĩa là một lối sống đẹp sẽ làm cho con người lựa chọn hành động có văn
hóa hơn cả trong lao động sản xuất lẫn trong ứng xử hàng ngày giữa con
người với con người.
1.2. Tầm quan trọng, nội dung và một số nhân tố tác động đến
việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở
nước ta hiện nay
1.2.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên
các trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục toàn diệnnên các trường đều đặc biệt
chú trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống của học sinh,
sinh viên trong đó có sinh viên sư phạm. Mặt khác do sinh viên sư phạm

chiếm một tỉ lệ khá lớn, có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục nên
việc xây dựng các phẩm chất đạo đức và lối sống đẹp cho họ càng có ý
nghĩa thời sự.
Trong thực tế, công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh
viên các trường đại họcsư phạm và một bộ phận đội ngũ nhà giáo, cán bộ
giáo dục còn chưa đáp ứng yêu cầu.Thực trạng xuống cấp về đạo đức, lệch
lạc về hành vi, lối sống của một bộ phận cán bộ giáo dục, nhà giáo mà báo
chí phản ánh trong những năm gần đây đã và đang gây ra nhiều dư luận
không tốt cho ngành. Bởi với đặc thù nghề nghiệp nên xã hội thường có cái
nhìn “khắt khe” hơn rất nhiều đối với mỗi hành vi, ứng xử của người giáo
viên cả ở bên trong và ngoài nhà trường. Những “tấm gương mờ” này
không chỉ làm ảnh hưởng tới hình ảnh của người giáo viên chân chính mà
còn tác động xấu tới thế giới quan, tới nhân cách của học sinh, nguy hại hơn
cả là niềm tin của xã hội đối với ngành giáo dục nói chung, đội ngũ giáo
viên nói riêng bị suy giảm. Do vậy, xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các
trường ĐHSP ở nước ta là vô cùng cần thiết và phải được định hướng từ
nhiều phía một cách chủ động để họ có năng lực thích ứng với nghề nghiệp

10


cũng như sự biến đổi không ngừng của bối cảnh kinh tế - xã hội. Bởi những
thay đổi về kinh tế - xã hội hiện nay đã và đang tác động đa chiều đến lối
sống sinh viên ĐHSP: một mặt tạo cho họ sự tích cực, chủ động, sáng tạo, nhạy
bén trong học tập và sinh hoạt xã hội, vừa mang tính hiện đại, vừa giữ gìn bản
sắc văn hóa của dân tộc, song bên cạnh đó, không ít các biểu hiện tiêu cực trong
lối sống của sinh viên ĐHSP đã xuất hiện - đó là xu hướng sống tuyệt đối hóa
yếu tố vật chất, bi quan và hoài nghi về ngành nghề, lối sống cá nhân, vị kỷ, xu
hướng thích tiêu xài hưởng thụ, ứng xử xa rời với chuẩn mực của ngành… Một
lối sống đẹp vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội,

hoàn thiện con người nói chung, các giáo sinh nói riêng.
Trong quá trình xây dựng lối sống, sinh viên sư phạm và các giáo
viên vừa là chủ thể mang các giá trị đạo đức, có ý thức về hành vi đạo đức
của bản thân, có khả năng tự điều chỉnh, tự đánh giá hành vi của mình đồng
thời lối sống của họ cũng là phương tiện trực quan nhất, quan trọng nhất
định hướng, giáo dục nhân cách học sinh của mình. Điều này không chỉ tác
động đến chất lượng người công dân tương lai mà còn có ảnh hưởng và tác
động lâu dài đến bộ mặt kinh tế, văn hoá, xã hội cũng như thế giới quan và
nhân sinh quan, tư tưởng, đạo đức, tình cảm và niềm tin, hành vi trong hoạt
động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội thông qua hệ giá trị
và chuẩn mực người giáo viên đã định hướng.
Ngoài ra, việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên ĐHSP ngay từ khi
còn học tập tại trường còn góp phần quan trọng trong việc giúp họ vững vàng
trước tác động của mặt trái kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, cũng như có năng
lực thích ứng với những biến đổi của ngành nghề, của đất nước và những yêu cầu
của phụ huynh, học sinh, xã hội. Để giữ gìn được hình ảnh đẹp của nhà giáo
chúng tôi nghĩ rằng cần thực hiện nhiều hơn nữa những hành động mạnh mẽ,
thiết thực, cụ thể từ ngành giáo dục, từ mỗi đơn vị trường học. Song, quan trọng
nhất vẫn là sự nghiêm khắc với bản thân, ý chí nỗ lực tự hoàn thiện mình về mọi
mặt của mỗi giáo sinh, giáo viên. Người xưa có câu: “Giáo dục một người đàn
ông - được một công dân, giáo dục một người phụ nữ - được một gia đình, giáo
dục một người thầy - được một thế hệ”. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, mọi sự lơ
là, xem nhẹ, bỏ mặc công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên đại học sư
phạm đều có thể dẫn họ đến tình trạng lệch chuẩn và phải trả giá. Việc xây dựng
lối sống đẹp không chỉ giúp giáo sinh làm được, làm tốt nghề mà còn có niềm tin,

