Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng việt cho trẻ em 5 6 tuổi dân tộc ê đê qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI DÂN TỘC Ê ĐÊ QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ

MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH Ở TRƯỜNG MẦM NON

Người hướng dẫn:

TS: Đinh Văn Vang

Học viên:

Chương H' Viên Niê

Chuyên ngành:

Giáo dục Mầm non

Mã số chuyên ngành: 60140101

MỞ ĐẦU

Hà Nội, tháng
năm 2017
MỞ6 ĐẦU
1


1. Lí do chọn đề tài


Giai đoạn từ 0 - 6 tuổi là giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
cả đời người, là giai đoạn quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách
toàn diện của trẻ. Tâm lí học Mácxít chỉ ra rằng, cuộc sống của con người là một
chuỗi các hoạt động đan xen và kế tiếp nhau. Thông qua hoạt động và giao tiếp,
con người tiếp thu, lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, phát triển nhân cách. Vì vậy,
muốn tồn tại và phát triển, con người phải tham gia vào hoạt động đa dạng trong
thực tiễn cuộc sống.
Trẻ em được xem là nhân vật trung tâm trong các hoạt động học ở trường
mầm non. Quan hệ giữa giáo viên và trẻ em là quan hệ hợp tác, chia sẻ cùng
học, cùng chơi, cùng khám phá. Cô tạo cơ hội, tạo điều kiện khích lệ trẻ tích
cực, chủ động khám phá, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ đặt ra và chỉ giúp đỡ trẻ
khi thật cần thiết (hướng dẫn hành động, thao tác ban đầu hoặc khi trẻ còn lúng
túng, vướng mắc...), nhờ vậy mà trẻ tích cực, độc lập, chủ động, tự tin và sáng
tạo hơn trong quá trình hoạt động.
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình,
nhưng tiếng Việt (ngôn ngữ của dân tộc Kinh) là ngôn ngữ phổ thông - ngôn
ngữ chính dùng để giao tiếp xã hội. Khi vào trường phổ thông, trẻ em phải sử
dụng tiếng Việt để học tập và sinh hoạt. Vì vậy muốn học tập có kết quả ở
trường phổ thông, các em cần phải có vốn từ tiếng Việt phong phú, kĩ năng giao
tiếp tiếng Việt vững vàng. Tiếng Việt ngoài chức năng là công cụ học tập và
sinh hoạt ở trường phổ thông nó còn hỗ trợ đắc lực cho học sinh trong việc
chiếm lĩnh những tri thức trong cuộc sống, thiết lập các mối quan hệ xã hội. Do
vậy, trẻ em các dân tộc thiểu số, ngoài thành thạo tiếng mẹ đẻ, các em cần phải
biết tiếng Việt và biết giao tiếp tiếng Việt. Những kiến thức sơ đẳng về tự nhiên,
xã hội và cuộc sống xung quanh, ngay từ khi học ở trường mầm non trẻ em dân
tộc thiểu số cần phải được học tiếng Việt và rèn kĩ năng giao tiếp tiếng Việt
thông qua nhiều hoạt động trong đó hoạt động khám phá MTXQ. Khám phá
MTXQ là một hoạt động có nhiều lợi thế trong việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
2



và kĩ năng giao tiếp. Khi khám phá MTXQ, dưới sự tổ chức - hướng dẫn của cô,
trẻ cùng nhau tìm hiểu, trao đổi với nhau về đối tượng khám phá, do vậy không
chỉ giúp trẻ có những hiểu biết nhất định về MTXQ mà vốn từ, kĩ năng giao tiếp
của trẻ cũng được phát triển.
Trong thực tế ở các vùng dân tộc thiểu số nước ta, trình độ tiếng Việt của
trẻ nhiều hạn chế. Điều này thể hiện rất rõ ở vốn từ tiếng Việt và kĩ năng giao
tiếp tiếng Việt của trẻ em dân tộc thiểu số: vốn từ tiếng Việt nghèo nàn, phát âm
còn ngọng, chưa có kĩ năng giao tiếp tiếng Việt... Nguyên nhân của sự hạn chế
này có thể là do trẻ không được thường xuyên giao tiếp tiếng Việt và người lớn
chưa thực sự quan tâm đến vấn đề giao tiếp tiếng Việt của trẻ. Đây là rào cản lớn
trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức cũng như sự tự tin, mạnh dạn trong sinh hoạt
của trẻ. Như chúng ta đã biết, Đăk Lăk là một trong những tỉnh miền núi có 16
dân tộc anh em cùng sinh sống. Sau dân tộc Kinh, dân tộc Ê-đê là dân tộc có
nhiều người cư trú ở Đăk Lăk, ngay trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột cũng
có bốn buôn làng là người dân tộc Ê-đê. Năm học 2016 - 2017, thành phố Buôn
Ma Thuột có khoảng 46 trường mẫu giáo. Trong đó tỉ lệ trẻ 5 - 6 tuổi người dân
tộc Ê-đê chiếm khoảng 10%. Phần lớn trẻ đều gặp khó khăn trong việc giao tiếp
tiếng Việt. Do vậy việc dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Ê-đê nói
tiếng Việt, giao tiếp tiếng Việt là rất cần thiết, giúp các em tự tin bước vào
trường phổ thông.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn thực hiện đề tài: Phát triển kĩ năng giao
tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở
trường mầm non. Hi vọng kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần làm phong phú thêm
cơ sở lí luận và thực tiễn về việc phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ em
dân tộc thiểu số nói chung, trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc E-đê nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và đánh giá thực trạng kĩ năng giao tiếp tiếng
Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê ở trường mầm non tại thành phố Buôn Ma
Thuột - tỉnh Đăk Lăk, đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá

