Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vận dụng các quy luật tâm lý nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên” làm tiểu luận môn học tâm lý học trong công tác tư tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.92 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm tới vị trí,
vai trò và đánh giá cao kết quả hoạt động của công tác tư tưởng, trong đó
khẳng định công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên là một bộ phận cực kỳ quan trọng trong việc tuyên truyền phổ biến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuyên truyền miệng là phương thức được tiến hành bằng lời nói trực
tiếp, có nhiều ưu thế, có sức lan toả nhanh, phù hợp với từng nhóm đối tượng,
không hạn chế nội dung mà các loại hình tuyên truyền khác không thực hiện
được và có thể nhận biết ngay hiệu quả tác động của thông tin đến đối tượng
tuyên truyền.
Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, tuyên truyền miệng là kênh
thông tin chính thống giúp thông báo kịp thời, có định hướng những vấn đề
thời sự quan trọng trong nước và thế giới, chuyển tải những thông tin nội bộ
mà vì lý do nào đó không thể đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng,
giải thích cho nhân dân hiểu rõ thông tin, trên cơ sở đó định hướng dư luận xã
hội, góp phần tạo ra sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng và sự đồng
thuận trong xã hội.
Tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau,
hiệu quả hoạt động tuyên truyền miệng của hệ thống báo cáo viên còn nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác tuyên truyền miệng
và đội ngũ báo cáo viên trong bối cảnh, điều kiện mới. Với nhận thức đó, em
lựa chọn đề tài: “Vận dụng các quy luật tâm lý nâng cao hiệu quả hoạt
động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên” làm tiểu luận môn học
Tâm lý học trong công tác tư tưởng.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VÀ ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN


1.1. Vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền miệng
1.1.1. Khái niệm tuyên truyền miệng
Hiện nay, trên các sách báo và trong các công trình nghiên cứu đang có
những quan niệm khác nhau về tuyên truyền miệng. Tuy nhiên, đa số các nhà
nghiên cứu cho rằng: Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền
được tiến hành bằng lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức,
củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe.
Tuyên truyền miệng thực hiện được chức năng của cả hai hình thái tuyên
truyền và cổ động trong công tác tư tưởng. thông qua công tác tuyên truyền
miệng, người tuyên truyền tác động làm chuyển hóa, nâng cao nhận thức, tư
tưởng của người nghe. Mặt khác, tuyên truyền miệng qua hoạt động của báo
cáo viên, qua lời nói, cử chỉ, hành động… cổ vũ, động viên người nghe. Nội
dung tuyên truyền miệng còn có tác dụng lan truyền trong từng nhóm người,
từ người này sang người khác.
1.1.2. Vị trí, vai trò của tuyên truyền miệng
Vị trí của tuyên truyền miệng. Để tiến hành công tác tư tưởng Đảng ta sử
dụng nhiều kênh, nhiều công cụ và phương tiện như: hệ thống trường học, lớp
học; các phương tiện thông tin đại chúng; các thiết chế văn hoá và hoạt động
của chúng; sinh hoạt hội họp của các tổ chức; tuyên truyền miệng và hoạt

2


động của báo cáo viên,… Trong số các kênh trên, tuyên truyền miệng và hoạt
động của báo cáo viên được Đảng ta xác định là công cụ quan trọng hàng đầu
nhằm tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách, truyền bá những quan
điểm của Đảng, đưa tiếng nói của Đảng đến quần chúng nhân dân.
Vai trò của tuyên truyền miệng
Cùng với các công cụ, phương tiện công tác tư tưởng khác, tuyên truyền
miệng góp phần truyền bá sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp

nhân dân về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những tinh hoa
văn hoá dân tộc và nhân loại. Trên cơ sở đó hình thành thượng tầng kiến trúc xã
hội chủ nghĩa về mặt hình thái ý thức, giáo dục sự kiên định về mục tiêu lý tưởng
của Đảng.
Tuyên truyền miệng là kênh thông tin chủ yếu và chính thống nhằm giáo
dục, phổ biến, quán triệt mọi chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm
của Đảng và Nhà nước; thông báo kịp thời và có định hướng các vấn đề thời
sự quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng mà dư luận quan
tâm. Nhờ đó mà tạo ra sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng trong Đảng và
trong toàn xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ các phong trào hành động cách mạng
của quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Thông qua kênh truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên mà
một mặt, thông tin đến được với quần chúng nhân dân, mặt khác nhờ thông
tin phản hồi có thể nắm bắt được nhận thức và thái độ của nhân dân đối với
chủ trương, đường lối, chính sách, nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu,
lợi ích…. của quần chúng. Trên cơ sở thông tin phản hồi này, Đảng và Nhà
nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật sao cho chúng vừa phù hợp với qui luật khách quan, với thực
tiễn cách mạng, vừa phù hợp với lòng dân. Vì vậy, tuyên truyền miệng và đội