11


có cái tâm để đi xa hơn, lâu hơn với nghề. Đó cũng là người chọn nghề và nghề

chọn người vậy.
1.2.2. Nội dung vàmột số nhân tố tác động đến việc xây dựng lối
sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay
Yêu cầu đối với lối sống, tác phong của sinh viên sư phạm là khâu
quan trọng hàng đầu trong việc hình thành đạo đức, nhân cách người giáo
viên tương lai. Ngay từ những năm 70 của thế kỉ trước, trong cuốn “Luân lý
chức nghiệp”, các tác giả Lê Thanh Hoàng Đan (Trưởng ban Kinh tế chính
trị - Trường Sư phạm Sài Gòn, Phó Chủ tịch Hội Nghiên cứu Triết học) và
Nguyễn Hòa Lạc (Giáo sư Trường Sư phạm Sài Gòn) đã cho chúng ta biết
môn Luân lý chức nghiệp là “môn mở đầu của chương trình ban Sư phạm
thường xuyên” nhằm “tạo uy tín”, “nhân cách cho nhà giáo”, “giúp cho tất
cả các giáo sinh và những ai sắp sửa bước vào nghề nhưng chưa có dịp học
nghề, có được một thái độ “trung bình” của nghề mình, chấp nhận và tinh
tiến hơn trong nghề”. Cụ thể, để xây dựng một hình ảnh nhà giáo chuẩn
mực trong tương lai, ngay từ khi còn ngồi trên giảng đường, các giáo sinh
được yêu cầu xây dựng về tác phong; lương tâm nghề nghiệp; tinh thần làm
việc và uy tín nhà giáo; kiến thức và định hướng nhà giáo; đời công - đời tư
giáo chức cũng như bổn phận của họ đối với học sinh, đồng nghiệp, cấp
trên…
Trong thời đại mới, mỗi một sinh viên sư phạm vẫn cần xây dựng và
gìn giữ một lối sống chuẩn mực. Điều này được cụ thể trong điều 5, chương
2 của “Quy định về đạo đức nhà giáo”(ban hành kèm theo Quyết định số
16/2008/QĐ-BG&ĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo). Những tiêu chí trong Quy định này chính là chỉ dẫn giúp chúng ta
xây dựng, đánh giá lối sống đẹp cho sinh viên đại học sư phạm cũng như các
nhà giáo. Đó cũng là mô hình người thầy toàn diện hội tụ ba yếu tố gồm năng
lực sư phạm, năng lực chuyên môn và cái tâm của người thầy mà nền giáo
dục nước ta hướng đến.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Lối sống và các vấn đề liên quan đến lối sống là vấn đề thời sự, nhận

được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và làm chính sách. Mỗi thời kì

12


lịch sử, mỗi giai tầng khác nhau, con người có sự lựa chọn những phương
thức hoạt động khác nhau. Song tựu chung lại, đa số luôn mong muốn
hướng đến một lối sống đẹp - một lối sống mà ở đó con người được phát
triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: đức - trí - thể - mỹ qua đó xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ. Đó vừa là mục tiêu cùng là
động lực thúc đẩy con người trong xã hội hiện đại. Với sinh viên đại học sư
phạm, những người sắp sửa bước vào sự nghiệp giáo dục con người, nhân
cách và lối sống của họ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp và lâu dài đến các thế hệ tương lai của đất nước. Thực tế cho thấy nếu
người thầy không gương mẫu, chuẩn mực thì học trò sẽ thiếu đi sự tôn
trọng, thậm chí có những phát triển lệch lạc về tâm lí, nhân cách. Do vậy,
để nhà giáo, nghề giáo giữ được vị thế của mình, chúng ta cần xây dựng và
giáo dục cho các giáo sinh những chuẩn mực cần thiết để xây dựng lối sống
đẹp ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Họ cần được bồi
dưỡng những giá trị của ngành, giáo dục lòng yêu nghề, yêu trẻ; rèn luyện
để có kiến thức chuyên môn vững vàng, kĩ năng sư phạm tốt đồng thời sống
chủ động, tích cực và cống hiến vì cộng đồng.