3


MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Êđê ở trường mầm non, góp phần chuẩn bị cho trẻ vào Lớp 1.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức hoạt động khám phá MTXQ cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Êđê ở trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ
nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê ở
trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non là một phương tiện cơ bản để
phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. Nếu xây dựng
được những biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ theo hướng tạo cơ hội
cho trẻ được sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với cô và với bạn trong quá trình khám
phá MTXQ thì kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê sẽ được
phát triển.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng
Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường
mầm non.
5.2. Khảo sát thực trạng biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của
trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê trong hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non.
5.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm
phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê.
5.4. Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định hiệu quả và tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu

4


Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
những biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non nhằm
phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê.
6.2. Giới hạn về chọn mẫu nghiên cứu
- Mẫu khảo sát thực trạng: Khảo sát 30 giáo viên mầm non và 100 trẻ 5 - 6
tuổi dân tộc Ê-đê (50 trẻ em trai, 50 trẻ em gái).
- Mẫu thực nghiệm: 4 giáo viên mầm non và 40 trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê.
6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành ở 3 trường mầm non Tân Lập, Tân Lợi, Ea Tu thành phố Buôn Ma Thuột – Đắk Lắk.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu, phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá các vấn đề lí luận có liên
quan nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát:
Quan sát những biểu hiện kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân
tộc Ê-đê trong hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non và việc giáo viên
sử dụng biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng
giao tiếp tiếng Việt cho trẻ.
- Phương pháp đàm thoại:
+ Trò chuyện, trao đổi với giáo viên, cán bộ quản lí chuyên môn, để tìm hiểu
các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
+ Trò chuyện trực tiếp với trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê để tìm hiểu về đặc
điểm giao tiếp; hứng thú, tính tích cực giao tiếp và kĩ năng giao tiếp tiếng Việt
của trẻ; những khó khăn trong quá trình giao tiếp tiếng Việt của trẻ.
- Phương pháp điều tra viết:
Điều tra bằng phiếu Ankét các giáo viên mầm non dạy các lớp mẫu giáo 5

- 6 tuổi dân tộc Ê-đê về nhận thức của họ về sự cần thiết phải phát triển kĩ năng
5


giao tiếp tiếng Việt cho trẻ và thực trạng sử dụng biện pháp tổ chức hoạt động
khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi
dân tộc Ê-đê của giáo viên.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu các sản
phẩm hoạt động của cô và trẻ ở trường mầm non. (Kế hoạch tổ chức hoạt động
khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi
dân tộc Ê-đê của giáo viên và mức kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ)
- Phương pháp chuyên gia:
Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực tâm lí học, giáo
dục học, dân tộc học và một số giáo viên có kinh nghiệm đang trực tiếp dạy các
lớp có trẻ Ê-đê tại một số trường mầm non về những biện pháp tổ chức hoạt
động khám phá MTXQ nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi dân
tộc Ê-đê.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Khái quát hóa lí luận từ các văn bản
tổng kết thực tiễn về các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Tổ chức thực nghiệm các biện pháp đã xây dựng trên trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc
Ê-đê nhằm đánh giá hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất trong
đề tài nghiên cứu.
7. 3. Phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng một số công thức toán học thống kê (công thức tính tỉ lệ %, tính
điểm trung bình cộng, xác định độ lệch chuẩn, kiểm định giá trị kết quả thống
kê,… ) để lượng hoá kết quả nghiên cứu thực tiễn của đề tài.
8. Đóng góp mới của đề tài
8.1. Về lí luận
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận về vấn đề phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng

Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường
mầm non và làm phong phú cơ sở lí luận về giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê.

6


- Xác định được những tác động của giáo viên trong quá trình tổ chức hoạt
động khám phá MTXQ cho trẻ ở trường mầm non đến việc phát triển kĩ năng
giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê.
- Xây dựng được một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở
trường mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân
tộc Ê-đê.
8.2. Về thực tiễn
- Trên cơ sở điều tra, khảo sát thực tiễn, luận văn đã đánh giá một cách toàn
diện, khách quan về thực trạng kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân
tộc Ê-đê, tìm ra những khó khăn khi trẻ giao tiếp tiếng Việt và các biện pháp
giáo viên sử dụng để phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân
tộc Ê-đê khi tổ chức cho trẻ khám phá MTXQ ở trường mầm non.
- Những biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt được đề xuất và
kiểm chứng qua thực nghiệm sư phạm có giá trị trong việc phát triển kĩ năng
giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Ê-đê. Đây có thể là tài liệu tham
khảo hữu ích cho giáo viên, phụ huynh dân tộc thiểu số trong việc phát triển kĩ
năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ em lứa tuối mầm non.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6
tuổi dân tộc Ê-đê qua hoạt động khám phá MTXQ ở trường mầm non
Chương 2: Thực trạng biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở
trường mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi
dân tộc Ê-đê

Chương 3: Một số biện pháp tổ chức hoạt động khám phá MTXQ ở trường
mầm non nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc
Ê-đê và thực nghiệm
- Danh mục tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.
7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI DÂN TỘC Ê - ĐÊ QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ
MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH Ở TRƯỜNG MẦM NON