3


ngũ báo cáo viên đóng vai trò như là sợi dây bền chặt nối liền Đảng với quần
chúng, Nhà nước với công dân, trung ương, địa phương với cơ sở.
Tuyên truyền miệng góp phần to lớn vào việc xây dựng nền văn hoá mới
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vào việc xây dựng và phát huy nhân tố con
người, nâng cao bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên. Tuyên truyền miệng có khả năng to lớn trong việc tạo lập các

phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và nhân điển hình tiên tiến, đấu tranh
phê phán những hiện tượng tiêu cực, bài trừ các tệ nạn xã hội.
Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với cách
mạng nước ta, chống phao tin đồn nhảm, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, lệch lạc nhằm bảo vệ
nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững ổn định chính trị và
tăng cường đoàn kết xã hội.
Tuyên truyền miệng có khả năng đưa được những thông tin nội bộ,
những thông tin mà về lý do nào đó không đưa trên các phương tiện thông tin
đại chúng được. Trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay, tuyên
truyền miệng còn góp phần định hướng thông tin, giải thích, phân tích cho
quần chúng hiểu rõ đâu là thông tin chính thức, chính thống, trên cơ sở đó
định hướng dư luận xã hội, góp phần tạo ra sự thống nhất về chính trị- tư
tưởng trong xã hội.
1.1.3. Những ưu thế của tuyên truyền miệng
Ưu thế của ngôn ngữ nói
So với các phương tiện chuyển tải thông tin khác, ngôn ngữ nói có ưu
thế là nó mang tính phổ biến trong giao tiếp xã hội. Theo một số tài liệu
nghiên cứu, hiện nay 2/3 lượng thông tin mà con người thu nhận được hàng
ngày là qua giao tiếp bằng lời nói trực tiếp. Bằng công cụ lời nói, tuyên truyền

4


miệng có thể truyền đạt thông tin đến mọi đối tượng, kể cả đối tượng không
biết chữ, nhất là đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.
Lời nói có ưu thế là sử dụng linh hoạt, hiệu quả thông tin cao. Lời nói có
thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện: ở nhà, nơi làm việc, trên
giảng đường, câu lạc bộ, trong giờ giải lao hay trong cuộc họp, lúc trao đổi

toạ đàm, với một người hoặc nhiều người…Do đó, tuyên truyền miệng ít tốn
kém kinh phí, không cần nhiều đến phương tiện kỹ thuật phức tạp (ngoài thiết
bị tăng âm, loa, khi nói chuyện trong hội trường lớn, chỗ đông người).
Tuyên truyền miệng là nghệ thuật vận dụng tổng hợp ý nghĩa của từ, với
cách đặt câu, với các yếu tố cần ngôn ngữ như ngữ điệu, trường độ, cao độ, sự
ngừng giọng, các yếu tố về thanh, sắc… để tạo ra sự diễn cảm của lời nói. Nhờ
khai thác, vận dụng sức mạnh truyền cảm của lời nói - một ưu thế riêng mà không
một phương tiện thông tin tuyên truyền nào có được - tuyên truyền miệng có thể tác
động mạnh mẽ vào tình cảm của con người, khơi dậy tính tích cực nhận thức của
đối tượng, thúc đẩy quá trình hình thành niềm tin và cổ vũ hành động tự giác của
công chúng.
Ưu thế trong việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ
Trong tuyên truyền miệng, ngoài việc sử dụng phương tiện lời nói để
chuyển tải thông tin, cán bộ tuyên truyền có thể sử dụng các yếu tố phi ngôn
ngữ (có tài liệu gọi là các yếu tố của hệ thống tiếp xúc cơ học) như tư thế, cử
chỉ, điệu bộ diện mạo… làm phương tiện biểu đạt thông tin và sắc thái tình
cảm. Những yếu tố phi ngôn ngữ này tác động vào kênh thị giác của người
nghe, tăng cường sự chú ý của họ. Cùng với lời nói, kết hợp với lời nói,
chúng có tác dụng nâng cao ý nghĩa cảm xúc lượng thông tin, do vậy mà thúc
đẩy việc tiếp thu thông tin một cách tốt nhất.
Cử chỉ, điệu bộ là một trong số các yếu tố bổ sung cho lời nói, làm cho
đối tượng hiểu rõ hơn ý nghĩa, sắc thái của lời nói. Thông qua cử chỉ, điệu bộ
và ngữ điệu của lời nói mà đối tượng hiểu rõ hơn tình cảm, thái độ của người
5


tuyên truyền đối với vấn đề tuyên truyền, tạo được ấn tượng mạnh ở đối
tượng và tập trung sự chú ý của họ vào nội dung quan trọng nào đó.
Nét mặt, nụ cười, ánh mắt có thể truyền đạt hàng loạt cảm xúc: niềm vui
hay nỗi buồn, phấn khởi hay tức giận, sự kiên quyết hay nhân nhượng, sự khẳng