13


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

2.1. Thực trạng lối sống sinh viên các trường đại học sư phạm ở
nước ta hiện nay
2.1.1. Một số đặc điểm cơ bản của sinh viên các trường đại học sư
phạm ở nước ta hiện nay
Sinh viên các trường đại học sư phạm chiếm tỉ lệ đông đảo. Họ sinh
sống trên khắp các vùng miền ở nước ta với những khác biệt về điều kiện
sống, trình độ, văn hóa, tập quán… Trước hết với tư cách sinh viên, họ là
một bộ phận của thanh niên đang theo học tại các trường đại học; họ làm
việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm và khai thác tri thức để phục vụ cho
nghề nghiệp trong tuông lai. Sinh viên cung là lứa tuổi có sự phát triển
mạnh mẽ về tình cảm nghĩa vụ, tình cảm thẩm mỹ, ý thức trách nhiệm,
trách nhiệm công dân, cũng như sự độc lập trong các hoạt động ở mức độ
cao cùng với loại tình cảm rất đặc trưng của lứa tuổi này - tình yêu nam nữ. Tất
cả những loại tình cảm này có mối quan hệ mật thiết với lối sống của họ. Họ
dần hình thành quan điểm riêng, lập trường riêng một cách vững chắc, đồng
thời tự chủ giải quyết các vấn đề với tính lựa chọn có mục đích. Chính sự
trưởng thành về mặt xã hội này giúp sinh viên có tâm thế cho việc lựa chọn và
theo đuổi mục đích sống của mình.
Ngoài những điểm chung trên, sinh viên đại học sư phạm còn có
những năng lực và phẩm chất đặc trưng đòi hỏi cần thiết phải có của nghề
dạy học:trước hết đó là xu hướng sư phạm - biểu hiện ở nhu cầu và mong
muốn được làm giáo viên cũng như ý thức được ý nghĩa của nghề đối với
bản thân và xã hội. Bởi đặc thù của lao động sư phạm là lĩnh vực hoạt động
lao động do giáo viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục nhằm thực
hiện mục tiêu giáodục. Để thực hiện mục tiêu này, những nhà sư phạm cần
hiểu đối tượng tác động của mình rất đặc biệt - đó là nhân cách của học
sinh, đó là con người (người học) không thụ động mà trái lại có ý thức, tích
cực, chủ động, sáng tạo. Ngoài các công cụ lao động thông thường như:
giáo án, sách giáo khoa, bảng đen, phương tiện kỹ thuật và đồ dùng dạy


14


học, giáo viên có công cụ lao động cơ bản rất đặc biệt là nhân cách của
chính mình, đó là phẩm chất và năng lực, đức và tài của giáo viên.Do đó,
giáo viên phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ,
xây dựng các phẩm chất đạo đức cũng như lối sống đẹp để có nhân cách
mẫu mực.
Khi đã lựa chọn nghề dạy học, sinh viên sư phạm phải có thế giới
quan khoa học, lý tưởng nghề nghiệp cao quý, yêu học sinh, yêu nghề, có
đạo đức - lối sống mẫu mực, trong sáng... Về năng lực sư phạm, bên cạnh
những năng lực chung, giáo viên và giáo sinh cần có các năng lực chuyên
môn cơ bản: năng lực dạy học; năng lực giáo dục; năng lực tổ chức các hoạt
động sư phạm. Hiện nay, để cụ thể hoá những yêu cầu về phẩm chất và
năng lực của người thầy giáo, phù hợp với các cấp học, bậc học, Bộ giáo
dục và Đào tạo đã ban hành Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên. Từ đó, trong
các hoạt động học tập và rèn luyện nghề, sinh viên đại học sư phạm cần
không ngừng tự học, tự giáo dục, tham gia tích cực vào các hoạt động rèn
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và các hoạt động thực tế ở trường phổ
thông.
2.1.2. Những ưu điểm trong lối sống của sinh viên các trường đại
học sư phạm
2.1.2.1. Ưu điểm trong học tập và nghiên cứu khoa học
Trong quá trình tìm hiểu thực trạng lối sống sinh viên ở các trường ĐHSP,
chúng tôi đã khảo sát ngẫu nhiên 600 sinh viên các trường ĐHSP Hà Nội, ĐHSP
Đà Nẵng, ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, chúng tôi nhận thấy học tập là
nhiệm vụ trung tâm, là hoạt động cơ bản nhất có khả năng chi phối đến tất cả các
mặt khác nhau trong toàn bộ đời sống sinh viên các trường. Hoạt động học tập của
sinh viên chủ yếu biểu hiện qua các mặt chuyên cần; tinh thần tham gia xây dựng
bài giảng; thời gian tự học, nghiên cứu khoa học…, tất cả những khâu đó được