1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giao tiếp là một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người, nó là điều kiện tất
yếu không thể thiếu trong cuộc sống, không có giao tiếp thì xã hội loài người
không thể tồn tại với đúng nghĩa của nó. Chính vì vậy mà vấn đề giao tiếp đã thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
1.1.1. Những nghiên cứu về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp

8


Từ trước đến nay đề tài về giao tiếp luôn là đề tài hấp dẫn lôi cuốn nhiều nhà
nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực khác nhau
như: tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, triết học.v.v…
1.1.1.1. Trên thế giới
Từ thời cổ Hy Lạp, vấn đề giao tiếp được con người chú ý nghiên cứu
như Xôcrat (470 - 399 TCN) và Platon (428 – 347 TCN) đã nói: “Đối thoại
như là sự giao tiếp trí tuệ phản ánh mối quan hệ giữa con người với con

người”.[29; tr7]
Tuy nhiên, trước thế kỉ XIX giao tiếp chưa được nghiên cứu như một môn
chuyên ngành tâm lí học.
Từ thế kỉ XIX, giao tiếp đã được đánh giá có tầm quan trọng đặc biệt trong sự
hình thành và phát triển bản chất xã hội con người. Với các công trình:
“Vấn đề giao tiếp, những đặc trưng của nó trong công việc của con người”
của A.A.Bodalivo (1972)
“Tâm lí học giao tiếp” của A.A.Lêonchiev (1974)
“Giao tiếp là vấn đề của tâm lí học đại cương” (1978) của A.Ph.Lomov,
Ở giai đoạn này, vấn đề giao tiếp được nghiên cứu và phân tích khá chi tiết
dưới góc độ tâm lí học đại cương của A.Ph.Lomov trong chuyên thảo “Vấn đề
giao tiếp trong tâm lí học” (1981). Và tiếp sau đó có hàng loạt những công trình
nghiên cứu khác về giao tiếp.
Và các công trình nghiên cứu đó chủ yếu đi theo hai hướng chủ đạo sau:
+ Hướng thứ nhất: Nhấn mạnh các khía cạnh thông tin trong giao tiếp:
Đại diện cho các hướng này là các nhà khoa học, các nhà tâm lí:
M.A.Acgain, K.K.Platonov, I.A.L.Kolominxki, L.P.Bueva, Laswell (1948),
G.Thines(1975), V.N.Panpherov, N.Wiener (1971), G.Perdonici (1963)...
Chẳng hạn như: K.K.Platonov và G.G.Golubev đã liệt giao tiếp vào một
trong những “loại hình hoạt động” cho rằng: “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin
giữa con người với nhau” và “giao tiếp là sự tác động lẫn nhau trên cơ sở phản
ánh tâm lí lẫn nhau” [29]
9


I.A.L.Kolominxki lại mô tả: “Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối
tượng và thông tin giữa con người với con người trong đó những quan hệ liên
quan đến nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành” [Dẫn theo 3]
Còn nhà nghiên cứu L.P.Bueva lại cho rằng: “Giao tiếp không chỉ là một
quá trình tinh thần mà còn là quá trình vật chất, quá trình xã hội, trong đó diễn

ra sự trao đổi các hoạt động, kinh nghiệm, sản phẩm của hoạt động” [Dẫn theo
33]
B.D. Pasughin: “Giao tiếp là quá trình tác dụng lẫn nhau, trao đổi thông
tin, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau” [Dẫn theo 33]
Gần đây, G.M.Andreva trong cuốn “Tâm lí học xã hội” đã cho rằng giao
tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau: mặt thông tin, mặt tri giác của con
người với nhau, mặt tác động qua lại của con người với nhau. [2]
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu theo hướng này chưa chỉ ra đặc điểm của đối
tượng giao tiếp của con người được biểu hiện trong truyền thông, làm cho truyền
thông trở nên tích cực hơn, và trở thành nội dung cơ bản của giao tiếp.
+ Hướng thứ 2: Nhìn nhận bản chất giao tiếp trong hệ thống các khái
niệm, phạm trù tâm lí học
Đại diện cho hướng này là các nhà tâm lí, giáo dục học A.A.Lêonchiev và
B.Ph.Lomov. Hai nhà tâm lí học này đưa giao tiếp song song với hoạt động.
Quan điểm xem giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, hoặc có thể
là điều kiện, phương thức của hoạt động bao gồm đầy đủ các thành phần trong
sơ đồ cấu trúc của hoạt động: chủ thể- hoạt động- đối tượng. Đại diện tiêu biểu
cho quan điểm này là A.A.Lêonchiev, thuộc trường phái hoạt động trong tâm lí
học Xô viết.
Quan điểm thứ hai xem giao tiếp là một phạm trù đồng đẳng với phạm trù
hoạt động. Đại diện cho quan điểm này là B.Ph.Lomov. Ông định nghĩa: “Giao
tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích và động cơ đảm bảo sự tương
tác giữa người này với người khác trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan

10


hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lí và sử dụng các phương tiện đặc thù
mà trước hết là ngôn ngữ.” [22]
Tuy nhiên, đa số các nhà tâm lý học như G.M. Andreeva, D.B.Enconhin, K.K.