định hay nghi vấn… mà nhờ nó cán bộ tuyên truyền thể hiện được thái độ, tình
cảm của mình và hình thành ở người nghe thái độ, tình cảm ấy đối với vấn đề
tuyên truyền.
Có thể nói, tư thế, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt, nụ cười… nghĩa là
tất cả các yếu tố phi lời có ảnh hưởng lớn đến quá trình tuyên truyền miệng.
Chúng hỗ trợ cho lời, làm tăng ý nghĩa của lời, biểu hiện xúc cảm, sắc thái
tình cảm của người tuyên truyền với vấn đề tuyên truyền, do đó chúng góp
phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền miệng.
Ưu thế của loại hình giao tiếp trực tiếp
Khác với giao tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, sự giao
tiếp trực tiếp và sinh động của kênh tuyên truyền miệng dễ tạo cho người
nghe cảm giác gần gũi, thân mật. Giao tiếp trực tiếp cho phép cán bộ tuyên
truyền nói chuyện cởi mở, xây dựng mối quan hệ thân mật sinh động với
người nghe. Nhờ đó cán bộ tuyên truyền mang đến cho đối tượng không chỉ
nội dung của lời nói mà còn mang lại cho họ tình cảm, niềm tin của mình nữa.
Chính vì vậy, V.I.Lênin viết: “ảnh hưởng cá nhân và những lời phát biểu tại
các cuộc họp có ý nghĩa rất lớn. Không có những cái đó thì không có hoạt
động chính trị”.
Một ưu thế không kém phần quan trọng của giao tiếp trực tiếp là nói đúng
đối tượng. Nhờ nghiên cứu trước về đối tượng và nắm bắt thêm đặc điểm đối
tượng thông qua giao tiếp trực tiếp, cán bộ tuyên truyền hiểu biết rõ nhu cầu, tâm
trạng người nghe, trên cơ sở đó mà xác định nội dung phải nói là gì và nói phải
như thế nào để lời nói của mình đi vào tâm hồn người nghe nhanh hơn.
6


Giao tiếp trực tiếp tạo điều kiện cho cán bộ tuyên truyền linh hoạt vận
dụng cách nói, trong những tình huống khác nhau, sử dụng cử chỉ, điệu bộ,
điều chỉnh âm thanh phù hợp với đối tượng, với hoàn cảnh. Nếu biết thường
xuyên quan sát người nghe thì bất cứ lúc nào, cán bộ tuyên truyền cũng có thể

đánh giá được thực trạng của người nghe căn cứ vào dáng điệu bề ngoài, sự
chú ý hoặc những yếu tố khác trong hành vi của họ (tức là căn cứ vào thông
tin phản hồi). Nhờ đó mà xác định cách xử lý: thay đổi nội dung thông tin,
chuyển sang cách nói khác, sử dụng cử chỉ, điệu bộ thích hợp hoặc một biện
pháp, thủ thuật nào đó nhằm đạt tới mục đích tuyên truyền.
Cuối cùng, giao tiếp trực tiếp còn cho phép chuyển từ độc thoại sang
đối thoại. Người nghe có thể được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình;
được hỏi và được trả lời những vấn đề mà mình quan tâm nhưng chưa được
giải thích hoặc giải thích chưa thấu đáo; được trao đổi tranh luận với nhau và
với cán bộ tuyên truyền về những vấn đề còn chưa thống nhất…
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ báo cáo viên
1.2.1. Khái niệm báo cáo viên
Báo cáo viên là chức danh để chỉ đội ngũ những người tuyên truyền trực
tiếp bằng lời nói đối với các đối tượng tuyên truyền.
Chức danh của báo cáo viên đã được Đảng ta qui định trong nhiều văn
bản và Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn thực hiện. Đội ngũ báo cáo
viên được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, các ngành, các tổ chức
đoàn thể, lực lượng vũ trang, được tổ chức theo hệ thống dọc, dưới sự lãnh
đạo của cấp uỷ và sự quản lý của Ban Tuyên giáo các cấp.
Phương thức hoạt động chủ yếu của báo cáo viên là giảng bài, báo cáo
chuyên đề, giới thiệu nghị quyết, nói chuyện thời sự chính sách, kể chuyện
gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, diễn thuyết… trước một nhóm

7


người nghe trong các hội nghị, các buổi sinh hoạt Đảng, trong các câu lạc bộ,
các cuộc mít tinh, nơi tập trung đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên
Phổ biến, cung cấp thông tin, đặc biệt là những thông tin mới có giá trị,

những thông tin nội bộ về tình hình trong nước và thế giới; các vấn đề cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm đường lối,
chủ trương, chính sách lớn, các chỉ thị, nghị quyết, các văn bản quan trọng
của Đảng và Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối nội và đối ngoại…
Phân tích, bình luận thông tin là chức năng quan trọng nhất trong hoạt
động của báo cáo viên. Báo cáo viên không chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho
đối tượng một khối lượng thông tin nhất định về các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, mà quan trọng hơn là phân tích, bình luận ý nghĩa chính trị
của các thông tin ấy, làm rõ bản chất của các sự kiện, sự việc, tìm được
nguyên nhân và dự báo các chiều hướng, khả năng, triển vọng phát triển của
tình hình, thể hiện được tính định hướng xung quanh các vấn đề mà dư luận
xã hội đang quan tâm, góp phần hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn,
nâng cao trình độ giác ngộ chính trị cho quần chúng.
Động viên, cổ vũ mọi người, mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao
động sản xuất, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nâng cao chất lượng
công tác và hiệu quả sản xuất. Chức năng hiệu triệu, cổ vũ sẽ tăng lên nếu như
lời nói của báo cáo viên có sức truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng làm xúc
động lòng người, tác động sâu sắc vào tình cảm của nhân dân.