phản ánh qua kết quả học tập của họ.
Theo báo cáo Ba công khai của trường Đại học sư phạm Hà Nội, năm
học 2014 - 2015, sinh viên ĐHSP Hà Nội có đến 0.8% sinh viên đạt kết quả tốt
nghiệp Xuất sắc, 21.8% sinh viên đạt kết quả tốt nghiệp Giỏi, 65.9 % sinh viên
đạt kết quả tốt nghiệp Khá; đặc biệt với Chương trình đào tạo chất lượng cao có
19.5% sinh viên đạt kết quả Xuất sắc, 60.1% sinh viên đạt kết quả Giỏi, 19.5%
sinh viên đạt kết quả Khá. Năm học 2015 - 2016, ĐHSP Đà Nẵng có trung bình

15


1,7% sinh viên đạt kết quả tốt nghiệp Xuất sắc, 21.8% sinh viên đạt kết quả tốt
nghiệp Giỏi, 73,2 % sinh viên đạt kết quả tốt nghiệp Khá. Năm học 2014 2015, ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh có 3.2% sinh viên đạt kết quả tốt nghiệp
Giỏi, 49,1% sinh viên đạt kết quả tốt nghiệp Khá. Như vậy, trong quá trình đổi
mới hoạt động giảng dạy ở đại học hiện nay, chúng tôi nhận thấy đa số sinh
viên ĐHSP đều có ý thức tốt trong quá trình học tập, đa số đều chuyên cần và
thường xuyên ghi chép bài đầy đủ
Ở một phương diện khác, công tác nghiên cứu khoa học đã nhận
được sự quan tâm của tất cả Ban Giám hiệu các trường ĐHSP cũng như
sinh viên. Năm học 2015 - 2016, toàn trường ĐHSP Hà Nội có hơn 700
công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên từ các khoa trong đó 03 công
trình trong số đó đã được trao giải cấp Bộ; 04 giải nhất, 08 giải nhì, 12 giải
ba và 12 giải khuyến khích cho các đề tài nghiên cứu xuất sắc cấp Trường.
Trường ĐHSP Đà Nẵng có 11 đề tài khoa học tiêu biểu cấp Trường. Phong
trào nghiên cứu khoa học tại Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh cũng
đã đạt kết quả khả quan với 01 giải Nhất, 01 giải Nhì, 01 giải Khuyến khích
do Thành Đoàn trao tặng...
Có thể nhận thấy phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học của các
trường ĐHSP trong nhiều năm qua đã không ngừng phát triển về cả chất
lượng và số lượng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà

trường, biến quá trình đào tạo đại học thành quá trình tự đào tạo và hình thành
tư duy nghiên cứu ở sinh viên. Điều này khiến các sinh viên ĐHSP không chỉ
trở thành giáo viên giỏi mà còn trở thành các nhà nghiên cứu khoa học giàu
tiềm năng, có thể giúp họ tự tin ở những bậc đào tạo cao hơn như thạc sĩ, tiến
sĩ. Đây cũng là nét đẹp cần duy trì và phát huy trong đời sống sinh viên sư
phạm.
2.1.2.2. Ưu điểm trong các hoạt động chính trị - xã hội
Ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, sinh viên ĐHSP cần được
trang bị nhiều kĩ năng mềm cần thiết. Và Đoàn, Hội và các mô hình câu lạc
bộ, các hội thi, tọa đàm, hội thảo, hội nghị, hoạt động nhóm… chính là nơi
khơi dậy và rèn luyện những kĩ năng này một cách hữu ích, thiết thực nhất.
Những trường được chúng tôi khảo sát cũng có phong trào Đoàn thể rất
mạnh và thu hút được đông đảo Hội viên, Đoàn viên.

16


Kết quả khảo sát cũng cho thấy 100% sinh viên được khảo sát đều
tham gia vào các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Sinh viên Việt Nam và các câu lạc bộ, 25% trong số đó là những cán bộ
nòng cốt. Đa số sinh viên đều hài lòng và tích cực tham gia vào các hoạt
động chính trị xã hội. Trong đó những hoạt động lôi cuốn được nhiều sinh
viên tham gia là các hoạt động tình nguyện (mùa hè xanh, tiếp sức mùa thi,
hiến máu nhân đạo, Đội Tình nguyện chuyển giao Ứng dụng Khoa học Kỹ
thuật trong Nông nghiệp…); các hội thi (Cuộc thi Tìm hiểu Chủ nghĩa Mác
- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Hội diễn Tuyên truyền ca khúc cách
mạng - Đại học Sư phạm Hà Nội, Cuộc thi Famelab Việt Nam 2017 tại Đại
học Sư phạm Đà Nẵng; Thanh niên Sư phạm điển hình - UP Awards 2016
tại Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh…); các câu lạc bộ (câu lạc bộ
gia sư sư phạm, câu lạc bộ kĩ năng sư phạm, câu lạc bộ nghệ thuật…).