Platonov, A.A. Bodalev… Cho rằng hai quan điểm nêu trên đều có mặt hợp lí và
chưa hợp lí, chưa thỏa đáng. Hoạt động và giao tiếp gắn chặt với nhau, không thể
hiểu đúng bản chất của giao tiếp nếu tách rời hoạt động. Đồng thời nếu tuyệt đối
hóa bất cứ phạm trù nào đều dẫn đến sai lầm.
1.1.1.2. Ở trong nước
Đến nay, giao tiếp đã trở thành nội dung nghiên cứu phổ biến trong nhiều
lĩnh vực khác nhau và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Khái quát các
nghiên cứu về giao tiếp ở Việt nam có thể chia làm ba hướng như sau:
+ Hướng thứ nhất: Xem giao tiếp là một tiến trình truyền đạt thông tin:
Các tác giả đã đề cập như: Nguyễn Văn Lê (1992), Nguyễn Khắc Viện (1995),
Nguyễn Thị Phượng và Dương Quang Huy (1997), Trần Thị Minh Đức.
Theo “Từ điển tâm lí học” của Nguyễn Khắc Viện. “Giao Tiếp là quá trình
truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm cho một người hay
một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (Tương tác). Thông tin
hay thông điệp được phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên đều vận dụng
một mã chung” [41]. Theo Trần Thị Minh Đức (chủ biên): “Giao tiếp là quá
trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức thông
qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua
lại với nhau”[8].
+ Hướng thứ 2: Xem giao tiếp là sự tiếp xúc tác động ảnh hưởng lẫn nhau:
Theo hướng này có các tác giả: Phạm Minh Hạc (1988), Trần Trọng Thủy,
Nguyễn Ngọc Bích (1995), Ngô Công Hoàn (1992), Nguyễn Thạc - Hoàng Anh
(1992), Nguyễn Quang Uẩn (1998)…
Tác giả Ngô Công Hoàn với vấn đề nghiên cứu: “Vấn đề giao tiếp” trong
tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì 92 - 96 cho GV tiểu học.

11


“Một số vấn đề tâm lí học về giao tiếp sư phạm” (1992) [14]; năm 1997

“Giao tiếp và ứng xử sư phạm” [13] đã đưa ra những đánh giá về vai trò của
hoạt động giao tiếp trong giáo dục, đặc biệt tác giả này đã đưa ra những nhận
định, phương pháp nhằm hình thành kĩ năng giao tiếp sư phạm cơ bản giúp cho
giáo viên có thể tiếp cận và dạy học có hiệu quả hơn.
1.1.2. Những nghiên cứu về giao tiếp của trẻ mầm non
1.1.2.1. Trên thế giới
Trước hết, trong tâm lí học Xô viết, L.X.Vugotxki đã đề cập từ những năm
30 trong chương trình: “ Sự phát triển của những chức năng tâm lí bậc cao”.
Đặc biệt là từ những năm 70 đến nay, giao tiếp đã trở thành vấn đề quan trọng
được nhiều nhà nghiên cứu tâm lí học quan tâm như: A. N. Leonchiev, DB.
Enconin, A. V. Daparogiet. M. Lisana với cuốn “ Nguồn gốc của sự hình thành
giao tiếp trẻ em” -1978, A.V. Daparogiet và M. Lisana “Sự phát triển giao tiếp
ở trẻ mẫu giáo” – 1974, A. Uxova với “Vai trò của trò chơi trong giao dục trẻ
em” - 1976, E.I. Chikiepva “Sự phát triển của trẻ trước tuổi học trò”- 1975….
Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu kể trên đều đi sâu vào những
vấn đề cơ bản của giao tiếp đó là:
- Khẳng được vị thế, vai trò, ý nghĩa mang tính chất quyết định của giao
tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
- Tìm ra được các chức năng quan trọng đặc biệt của giao tiếp đó là: Thông
báo và tiếp nhận thông tin, giúp trẻ tiếp thu và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch
sử, xã hội của loài người, giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh mình,
thể hiện cảm xúc của mình với người khác, và hỗ trợ trong quá trình phối hợp
hoạt động cùng nhau…
- Kể ra được các dạng giao tiếp trẻ em.
- Những con đường giao tiếp trẻ em.
- Cách thức tổ chức hoạt động giao tiếp cho trẻ em.
- Phương pháp nâng cao chất lượng hoạt động giao tiếp.
1.1.2.2. Ở trong nước
12