8


CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY LUẬT TÂM LÝ TÁC ĐỘNG ĐẾN
HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN
2.1. Cơ sở tâm lý trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo
viên
2.1.1. Tâm lý học tuyên truyền
Tâm lý học tuyên truyền là một môn khoa học, nghiên cứu các hiện
tượng, các quy luật, các cơ chế tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận

thông tin của đối tượng trong tuyên truyền.
Như vậy, vận dụng tâm lý học vào hoạt động tuyên truyền miệng đòi hỏi
người báo cáo viên không những phải nắm chắc nội dung, mà còn phải có khả
năng dự đoán được những phản ứng của đối tượng, nhằm mục đích để nội
dung tuyên truyền được chấp nhận một cách nhanh nhất; thúc đẩy hành động
của đối tượng một cách tích cực nhất. Để đạt được yêu cầu đó người báo cáo
viên ngoài việc nắm bắt nhu cầu thông tin của đối tượng, còn phải biết tác
động đến đối tượng trong không gian, thời gian thích hợp, biết phân tích sự
xuất hiện của các yếu tố, các quy luật tâm lý, khai thác và vận dụng để làm
cho sự hứng thú, niềm quan tâm của đối tượng xích gần lại với chủ thể tuyên
truyền, tiến tới xóa bỏ khoảng cách giữa người báo cáo viên và đối tượng
tuyên truyền.
2.1.2. Tâm thế và tính tích cực của hoạt động tuyên truyền
Theo thuyết tâm thế, ý thức và hành động của con người được quyết
định bởi nhu cầu và môi trường xung quanh. Trong quá trình sống, con người
có rất nhiều nhu cầu, để tồn tại và phát triển những nhu cầu đó phải được thoả
mãn. Con người có thể thoả mãn nó trong môi trường sống xung quanh hoặc
trong điều kiện mà nhu cầu xuất hiện. Trong trường hợp những thiếu hụt được
bù đắp, khi đó ở con người hình thành một trạng thái tâm lý gọi là tâm thế

9


hành động. Theo Udnatde, tâm thế là một trạng thái tâm lý tương đối toàn
vẹn, là tâm trạng của con người trong một hành động nào đó.
Tâm thế trong tuyên truyền là một trạng thái tâm lý hoàn chỉnh, thể hiện
sự chuẩn bị về thể lực và trí lực để tham gia vào hoạt động tuyên truyền,
nhằm đem lại hiệu quả cao cho hoạt động đó.
Trong tuyên truyền miệng, tâm thế gắn liền với tính tích cực, chủ động
trong hoạt động của con người. Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao, trong tuyên

truyền miệng rất cần đến việc chuẩn bị tâm thế cho đối tượng tuyền truyền,
hướng sự quan tâm cao nhất của đối tương tuyên truyền vào những vấn đề mà
nhiệm vụ tuyên truyền đang đặt ra.
Những điều kiện chủ quan và khách quan tạo ra tâm thế trong tuyên truyền
miệng:
Yếu tố đầu tiên tạo ra tâm thế là nhu cầu thông tin của đối tượng tuyên
truyền. Tùy từng thời điểm khác nhau, từng đối tượng khác nhau, mà những
nhu cầu đó có ý nghĩa khác nhau trong quá trình tác động đến tư tưởng của
con người. Vì vậy, người tuyên truyền phải tìm hiểu, nắm bắt được nhu cầu
thông tin của đối tượng để có phương thức và nội dung tuyên truyền phù hợp.
Sự hiểu biết của đối tượng tuyên truyền. Trên cơ sở sự hiểu biết của mỗi
con người khác nhau, mà tạo ra tâm thế khác nhau khi tiếp thu nội dung tuyên
truyền cũng như trong qua trình hoạt động.
Môi trường khách quan là một yếu tố quan trọng tạo ra tâm thế. Trong
tuyên truyền miệng, cần chú ý chuẩn bị tốt cho đối tượng cả môi trường vật lý
(địa điểm, trang thiết bị, hoàn cảnh không gian và thời gian...) và môi trường
tâm lý (sự chuẩn bị trước cho đối tượng và nội dung tuyên truyền). Khi nói
đến môi trường tâm lý, cần chú ý đến sự tác động lẫn nhau của các cá nhân
trong mối quan hệ liên nhân cách giữa các đối tượng tuyên truyền; đó là hiện

10


tượng lây lan tâm lý trong quá trình tiếp thu nội dung, ảnh hưởng của vai trò
“thủ lĩnh” trong các nhóm đối tượng tuyền truyền...
2.2. Các quy luật tâm lý tác động đến hoạt động tuyên truyền miệng
của đội ngũ báo cáo viên
2.2.1. Quy luật biến đổi đồng hóa và tương phản của ý thức
Trước khi thực hiện tuyên truyền, bất cứ người tuyên truyền nào cũng
nhận thấy giữa mình và đối tượng có khoảng cách nhất định về quan điểm,