Như vậy, sinh viên tại các trường ĐHSP có rất nhiều ưu điểm trong
lối sống. Được đào tạo bài bản tại các trường đại học trọng điểm, đầu ngành
trong lĩnh vực sư phạm, họ là những người tích cực trong học tập và nghiên
cứu khoa học đồng thời chủ động và sáng tạo trong các công tác chính trị - xã
hội. Điều này giúp các giáo sinh không chỉ vững vàng về chuyên môn, nghiệp
vụ mà còn rèn luyện được nhiều kĩ năng cần thiết để thích ứng với nghề và
vươn lên trong cuộc sống.
2.1.3. Hạn chế trong lối sống của sinh viên các trường đại học sư
phạm ở nước ta hiện nay
2.1.3.1. Hạn chế trong nhận thức của sinh viên với ngành, nghề
Bên cạnh những biểu hiện tích cực thể hiện một lối sống đẹp như đã
kể trên, hiện nay vẫn còn một bộ phận sinh viên các trường ĐHSP có ý thức
phấn đấu chưa cao, thờ ơ với các vấn đề chính trị - xã hội, phai nhạt lý tưởng
cách mạng, không xác định được mục tiêu, lí tưởng cuộc sống; có biểu hiện
suy thoái về đạo đức lối sống, mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Một số
sinh viên đề cao lối sống thực dụng, ích kỉ, thích hưởng thụ, đua đòi, xa hoa
lãng phí, xem nhẹ giá trị tinh thần; không quan tâm đến cộng đồng, người
xung quanh, ít tham gia các hoạt động tình nguyện, hoạt động xã hội và
cộng đồng; sống khép mình, đề cao chủ nghĩa cá nhân, xa rời tập thể, một
số học sinh sinh viên vi phạm pháp luật.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy một bộ phận sinh viên
sư phạm còn thụ động, thờ ơ, bi quan với thực trạng của ngành, chưa yêu

17


nghề, bị tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường. Mặc dù Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã có quy định về đạo đức, lối sống nhà giáo, nhưng số lượng sinh
viên các trường ĐHSP biết đến văn bản này qua trong cuộc khảo sát của
chúng tôi chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều này tất yếu dẫn đến tình trạng sinh viên

các trường ĐHSP chưa ý thức được vai trò, vị trí ngành nghề của mình; chưa
được định hướng những giá trị sống, giá trị nghề nghiệp cần thiết, thậm chí một
bộ phận có lối sống thụ động, khép kín, bang quan và thờ ơ với thời cuộc.
Ngoài ra, một thực trạng cần phải nhắc đến là tình trạng sinh viên
ĐHSP băn khoăn, thậm chí tỏ ra bi quan, hoài nghi và không yêu ngành
nghề mình đã chọn. Điều này rất đáng lo ngại vìnhư ông Nguyễn Kim
Hồng, hiệu trưởng trương đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, nói:
“Ngành giáo dục không thể bền vững nếu người làm nghề không thật sự yêu
nghề mà vì những lý do khác. Nếu các em không yêu nghề mà vẫn theo học, các
em hại chính bản thân thì ít vì lựa chọn sai ngành nghề, nhưng lớn hơn là các em
hại cả một thế hệ.” [3].Do vậy, điều cần làm trước tiên để xây dựng một lối sống
đẹp, một nhân cách chuẩn mực cho sinh viên các trường đại học sư phạm là cần
cây dựng cho các em lòng yêu nghề, yêu trẻ, yêu học sinh.
2.1.3.2. Hạn chế của sinh viên về các kĩ năng mềm, kỹ năng sư phạm
Trong quá trình tìm hiểu lối sống của sinh viên ĐHSP chúng tôi nhận
thấy một hạn chế dễ nhận thấy là các giáo sinh còn thiếu nhiều kĩ năng cần
thiết. Kết quả khảo sát đã chỉ ra bên cạnh thế mạnh ở các kĩ năng phân tích
và giải thích, giải quyết vấn đề, nghe, ghi và hiểu bài giảng, sinh viên sư
phạm còn lúng túng trong các kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc theo dự
án, kĩ năng viết báo cáo tham luận, kĩ năng vận dụng vào thực tế, sử dụng
công nghệ thông tin - ngoại ngữ hỗ trợ học tập. Trong khi đó, đây lại là
những kĩ năng vô cùng cần thiết đối với giáo viên và thường xuyên được sử
dụng sau này.
Một hạn chế nữa cần phải nhắc đến là sinh viên các trường ĐHSP ở
nước ta hiện nay còn thiếu và yếu các kỹ năng sư phạm cần thiết. Thực tế,
những hiện tượng trong những giờ đầu tiên đi thực tập sư phạm, các giáo