Vấn đề khái niệm giao tiếp, hình thành nhu cầu và kĩ năng giao tiếp của trẻ
được phản ánh trong các công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ánh
Tuyết, Nguyễn Thạc, Ngô Công Hoàn, Lê Xuân Hồng. Các tác giả đã cho thấy
rằng giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách toàn diện
của trẻ. Đồng thời trong các tác phẩm đó, các tác giả cũng nêu lên được nhu cầu
giao tiếp của trẻ em như thế nào, và đặc điểm về giao tiếp trẻ em qua từng độ
tuổi khác nhau. Bên cạnh đó các tác giả cũng chỉ ra được các đối tượng giao tiếp
của trẻ và tầm ảnh hưởng của các đối tượng đối với sự hình thành nhân cách của
một đứa trẻ như trẻ giao tiếp với người lớn, với bạn cùng tuổi, bạn khác giới và
với thế giới đồ vật. Mỗi đối tượng trẻ thể hiện một cách giao tiếp riêng biệt. Đặc
biệt các tác giả này đều đề cao vai trò sư phạm của người giáo viên mầm non,
đây là một đối tượng có sự ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đến quá trình giao tiếp
của đứa trẻ. Để từ đó các tác giả xây dựng nên các hình thức, phương pháp, môi
trường…. nhằm góp phần hình thành cho trẻ kĩ năng giao tiếp (KNGT) tốt nhất
có thể.
Cùng chủ đề nghiên cứu về giao tiếp ở lứa tuổi trẻ em, năm 2003, tác giả
Hoàng Thị Phương, nghiên cứu một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có
văn hóa cho trẻ 5 đến 6 tuổi, giao tiếp được khai thác dưới góc độ hành vi văn
hóa sơ đẳng nhưng là cơ bản, phổ biến, đặc trưng cho lứa tuổi mẫu giáo lớn. Đó
là những kĩ năng mang tính nền tảng làm cơ sở để giáo dục và phát triển sau này
cho trẻ thơ ở tuổi học tiểu học. [27]
Nguyễn Ánh Tuyết cũng xuất bản cuốn “Giáo dục trẻ em trong nhóm bạn
bè”, (1987) [37] “Sự hình thành xã hội trẻ em trước tuổi học” (1988) [38] với
hai tác phẩm này thì tác giả đề cao vai trò của hoạt động nhóm, hoạt động tập
thể trong đó hoạt động giao tiếp nắm vai trò chủ đạo có ý nghĩa quan trọng trong
sự hình thành và phát triển nhân cách xã hội cho trẻ em trong suốt cuộc đời.
Trong luận án PTS của Lê Xuân Hồng “Một số đặc điểm giao tiếp của
trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi” (1996) [16] và Nguyễn Xuân
Thức: “Nghiên cứu tính tích cực về giao tiếp của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động

13


vui chơi” (1997) đã nêu được những đặc điểm cơ bản của giao tiếp của trẻ 5 - 6
tuổi khi tham gia các hoạt động nhóm và tập thể ở trường mầm non.
Đề tài “Tính chủ động giao tiếp của trẻ em 5 - 6 tuổi” (1995) của hai tác
giả Nguyễn Xuân Thức và Nguyễn Thạc cũng đã trình bày thực trạng mức độ
tính chủ động giao tiếp của trẻ mẫu giáo và những biểu hiện cơ bản của tính chủ
động giao tiếp. Từ đó tác giả đã xây dựng nên hệ thống một số biện pháp nhằm
phát huy tính tích cực chủ động giao tiếp cho trẻ mầm non. [32].
1.1.3. Những nghiên cứu về giao tiếp tiếng Việt của trẻ em dân tộc thiểu số
Nhận thức rõ việc trang bị tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số (DTTS) có
ảnh hưởng lớn tới kết quả học tập của trẻ ở lớp một và những năm học tiếp theo,
vì vậy các địa phương đang tìm những giải pháp cụ thể để tăng cường dạy tiếng
Việt ngay từ bậc học mầm non. Qua đó, chất lượng học tập của trẻ em DTTS
ngày càng chuyển biến tích cực, học sinh mạnh dạn, tự tin và thích đến trường.
Từ năm 2009, để góp phần khắc phục tình trạng bất đồng ngôn ngữ của học
sinh khi đến trường, Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam đã thực hiện chương
trình Bà mẹ trợ giảng (BMTG) tại hai huyện Tủa Chùa và Tuần Giáo của tỉnh
Điện Biên. Là mô hình dạy trẻ mẫu giáo DTTS học tiếng Việt thông qua cầu nối
tiếng mẹ đẻ, dưới sự hỗ trợ của những “bà mẹ”, trẻ được giải thích kiến thức
mới của bài học, có cơ hội trao đổi suy nghĩ, nhận thức về môi trường chung
quanh bằng tiếng mẹ đẻ. Từ đó, trẻ sẽ học được tiếng Việt một cách hiệu quả. Ở
trường, giáo viên người Kinh không nói chuyện được với các em, vì vậy, với vai
trò vừa là người giúp giáo viên truyền tải bài học sang tiếng dân tộc để cho các
em hiểu, vừa hỗ trợ giáo viên khi gặp tình huống khó xử trong lớp và dạy trẻ
tăng cường tiếng Việt.
Theo Nguyễn Thị Hiếu, để nâng cao chất lượng dạy tiếng Việt cho trẻ em
DTTS, đối với giáo dục mầm non, Bộ GD và ĐT đã xây dựng, ban hành một số
tài liệu hỗ trợ giáo viên chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ. Hiện tại, Bộ GD và ĐT đang

phối hợp các chuyên gia, các trường sư phạm và địa phương xây dựng tài liệu
hướng dẫn tăng cường tiếng Việt dành cho cán bộ quản lí, giáo viên mầm non
14