lập trường đối với vấn đề tuyên truyền. Sự hiểu biết thái độ, quan điểm của
đối tượng đối với vấn đề tuyên truyền có ý nghĩa rất lớn đối với người tuyên
truyền, nó quyết định việc lựa chọn phương thức tác động đến những đối
tượng có thái độ không giống nhau. Do vậy cùng chịu tác động của tuyên
truyền nhưng hiệu quả thu được ở mỗi đối tượng lại khác nhau.
Thực tế của hoạt động tuyên truyền cũng cho thấy ở những người có
quan điểm đối lập, sau tuyên truyền họ cảm thấy quan điểm tuyên truyền lại
đối lập hơn. Các nhà tâm lý học gọi đó là hoạt động của quy luật tương phản
của ý thức. Trong tình huống trên, người tuyên truyền càng cố gắng giải thích,
chứng minh bao nhiêu thì sự đối lập vốn không có thật ngày thêm gay gắt.
Các nhà tâm lý học gọi hiện tượng tên là hiện tượng phản “ảo ảnh”.
Với quan điểm tuyên truyền gần với quan điểm của đối tượng làm cho
đối tượng cảm thấy quan điểm tuyên truyền trùng với quan điểm riêng của họ,
dẫn tới sự chấp nhận, đồng tình với quan điểm tuyên truyền và xem đó như là
quan điểm của chính mình. Hiện tượng trên được các nhà tâm lý học gọi là
hiện tượng đồng hoá ý thức trong tuyên truyền.
Tóm lại, ở những đối tượng có lập trường, quan điểm khác nhau sẽ
không khách quan khi đánh giá cùng một nguồn tin. Sự không khách quan đó
không phải là sự tuỳ tiện ở đối tượng mà nó tuân theo quy luật đồng hoá và

11


tương phản của ý thức. Sử dụng hợp lý những quy luật này sẽ giúp cho người
tuyên truyền tránh được những căng thẳng gay gắt của đối tượng đồng thời
tìm được những hình thức tác động phù hợp để họ tự mở “cánh cửa tâm lý”
tiếp nhận tác động của tuyên truyền.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu ứng dụng hoạt động của các quy luật trên cần
chú ý những điểm sau:
Sự đánh giá khác nhau của đối tượng đối với quan điểm tuyên truyền

không chỉ do “khoảng cách” có sẵn mà còn lệ thuộc vào mức độ am hiểu và tính
hệ thống trong quan điểm của đối tượng. Với đối tượng có sự hiểu biết sâu sắc,
quan điểm vững vàng thì hoạt động của quy luật đồng hoá ý thức bị thu hẹp
đồng thời hoạt động của quy luật tương phản sẽ mở rộng và ngược lại.
Việc khai thác và sử dụng các quy luật trên cho phép người tuyên truyền
có thể lường trước các tình huống, hoặc những thất bại trong tuyên truyền.
Chẳng hạn trong tình huống đối lập có lập trường cực đoan đối với quan điểm
tuyên truyền, để giảm bớt căng thẳng, nội dung tuyên truyền cần được trình
bày nâng dần từ thấp đến cao, cần khai thác triệt để những chi tiết, những
điểm gần với quan điểm của đối tượng để vấn đề nêu lên không quá khác biệt,
đưa đối tượng đi đến chấp nhận từng bước quan điểm tuyên truyền.
2.2.2. Quy luật điều tiết và loại bỏ tâm thế
Ý thức và tâm thế là hai điều kiện ở các mức độ khác nhau của hành
động con người. Nghiên cứu các hoạt động của quy luật tương phản của ý
thức cho phép ta đánh giá được ý thức của đối tượng. Kết quả nghiên cứu lý
thuyết cũng như thực tiễn của hoạt động tuyên truyền cho nhận xét: những
thông tin, những cảm xúc được con người thu nhận có ảnh hưởng không nhỏ
đến hành vi của họ. Vấn đề đặt ra là có phải sự biến đổi nào trong ý thức của
con người cũng dẫn đến sự biến đổi tâm thế? Có quan điểm cho rằng trong

12


tuyên truyền, trên có sở những thay đổi của ý thức (đồng hoá hoặc tương
phản) thì tự nó, tâm thế sẽ thay đổi phù hợp với tình huống đang tác động.
Kết quả các thực nghiệm đã chứng minh khi con người đánh giá đồng hoá các
quan điểm không phải khi nào cũng kéo theo sự thay đổi tâm thế. Tương tự
như vậy, khi ở con người có đánh giá tương phản không phải khi nào cũng
xuất hiện tâm thế tương ứng. Như vậy, với những tâm thế đã định hình, khi
đánh giá những quan điểm khác nhau trong những điều kiện đặc biệt thì tâm

thế của con người sẽ thay đổi.
Trong mối quan hệ qua lại giữa người tuyên truyền và đối tượng cần chú
ý đến sự tồn tại của những tâm thế xã hội. Những tâm thế này chịu sự chi phối
của các quy luật tâm lý, có thể tóm tắt như sau:
Những quan điểm tuyên truyền có nội dung gần với quan điểm của đối
tượng sẽ xuất hiện sự hoạt động của quy luật đồng hoá ý thức dẫn đến hai loại
tâm thế như sau:
Sự quan tâm của đối tượng tập trung vào những khía cạnh chung, những
luận điểm cơ bản mà không nhận thấy sự khác nhau giữa quan điểm của mình
với quan điểm tuyên truyền. Kết quả là việc mở các tâm thế, tăng cường khả
năng thích ứng của đối tượng.
Cùng với sự đồng hoá tương đối của ý thức là sự điều tiết tâm thế ở đối
tượng. Đó chính là sự thích ứng, sự xích lại gần giữa tâm thế của đối tượng
với quan điểm tuyên truyền. Trong trường hợp này, dù có sự thay đổi về tâm
thế nhưng đối tượng vẫn nhận thấy có sự khác biệt giữa quan điểm riêng với
quan điểm tuyên truyền.
Khi có sự đối lập hoặc khác với quan điểm tuyên truyền thì đối tượng
cảm thấy quan điểm tuyên truyền là không thể chấp nhận. Cảm xúc trên dẫn
tới sự thay đổi tâm thế như sau:

13


Khi có sự đánh giá tương phản quan điểm tuyên truyền, nếu đối tượng
không có sự hỗ trợ từ các điều kiện bên trong và bên ngoài thì đối tượng chỉ
có thể thoát ra khỏi tình trạng mâu thuẫn trên bằng cách chấp nhận loại bỏ
tâm thế cũ đồng thời xích lại gần quan điểm tuyên truyền.
Khi có sự mẫu thuẫn với quan điểm tuyên truyền, nếu đối tượng tìm
được sự “hỗ trợ xã hội” thì sự phản bác lại quan điểm tuyên truyền ngày càng
mạnh hơn, kết quả là hình thành thái độ ngày càng thù nghịch hơn đối với

quan điểm tuyên truyền.
Sự đánh giá tương phản quan điểm tuyên truyền còn do tác động từ nhân
cách của người tuyên truyền. Sự đánh giá không thiện cảm về người tuyên
truyền sẽ dẫn tới sự loại bỏ hoàn toàn quan điểm tuyên truyền.
Ngoài sự hoạt động của các quy luật về ý thức và tâm thế, trong tuyên
truyền bằng phương pháp thực nghiệm và tổng kết, các nhà tâm lý học cũng
rút ra một số quy luật tâm lý trong việc sử dụng “kết luận”, tính trình tự và
nhân tố cái mới, các phương pháp trình bày trong tuyên truyền… có ảnh
hưởng đến sự hình thành và thay đổi quan niệm và tâm thế của đối tượng.

14


CHƯƠNG 3. VẬN DỤNG CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
ơ

3.1. Các quá trình tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên
Trong mối quan hệ tổng hợp với nhau, các quá trình cảm giác, tri giác,
ghi nhớ, tư duy, tưởng tượng, xúc cảm, mong muốn sự chú ý quan tâm... ảnh
hưởng đến nhận thức của con người về các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong
đời sống. Trong tuyên truyền miệng, các quá trình đó kích thích người nghe
hướng tới việc tiếp thu nội dung tuyên truyền, hoặc ngược lại có thể làm giảm
tính tích cực của chủ thể nhận thức.
Các hiện tượng của trạng thái tâm lý người nghe: sảng khoái hay buồn
rầu; hăng hái làm việc hay mệt mỏi muốn nghỉ ngơi; tập trung tư tưởng hay lơ
đãng, thờ ơ. Đối với mỗi cá nhân, các phẩm chất tâm lý của họ như: khí chất,
tính nguyên tắc, năng lực làm việc, phong cách và tính bền vững của mục
đích sống... cũng ảnh hưởng đến kết quả tuyên truyền.

Tri thức tâm lý của con người. Người báo cáo viên và cả đối tượng tuyên
truyền thường có những thói quen, mức độ thành thạo chuyên môn, hiểu biết
về quy luật tâm lý khác nhau. Nhiệm vụ của người báo cáo viên là phải hiểu
đối tượng, phái có tri thức tâm lý để điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với nội dung và đối tượng tuyên truyền. Sự hiểu biết tâm lý giúp người
tuyên truyền hình thành chính xác hơn nhiệm vụ tuyên truyền, đồng thời biết
kích thích sự quan tâm chú ý và tư duy tích cực của đối tượng tuyên truyền.
Các yếu tố như dư luận xã hội, tâm trạng nhóm, cộng đồng; truyền thống
địa phương; mối quan hệ vốn có giữa các đối tượng tuyên truyền với nhau,
giữa người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền, nhu cầu tập thể... đều ảnh
hưởng đến các quá trình tâm lý trong tuyên truyền miệng.
15


3.2. Các nhiệm vụ tâm lý đặt ra đối với người báo cáo viên nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền miệng
Trong hoạt động tuyên truyền miệng, để nội dung tuyên truyền có tác
dụng sâu sắc đến đối tượng tuyên truyền, người báo cáo viên cần giải quyết
tốt các nhiệm vụ về tâm lý sau:
Thiết lập sự giao lưu tâm lý với công chúng, nhằm tạo ra mối truyền
cảm trong liên hệ giữa người báo cáo viên tuyên với đối tượng tuyên truyền.
Đó là sự tin cậy lẫn nhau, cùng quan tâm tới những vấn đề sẽ đề cập. Chính
sự thiết lập giao lưu tâm lý đó, sẽ đem đến cho người báo cáo viên sự ủng hộ
cả về tình cảm, tư duy trong hoạt động tuyên truyền. Đặc biệt, thiết lập giao
lưu tâm lý với công chúng bằng cách trao đổi ánh mắt có ý nghĩa rất quan
trọng, bởi thông thường có nhìn mới có thể làm quen với đồng đảo công
chúng trước mắt mình, coi đó là cuộc “bắt mạch” đầu tiên. Chỉ có cách nhìn
người nghe, mới đánh giá được sức nghe và hiểu của đối tượng tuyên truyền.
Tổng hợp nắm chắc các đặc điểm tâm lý ở đối tượng tuyên truyền. Đây
là việc làm cơ bản, tạo cơ sở cho người tuyên truyền nắm được tâm lý đối