Lê Huyền, Ngân Anh, Hiệu trưởng trường sư phạm “rất sợ thí sinh không yêu nghề”,
/>3


18


sinh chỉ lo sao cho giảng hết kiến thức trong chương trình quy định mà
quên kỹ năng sư phạm không phải hiếm gặp: Các em lúng túng khi mở đầu
bài giảng, thậm chí bỏ hẳn khâu mở đầu bài giảng và điều này làm giảm
hiệu quả rất nhiều trong việc tiếp thu tri thức của học sinh dưới góc độ Tâm
lý học - quy luật ghi nhớ và nhắc lại. Quy trình bài giảng và kiến thức
chuyên ngành được chú trọng nhưng kỹ năng giảng dạy lại xem nhẹ.Hay
như khi đang giảng bài, sinh viên thực tập bối rối khi không biết làm thế
nào để tập trung học sinh, điều khiển và làm chủ lớp học, và thầy giảng cứ
giảng, trò nói chuyện cứ nói chuyện, nội dung bài giảng và khả năng tiếp
nhận của học sinh bị ảnh hưởng không nhỏ. Một số sinh viên sư phạm khi
đi thực tập còn không biết cách trình bày bảng một cách khoa học- viết lộn
xộn, “trèo đèo lội suối” - khiến học sinh cười ầm ĩ hay nhiều tình huống
của thế giới “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” khiến họ hoặc đỏ mặt
ngượng ngùng hoặc cười trừ, thậm chí phát khóc mà không biết cách xử
lý…
Như vậy, bên cạnh những ưu điểm trong lối sống, sinh viên sư phạm
cũng có những vấn đề đang được đặt ra và cần phải thay đổi. Trước hết, họ
cần được xây dựng lòng yêu nghề, niềm tin với nghề. Điều này không hề dễ
dàng: cần có một triết lý giáo dục đúng đắn, cần xác định vị thế thực sự của
nghề giáo, nhà giáo; cần sự can thiệp từ Bộ, ngành, truyền thông trong dài
hạn… Với bản thân mỗi sinh viên, họ cần có định hướng giá trị đúng đắn,
cần một sự lựa chọn nghề nghiệp sáng suốt, và khi “đã mang lấy nghiệp vào
thân” thì cần bồi dưỡng cho mình cái tâm của một nhà giáo - yêu nghề, yêu
trẻ, hết lòng vì các thế hệ học sinh thân yêu. Khi có cái tâm trong sáng, mỗi
sinh viên sư phạm, sau này là các giáo viên, sẽ tìm thấy niềm vui, niềm tự
hào trong nghề - tin rằng lúc đó nghề không phụ người.


19


2.2. Các giải pháp xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường
đại học sư phạm ở nước ta hiện nay
2.2.1.Về phía các trường và giảng viên đại học sư phạm
Trước hết, các trường cần phải giữ vai trò là lực lượng tiên phong
định hướng giá trị sống cũng như những giá trị và nguyên tắc của ngành
cho các giáo sinh. Để làm được điều này, Bộ GD & ĐT và các trường
ĐHSP phải xây dựng được bảng giá trị cốt lõi dành cho sinh viên nói chung
và sinh viên sư phạm nói riêng, từ đó mới có biện pháp đổi mới tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối
sống trong các nhà trường.
Các trường ĐHSP cũng cần xác định cơ chế quản lý, phối hợp và
điều kiện đảm bảo kinh phí, đánh giá kết quả sự phối hợp giáo dục đạo đức,
lối sống giữa: Nhà trường với gia đình, nhà trường với chính quyền địa phương
và nhà trường với các tổ chức Đoàn, Hội. Cùng với đó, các trường cần xây
dựng cơ chế để duy trì việc đối thoại giữa cán bộ quản lý, giảng viên sinh viên;
cơ chế hỗ trợ, quản lý, giáo dục sinh viên thông qua các tổ chức Đoàn, Hội và
chính quyền, các tổ chức xã hội - chính trị tại địa phương. Bên cạnh đó các
trường ĐHSP cần xây dựng tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về giáo
dục đạo đức lối sống cho cán bộ giáo viên, giảng viên; xem xét đưa nội dung
và phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh sinh viên vào chương
trình đào tạo. Các nhà trường cần đầu tư kinh phí và mở rộng các hình thức
hoạt động ngoại khóa theo hướng tạo điều kiện phát huy sự tham gia của sinh
viên để phát triển năng lực, phẩm chất. Các trường cũng nên bố trí cán bộ, giáo
viên làm nhiệm vụ tư vấn học đường để tư vấn tâm lý, kiến thức kỹ năng sống,
hỗ trợ học tập, rèn luyện cho học sinh trong các trường phổ thông. Thành lập
các câu lạc bộ, các trung tâm tư vấn nghề nghiệp, kết hợp tư vấn tâm lý, kỹ
năng cho sinh viên. Ngoài ra, biện pháp có thể và cần tiến hành ngay là các