cốt cán ở tất cả các tỉnh, thành phố có trẻ em người DTTS trên cả nước và nhân
viên hỗ trợ ngôn ngữ, nhằm hỗ trợ về nội dung, phương pháp tăng cường giao
tiếp tiếng Việt.
1.2. Những vấn đề chung về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp
1.2.1. Giao tiếp
1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hiện tượng tâm lí phức tạp và có nhiều mặt, nhiều cấp độ
khác nhau. Có nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi định nghĩa đều
được dựa trên một quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lí của nó.
Dưới góc độ thông tin học, có tác giả cho rằng: Giao tiếp là một quá trình
trao đổi và truyền đạt thông tin.
Người đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Weiner - nhà tâm lí học người Anh
(1947), tiếp theo là nhà Xã hội học người Mỹ Laswell (1948), Georgen Thines
và các cộng sự (1975) đã nêu “Giao tiếp được coi là sự truyền đạt thông tin, qua
đó các trạng thái của hệ thống phát thông tin phát huy ảnh hưởng tới hệ thống
nhận thông tin”. Thậm chí J. P Gruere (1982) đã đưa ra một định nghĩa mang
tính vật lí về giao tiếp như sau: “Sự giao tiếp là một quá trình chuẩn trong đó một
thông điệp được chuyển tải từ một bộ phát tới một bộ thu, thông qua một chuỗi
các yếu tố được gọi là nguồn, kênh, địa chỉ” [Dẫn theo 34] “Là một tin nào đó
được truyền từ điểm này sang điểm khác” G.A.Miller (1956) [Dẫn theo 34]
Hạn chế của các định nghĩa trên là coi hoạt động giao tiếp như một chương
trình được mã hóa, xem nhẹ yếu tố chủ thể, xem nhẹ mối liên hệ nhân cách của quá
trình giao tiếp và hạn chế hoạt động sáng tạo của nhân cách.
Dưới góc độ tâm lí học, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và vận
hành các mối quan hệ người và người, hiện thực hóa quan hệ giữa người với

nhau. Hiểu theo góc độ này có nhiều nhà tâm lí định nghĩa giao tiếp như sau:
- K.K. Platonov định nghĩa: “Giao tiếp là những mối liên hệ có ý thức của
con người trong cộng đồng xã hội loài người” [29]

15


- A.N. Lêonchiev - nhà tâm lí học Liên Xô cũ cho rằng: “Giao tiếp là một
dạng đặc biệt của hoạt động nó có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của hoạt động
như tính mục đích, vận hành theo nguyên tắc gián tiếp”. [21]
- B. PH. Lomov - nhà tâm lí học người Nga trong cuốn “Những vấn đề giao
tiếp trong tâm lí học đại cương” coi giao tiếp là một phạm trù cơ bản và định
nghĩa “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tư cách là
chủ thể” [22]
Ở Việt Nam, từ những năm 70 của thế kỉ XX trở lại đây, các nhà tâm lí
học cũng rất quan tâm đến lĩnh vực giao tiếp, xem đó là một đối tượng quan
trọng trong tâm lí học và lấy nó làm cơ sở hình thành nên chuyên ngành khoa
học riêng về giao tiếp.
- Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao lưu là hoạt động xác lập và vận hành
các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa người ta
với nhau”. Giao lưu ở đây được tác giả dùng đồng nghĩa với giao tiếp. Đây
chính là điều kiện, là nguồn gốc nảy sinh và phát triển tâm lí người. [10]
- Theo tác giả Ngô Công Hoàn “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với
con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm, kĩ
năng, kĩ xảo nghề nghiệp” [13]
- Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa người
với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri
giác lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau” [43]
- Nguyễn Thạc và Hoàng Anh định nghĩa về giao tiếp như sau: “giao tiếp là
hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người qua đó nảy

sinh sự tiếp xúc tâm lí, được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung
cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau” [30]
Từ điển tâm lí, do bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chủ biên, Trung tâm Nghiên cứu
tâm lí trẻ em, Hà Nội – 1991: “Giao tiếp là sự trao đổi giữa người với người
thông qua ngôn ngữ nói, viết, cử chỉ. Ngày nay từ này hàm ngụ sự trao đổi thông

16


qua một bộ mã (code). Người phát tin mã hóa một số tín hiệu, người nhận tin giải
mã, một bên truyền một ý nghĩa nhất định để bên kia hiểu được.” [41]
Như vậy, dưới góc độ tâm lí học, các tác giả tuy chưa có sự đồng nhất về
định nghĩa giao tiếp nhưng nhìn chung tất cả các khái niệm đều có nói lên được
một số đặc điểm chung như sau: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa người với người
trong cộng đồng xã hội qua đó xác lập và hiện thực hóa các mối quan hệ xã hội
của họ nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu nhất định”
Dưới góc độ ngôn ngữ học cũng có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về
giao tiếp.
- Theo từ điển tiếng Việt:“Giao tiếp là sự tiếp xúc trao đổi với nhau giữa con
người với con người bằng ngôn ngữ” (1992), “Từ điển tiếng Việt”, Trung tâm
từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội.
- Trong Đại từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý giải thích giao tiếp là
“Sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó” [44]
- Theo Berge (1994), giao tiếp được hiểu như một “quá trình thông tin diễn
ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và
một tình huống nhất định”. Như vậy giao tiếp cũng có thể định nghĩa như một
thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp được phát ra được hiểu là tin
đã được mã hóa thành lời nói hoặc lời viết, được truyện đi từ người phát đến
người nhận. [Dẫn theo 33]
- Diệp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc (1991) cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp

xúc với nhau giữa cá thể này với các thể khác trong một cộng đồng xã hội. Loài
động vật không làm thành một xã hội vì chúng không có giao tiếp với nhau như
loài ong, loài kiến” định nghĩa này cho thấy rằng giao tiếp chỉ xuất hiện trong
cộng đồng người làm cho cộng đồng đó mang tính xã hội còn những loài khác
không có giao tiếp thì bản thân nó chỉ được xem như là một quần thể, không hề
có tính xã hội. [Dẫn theo 31]
Hai tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy coi: Giao tiếp của con
người là một quá trình có chủ định hay không chủ định, có ý thức hay không có
17