tượng. Khi người báo cáo viên nói trước công chúng, đó là một tập thể có
trình độ, đặc điểm tâm lý khác nhau. Để tổng hợp được đặc điểm tâm lý của
từng đối tượng, đòi hỏi người báo cáo viên phải biết vận dụng phương pháp
“phân tích cụ thể tình hình cụ thể”, để nắm các mặt chủ yếu của đối tượng
tuyên truyền như: thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tuổi tác,
vốn sống, giới tính, dân tộc... Đây là những mặt quy định trạng thái tâm lý và
khả năng nhận thức của đối tượng. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các đặc
điểm tâm lý của đối tượng để người báo cáo viên lựa chọn những gì phù hợp
nhất, thỏa mãn các nhu cầu của người nghe. C.Mác và V.I.Lênin đều nhắc
nhở người tuyên truyền rằng: khi phát biểu trước công chúng phải luôn luôn
hướng tới họ, cố gắng tìm hiểu xem họ đang lo lắng, băn khăn điều gì? Cái gì
họ chưa hiểu và cuối cùng là để trình bày các vấn đề đó kỹ hơn. Bác Hồ cũng

16


quan niệm: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân
theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”.
Hình thành và kích thích nhu cầu nhận thức ở đối tượng tuyên truyền.
Nếu đối tượng có nhu cầu thông tin về vấn đề nào đó thì họ sẽ chuẩn bị tâm
thế để tiếp thu thông tin về vấn đề ấy. Xét cho cùng, tính hiệu quả của tuyên
truyền miệng là ở chỗ người báo cáo viên có kích thích và hình thành được
nhu cầu nhận thức của đối tượng tuyên truyền hay không (nhu cầu bao gồm
lợi ích của vấn đề tuyền truyền đem đến, có thể là những lợi ích trực tiếp, có
thể là những giá trị mới của nhân cách cần phải hướng tới...).
Để hình thành và phát triển nhu cầu nhận thức của đối tượng tuyên truyền,
người báo cáo viên cần nắm được nhu cầu nhận thức và sự quan tâm tới lợi ích
có tính phổ biến của mọi người để ít nhất đáp ứng những nhu cầu chung đó;
đồng thời người báo cáo viên phải nắm chắc ý nghĩa của nội dung tuyên truyền
đối với lợi ích và sự quan tâm của người nghe, hướng họ nhận thức rõ tính thiết

thực của vấn đề trong quá trình tiếp thu nội dung. Điều quan trọng trong các buổi
thuyết trình là người báo cáo viên cần đặt ra yêu cầu đem đến cho người nghe
những nội dung thông tin mới, cách tiếp cận, xem xét vấn đề mới. Nội dung
tuyên truyền không đem đến cái mới thì sẽ không thu hút được công chúng,
không có tác dụng kích thích sự quan tâm, chú ý của đối tượng tuyên truyền.
Cảm xúc của người báo cáo viên đối với vấn đề truyền đạt có ảnh hưởng
trực tiếp tới tình cảm và tư duy của đối tượng tuyên truyền. Thông thường,
nếu tâm trạng của người báo cáo viên là tích cực, thì tuyên truyền sẽ đạt hiệu
quả cao. Nếu tâm trạng người báo cáo viên là tiêu cực, thì sẽ hạn chế kết quả
tuyên truyền. “...Cần phải tự mình bốc cháy, nếu muốn lôi cuốn chinh phục
quần chúng. Còn nếu bước vào hội trường mà tự nhà tuyên truyền thấy buồn
ngủ, thì công chúng sẽ ủng hộ thái độ đó ngay”. V.I.Lênin đã từng nói:
“Thiếu cảm xúc, con người không có sự tìm kiếm chân lý”.

17


Cùng với những hình thức và phương pháp tuyên truyền truyền thống,
người báo cáo viên cần linh hoạt vận dụng các hình thức, phương pháp mang
tính sáng tạo, phù hợp với điều kiện dân chủ hóa trong đời sống xã hội. Trong
điều kiện bùng nổ thông tin và phương tiện tuyên truyền rất phong phú hiện
nay, cho phép người báo cáo viên tìm tòi, thử nghiệm nhiều hình thức,
phương pháp, phương tiện tốt hơn. Thay đổi, sử dụng linh hoạt các phương
pháp, hình thức tuyên truyền sẽ có tác dụng kích thích, tạo ra sự chú ý đối
với người nghe.
Để phát triển ở đối tượng tuyên truyền nhu cầu nhận thức tích cực và
chủ động, đòi hỏi người báo cáo viên phải tự rèn luyện, trang bị cho mình
những phẩm chất như: tính lý luận cao, tính nguyên tắc, tính thuyết phục của
tư tưởng, sự thống nhất lời nói với việc làm, sự tôn trọng và đòi hỏi với bản
thân và với người nghe. Chính những phẩm chất trên sẽ tạo nên uy tín của