trường ĐHSP cần chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên sư phạm chuẩn mực
về đạo đức nghề nghiệp vì đây là lực lượng quyết định đến hiệu quả và chất
lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên, bởi nhân cách của người thầy
chính là tấm gương đạo đức có sức thuyết phục nhất đối với sinh viên.
Trong việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trườngĐHSP, hoạt
động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một hoạt động đặc thù song có ý

20


nghĩa quyết định, giúp sinh viên có hiểu biết, tinh thần trách nhiệm, ý thức
về việc thực hành nghề đúng đắn và tích cực.Do vậy, các trường ĐHSP cần
quy định các đợt rèn luyện nghiệp vụ sư phạm một cách thường xuyên, có
định hướng cụ thể cho mỗi đợt, có cập nhật các thông tư, quy định mới của
Bộ, Ngành...
2.2.2 Đối với các Đoàn thể
Các chi bộ Đảng và các đoàn thể, trực tiếp là Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên tại các trường sư phạm phải thường
xuyên tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa,
ý thức công dân cho sinh viên:xây dựng lý tưởng sống xã hội chủ nghĩa,
giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên, trước hết phải định hướng cho
họ sống có mục đích, có hoài bão, có niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở
nghị quyết, tổ chức đoàn các cấp xây dựng chương trình hành động thích hợp,
đặt ra những yêu cầu, nội dung và biện pháp cụ thể về xây dựng lối sống văn
hóa xã hội chủ nghĩa trong đời sống tinh thần của thanh niên trong các phong
trào cụ thể. Từ đó, Đoàn – Hội cần tiếp tục không ngừng nâng cao chất lượng
sinh hoạt, thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động hiệu quả,
thiết thực đồng thời cần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sinh viên,
thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động bổ ích phù hợp với tâm lí của tuổi trẻ

như: thi tìm hiểu, diễn đàn thanh niên, sinh hoạt giáo dục truyền thống, giao lưu
kết nghĩa…hướng tất cả các hoạt động đó vào nâng cao nhận thức và xây dựng
lối sống đẹp cho sinh viên cũng như phát hiện kịp thời và chủ động ngăn ngừa
những yếu tố tiêu cực xâm nhập, ảnh hưởng tới lối sống của họ.
2.2.3. Đối với sinh viên
Ðể xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên ĐHSP thì phương hướng và
giải pháp bền vững nhất là phát huy tính tích cực, tự giác trong tự bồi
dưỡng, tự giáo dục rèn luyện lối sống của họ. Chính bản thân sinh viên ĐHSP
tự ý thức được vai trò của kỹ năng sư phạm với nghề nghiệp tương lai để
nghiêm túc rèn luyện; tích lũy kinh nghiệm thực tiễn; tích lũy kiến thức ngành,
liên ngành, kiến thức văn hóa và xã hội để hiệu quả giảng dạy đạt kết quả tốt nhất
ngay trong những ngày đầu làm thầy. Tự bồi dưỡng, tự giáo dục rèn luyện đạo
đức, lối sống đẹp của sinh viên ĐHSP là quá trình hoạt động có mục đích, có ý
thức, hướng vào sự phát triển và xây dựng phẩm chất nhân cách lối sống mới,

21


phù hợp với yêu cầu và chuẩn mực của ngành, của xã hội. Trước hết mỗi sinh
viên ĐHSP cần học tập, rèn luyện, nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước cũng
như mọi quy định của ngành.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Như vậy, so với các ngành nghề khác, sinh viên ĐHSP chiếm một tỉ
lệ không nhỏ, họ sinh sống và học tập trên nhiều vùng miền của Tổ quốc do
vậy để nghiên cứu một cách đầy đủ về lối sống của họ của họ là công việc
không hề dễ dàng. Trong phạm vi có hạn của luận văn này, chúng tôi mới
khảo sát ngẫu nhiên 600 sinh viên ở 3 trường ĐHSP lớn của cả nước là
ĐHSP Hà Nội, ĐHSP Đà Nẵng, ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. Từ việc
phân tích và tổng hợp số liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy một số thực
trạng chung, bước đầu phản ánh lối sống đẹp của các thầy cô giáo tương lai.