ý thức mà trong đó có các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông
điệp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.” Trong định nghĩa này tác giả không chỉ
đề cập đến đối tượng dùng để giao tiếp mà còn nêu lên cả phương tiện giao tiếp
để tiến hành giao tiếp. Với định nghĩa này thì ngay cả khi trẻ không có ý thức
(trẻ thiểu năng, bị hội chứng down) hay trẻ chưa có ý thức (trẻ dưới ba tuổi) vẫn
có thể tham gia vào quá trình giao tiếp [34] .
Tóm lại, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau tùy theo từng góc độ về
giao tiếp tuy nhiên các nhà nghiên cứu đều nêu bật lên được đặc điểm chung về
giao tiếp như sau: Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ
giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
Từ những định nghĩa trên đây chúng tôi hiểu: “Giao tiếp là sự tương tác
giữa các cá nhân với nhau bằng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm
mục đích xác lập các mối quan hệ giữa người với người, qua đó các cá nhân trao
đổi thông tin, biểu đạt và tiếp nhận thông tin, cảm xúc, tình cảm, các trạng thái,
nhu cầu cá nhân với nhau và ảnh hưởng đến nhau, góp phần cho sự phát triển trí
tuệ và nhân cách”.
1.2.1.2. Các chức năng của giao tiếp
Có rất nhiều cách tiếp cận, phân tích chức năng của giao tiếp. Theo các nhà
tâm lí học cá nhân giao tiếp thực hiên các chức năng sau:

- Chức năng định hướng hoạt động.
- Chức năng nhận thức (chức năng phản ánh).
- Chức năng đánh giá và điều chỉnh
Theo các nhà tâm lí học xã hội thì giao tiếp có hai chức năng cơ bản sau:
- Chức năng liên kết.
- Chức năng hòa nhập.
Theo các nhà tâm lí học Xô viết B. F. Lomov & A.A.Bodaliov thì giao tiếp
có ba chức năng cơ bản sau:
- Chức năng nhận thức: Thông tin, thông báo.
- Chức năng đánh giá thái độ.
18


- Chức năng điều chỉnh, điều khiển.
Nhưng các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thì cho rằng giao tiếp thực hiện các
chức năng sau:
- Chức năng nhận thức: Nhờ có chức năng này mà con người có thể truyền
đạt, lĩnh hội các sự kiến, khái niệm, những giá trị trong quá trình giao tiếp.
- Chức năng duy trì sự tiếp xúc: chức năng này giúp người giao tiếp có thể
lấp chỗ trống khi tiến hành đối thoại.
- Chức năng siêu ngôn ngữ: là chức năng rút gọn- nói ít, hiểu nhiều trong
quá trình giao tiếp.
- Chức năng quy chiếu: đòi hỏi chủ thể giao tiếp phải hiểu được đặc điểm,
tâm lí của đối tượng giao tiếp để đảm bảo hiệu quả giao tiếp.
- Chức năng thơ mộng: thể hiện trong các cuộc giao tiếp có tính chất văn
hóa nghệ thuật.
Theo Ngô Công Hoàn: nếu coi giao tiếp là một phạm trù của Tâm lí học hiện
đại thì bản thân quá trình giao tiếp thực hiện các chức năng:
- Chức năng định hướng hoạt động của con người.
- Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người.

Các quan điểm trên xuất phát từ những quan điểm khác nhau, những hướng
nghiên cứu khác nhau nên cũng có những điểm khác nhau. Song các quan điểm
trên đều đã nêu ra được các chức năng cơ bản của giao tiếp theo nhiều hướng
tiếp cận khác nhau.
Trong đề tài này, chúng tôi có cùng quan điểm với Ngô Công Hoàn. Đó là
giao tiếp có hai chức năng cơ bản:
- Chức năng định hướng hoạt động của con người. Đây chính là chức năng
bao quát nhất, bất kì một sự tiếp xúc nào giữa con người với con người đều cần
phải biết mục đích giao tiếp để làm gì? Như vậy cần chú ý đến những thay đổi
nhỏ những biểu hiện của hành vi, cử chỉ, thái độ…. của chủ thể và đối tượng
giao tiếp, để có những hành vi đáp lại phù hợp.

19


- Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người. Đây là chức
năng hết sức quan trọng bởi lẽ nó hình thành ở trẻ những đức tính tốt, giúp trẻ
biết cách điều khiển điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp nhất.
1.2.1.3. Phương tiện giao tiếp
Các phương tiện giao tiếp là cách thức để biến những mục đích giao tiếp
thành hiện thực trong thực tế.
* Phương tiện ngôn ngữ: Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến hành
thông qua hệ thống tín hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết. Đây là hình thức giao
tiếp đặc trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao tiếp xã hội bởi nó có những chức
năng: chức năng thông báo, chức năng diễn cảm và chức năng tác động. Giao
tiếp ngôn ngữ có thể được biểu hiện qua nhiều hình thức. Trong giao tiếp, tuỳ
vào đối tượng, mục đích, hoàn cảnh… mà người ta sử dụng các hình thức biểu
đạt ngôn ngữ khác nhau. Theo như cách chia của trường phái Palo Alto thì có
giao tiếp chỉ định và giao tiếp loại suy, hay bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thì lại gọi
là giao tiếp nói chỉ (chỉ định) và giao tiếp nói ví (loại suy). Trong tiếng Việt,