người báo cáo viên trước đối tượng, nhằm tạo ảnh hưởng của người báo cáo
viên đối với đối tượng tuyên truyền.
Ảnh hưởng của sự chú ý của đối tượng tuyên truyền. Sự chú ý của đối
tượng tuyên truyền ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thông tin tuyên truyền:
Sự chú ý được biểu hiện ở các cấp độ sau: có thể duy trì ở mức độ ổn định về
thời gian, nếu có giao động, thì sự giao động là không đáng kể; sự chú ý có
thể chỉ có ở một bộ phận (rất ít trường hợp tất cả đều chú ý, hoặc tất cả đều
không chú ý, phân tán); sự chú ý thường phân bổ không đều và có sự chuyển
hướng, có sự thay đổi, sự chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác.
Để duy trì dự chú ý của đối tượng tuyên truyền ở mức độ đảm bảo nhận
thức được bản chất vấn đề, báo cáo viên cần quan tâm và chủ động vận dụng
các phương pháp sau: sử dụng các phương tiện trực quan như: biểu đồ, sơ đồ,
ảnh tranh và phim đèn chiếu, băng hình video; hình thành khéo léo các câu
hỏi nêu vấn đề, tạo không khí cùng có trách nhiệm suy nghĩ, làm sáng tỏ vấn
đề đó; đưa vào buổi thuyết trình những mẩu chuyện thực tế sinh động, những

18


câu ngạn ngữ, thành ngữ, chuyện vui...; ngôn ngữ của người báo cáo viên
phải trong sáng, dễ hiểu, dí dỏm, đa dạng về nhịp điệu, ngữ điệu. Tránh đều
đều, đơn điệu, cứng nhắc làm cho đối tượng buồn ngủ. Khi nói trước công
chúng, phải tùy ngành nghề của họ mà sử dụng các tập hợp từ chuyên môn và
lời nói của họ để diễn đạt nội dung tuyên truyền; động viên khéo léo, biểu
dương những người, những bộ phận đang thể hiện sự chú ý, cùng suy nghĩ về
chủ đề đang nói, góp phần làm cho chất lượng buổi nói tốt hơn. Phải chuyển
hóa kịp thời sự chú ý từ ít đến nhiều, từ không ổn định đến ổn định.

19



KẾT LUẬN
Công tác tuyên truyền miệng là một bộ phận của công tác tư tưởng của
Đảng, có vai trò to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Với ưu thế sử dụng
ngôn ngữ nói, có sự giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền và đối tượng
tuyên truyền nên tuyên truyền miệng có thể tiến hành trong mọi hoàn cảnh,
không phụ thuộc nhiều vào không gian, thời gian, phương tiện kỹ thuật, thời tiết,
ngày và đêm mà các hình thức khác của công tác tư tưởng không có được.
Vì vậy, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng là
yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn mới của cách mạng, phải được tiến hành chặt chẽ, thực hiện nghiêm
những nguyên tắc của công tác tư tưởng. Để tăng cường và nâng cao chất
lượng, hiệu quả tuyên truyền miệng cần thiết phải đổi mới hoạt động của hệ
thống báo cáo viên, theo hướng đổi mới cả về nội dung và hình thức, tổ chức
và phương pháp, con người và phương tiện.
Đặc biệt là nâng cao vốn hiểu biết và sự vận dụng khoa học về tâm lý
trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên có vai trò hết
sức quan trọng. Người báo cáo viên chẳng những phải chuẩn bị những vấn đề
tâm lý cho mình để tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của đối tượng
tuyên truyền, mà còn phải chuẩn bị tốt tâm thế cho đối tượng, để đối tượng
sẵn sàng đón nhận, tiếp thu và hành động sau khi dã ý thức được mục đích,
nhiệm vụ tuyên truyền. Nhờ biết vận dụng kiến thức tâm lý mà người báo cáo
viên có thể tìm ra được con đường nhanh nhất, có hiệu quả nhất để tác động
vào đối tượng tuyên truyền, nâng cao hiệu quả tuyên truyền. V.I. Lênin đòi
hỏi người tuyên truyền cần phải nghiên cứu đặc điểm tâm lý của các tầng lớp
nhân dân trong qua trình tuyên truyền; Người khuyên: “Cần phải thâm nhập
vào quần chúng và học hỏi ở họ một cách kiên trì, bền bỉ thì mới hiểu được
các thuộc tính, đặc trưng tâm lý đa dạng ở mỗi tầng lớp, mỗi nghề của họ”.
Có thể khẳng định sự hiểu biết và ứng dụng các quy luật tâm lý là điều kiện
cần thiết để mỗi người báo cáo viên gặt hái được những thành công, góp phần

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008): Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác tuyên truyền miệng và báo cáo viên, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977): Chỉ thị số 14-CT/TW Về việc tổ
chức đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên của Đảng.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997): Thông báo 71-TB/TW “Về việc tăng
cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên truyền miệng”.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007): Chỉ thị số 17-CT/TW “Về tiếp tục
đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong
tình hình mới”.
5. TS. Hà Thị Bình Hòa chủ biên (2012), Tâm lý học trong công tác tư
tưởng, Hà Nội.
6. PGS-TS Lương Khắc Hiếu chủ biên (2008), Nguyên lý Công tác tư
tưởng Tập 1, 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

21


MỤC LỤC

22




×