Trước hết, đa số sinh viên sư phạm có lối sống lành mạnh, họ chăm chỉ học
hành, có đam mê nghiên cứu khoa học để phục vụ quá trình “lập thân, lập
nghiệp” trong tương lai. Họ cũng đã và đang sống hết mình cho các hoạt
động tình nguyện, hoạt động vì cộng đồng; tích cực tham gia các phong trào
văn nghệ - thể thao và các công tác đoàn thể, chấp hành tốt chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước. Song, bên cạnh đó, trong lối sống của sinh
viên ĐHSP cần phải khắc phục một số hạn chế: trước hết là một bộ phận
không nhỏ các giáo sinh còn chưa tâm huyết, chưa có niềm tin và hiểu biết
với ngành nghề mà mình đang theo học. Sinh viên ĐHSP cũng đang thiết
hụt nhiều kĩ năng sống, kĩ năng ngành nghề cần thiết. Điều này có nhiều
nguyên nhân - từ phía Bộ, trường đại học và chính bản thân sinh viên. Do
vậy, để đạt mục tiêu trở thành nhà giáo giỏi và mẫu mực được học trò tin
yêu trong tương lai, cần có phương hướng và thực hiện đồng bộ nhiều giải
pháp: Bộ cần định hướng giá trị của ngành, nghề, các trường đại học chấn
chỉnh từ khâu tuyển dụng, đội ngũ giảng viên đến nội dung chương trình,
phương pháp…tiến hành giáo dục đạo đức, lối sống; các đoàn thể cần linh
hoạt và đa dạng hóa để lối cuốn đông đảo sinh viên; bản thân sinh viên
cũng cần có quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện không ngừng các phẩm chất
và nghiệp vụ của nghề giáo... Có như vậy, việc xây dựng lối sống đẹp cho
các sinh viên sư phạm mới được hiện thực hóa, niềm tin yêu đối với “nghề
cao quý trong những nghề cao quý” mới được khôi phục bền vững.

22


KẾT LUẬN
Những năm gần đây vấn đề lối sống, đạo đức của học sinh, sinh viên
thường bị truyền thông nhắc đến với các biểu hiện tiêu cực. Khi truy tìm
nguyên nhân, nhiều người đổ lỗi cho việc giáo dục tại các nhà trường.
Thậm chí bất cứ một sai phạm nào của giáo viên/cán bộ quản lí ngành giáo

dục cũng bị dư luận lấy đó soi xét rất nghiêm khắc. Đây dường như là một
định kiến khiến vị thế ngành sư phạm và nghề giáo dần bị lu mờ. Chúng ta
đều biết rằng quá trình hình thành lối sống và phát triển nhân cách học sinh,
sinh viên nói riêng và con người nói chung luôn chịu sự chi phối của môi
trường gia đình - nhà trường - xã hội và khả năng tự nhận thức, điều chỉnh
của chính cá nhân đó. Sự lệch chuẩn về hành vi, lối sống, đạo đức của học
sinh, sinh viên bị tác động bởi rất nhiều nguyên nhân. Đó có thể là do tác
động từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu
hóa, của truyền thông, của gia đình,.. Dù vậy, không thể phủ nhận tác động
to lớn của nhà trường mà trực tiếp nhất là lối sống, nhân cách của giáo viên.
Bởi trong quá trình hình thành nhân cách, phần lớn thời gian học sinh, sinh
viên tiếp xúc với giáo viên và nhiều giáo viên trở thành hình mẫu in đậm
suốt cuộc đời họ. Do đó, lối sống, nhân cách của giáo viên có ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình học làm người của học sinh, sinh viên. Để tạo dựng một
hành trang đầy đủ giúp sinh viên ĐHSP vững vàng và kiên trì “chèo lái con
đò” đưa các thế hệ học sinh cập bến trở thành một người công dân tốt, việc
xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm là vô cùng
cần thiết.
Khi tìm hiểu thực trạng lối sống của một số trường ĐHSP hàng đầu,
chúng tôi thấy bên cạnh những ưu điểm, sinh viên ở các trường này vẫn cần
bồi đắp rất nhiều thiếu hụt. Dù họ học hành chăm chỉ, được bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn vững vàng, bước đầu có đam mê nghiên cứu khoa học
song một bộ phận trong số họ còn chưa tâm huyết với nghề, vẫn còn nhiều
băn khoăn, lo lắng trước ngưỡng cửa cuộc đời cũng như những thông tin bi
quan về tình trạng thất nghiệp, về những gian truân chỉ người trong nghề

23



×