tương ứng với các cách gọi như trên ta còn có thể gọi là hiển ngôn (nói chỉ) hay
hàm ngôn (nói ví).
- Kiểu nói chỉ theo những quy ước rõ ràng ngôn ngữ nói hay viết với từ vựng,
ngữ nghĩa nhất định. Ngôn ngữ toán học, vi tính, chữ người mù thuộc kiểu này.
- Kiểu nói ví vận dụng giọng nói, tư thế, cử chỉ tức những kênh cận ngôn ngữ
hay phi ngôn ngữ diễn tả tình cảm, và những yếu tố chủ quan, quan hệ cảm xúc
giữa hai bên đối thoại. Ở đây không có những chỉ báo nói rõ mạch lạc, khung
cảnh, bối cảnh. Giữa hai kiểu này có thể ăn khớp hay không và mọi sự giao tiếp
đều diễn ra trong một bối cảnh nhất định.
- Ngôn ngữ tình thái (Ngôn ngữ biểu cảm về trạng thái tình cảm của người
nói) nhằm phản ánh khía cạnh tâm lí, xã hội của chủ thể, giúp cho đối tượng
hiểu được tốt hơn ý nghĩa của nội dung thông tin. Ngôn ngữ tình thái phản ánh
thái độ của người nói đối với thông tin mình nói ra, cách người đó đánh giá tính

20


hiện thực hay không hiện thực, mức độ của tính xác thực, tính tất yếu, tính khả
thi, tính chất mong muốn hay đáng tiếc của điều thông báo.
* Phương tiện phi ngôn ngữ:
Giao tiếp phi ngôn ngữ được thể hiện thông qua sự vận động của cơ thể
như cử chỉ, tư thế, nét mặt; thông qua cách trang phục hoặc tạo ra khoảng không
gian nhất định khi tiếp xúc. Giao tiếp phi ngôn ngữ ra đời trước giao tiếp ngôn
ngữ, có cội nguồn sinh học dựa trên cơ sở hành vi bản năng gắn liền với quá
trình tiến hoá, di truyền từ thế giới động vật. Trong giao tiếp phi ngôn ngữ,
không phải lúc nào cũng có sự tham gia của ý thức, vì thế nên qua hình thức
giao tiếp này người ta thường bộc lộ chân thật các cảm nghĩ, thái độ, ý kiến…
của mình, tuy nhiên lại không dễ hiểu được chúng. Đây là kiểu giao tiếp được
thể hiện thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt, giọng
nói… Thông qua các trang phục hoặc tạo ra khoảng không gian nhất định khi

tiếp xúc.
Giao tiếp phi ngôn ngữ được phân thành hai loại: giao tiếp có chủ định và
giao tiếp không chủ định.
- Giao tiếp không chủ định: Là những biểu hiện mang tính bản năng của các
hành vi, tư thế, nét mặt… xuất hiện theo phản xạ, tự động; diễn ra không có sự
kiểm soát của ý thức. Đó là những biểu hiện của hành vi vô thức. Giao tiếp phi
ngôn ngữ không chủ định thường xuất hiện ở trẻ em, những người văn hoá thấp…
- Giao tiếp phi ngôn ngữ có chủ định: Đó là những biểu hiện của các hành
vi, cử chỉ, các biểu cảm nét mặt có ý thức, có mục đích với sự cố gắng của ý chí.
Giao tiếp phi ngôn ngữ có chủ định thường diễn ra ở những người có trình độ
văn hoá cao, những người cao tuổi giàu kinh nghiệm…
Các kênh của giao tiếp phi ngôn ngữ gồm có: tư thế, giọng nói, âm
thanh…Tất cả các yếu tố này đều có ảnh hưởng lớn trong quá trình giao tiếp.
Như vậy, nếu chúng ta biết cách quan sát kĩ lưỡng, học được một số kĩ năng
sử dụng hiệu quả cử động cơ thể cũng như không gian… thì hiệu quả giao tiếp sẽ
được nâng lên rất nhiều. Qua giao tiếp phi ngôn ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể
21


nhận ra được tính cách, tâm trạng hay vị trí xã hội của một người dù ta mới tiếp
xúc lần đầu. Giao tiếp phi ngôn ngữ đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của
rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều trường phái tâm lí học trên thế giới. Ở lứa tuổi
mẫu giáo, đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi khả năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
được thể hiện trong việc sử dụng lời nói (Phương tiện ngôn ngữ) và sự biểu cảm
lời nói (phương tiện phi ngôn ngữ).
1.2.1.4. Vai trò của giao tiếp trong cuộc sống con người
Giao tiếp là nhu cầu của con người muốn tiếp xúc với con người, đó là đặc
thù của tâm lí người. Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa
người với người, là một nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm lí.
Quá trình giao tiếp ở người được diễn ra rất sớm. Từ lúc đứa trẻ được 4

tuần tuổi đã bắt đầu giao tiếp, tuy sơ đẳng nhưng đó là một dạng hoạt động rất
đặc thù của con người. Nó tạo ra cái mà tâm lí học gọi là “cộng sinh cảm xúc”
của trẻ với người nuôi dạy trẻ, đây là một nhân tố rất cần cho sự phát triển tâm lí
và sinh lí của trẻ.
Đến tuổi thiếu niên, giao tiếp lại nổi lên một lần nữa với vai trò quan trọng
đặc biệt đối với sự phát triển tâm lí, nhân cách của cá nhân. Có nhiều ý kiến cho
rằng, trong nhiều trường hợp, ở lứa tuổi này, giao tiếp bạn bè có ảnh hưởng tới
hứng thú, tinh thần, thái độ học tập hơn là học tập. Thậm chí có nhiều công trình
nghiên cứu cho rằng, ở tuổi thiếu niên, các cơ chế xã hội, chuẩn mực xã hội và
phần nào tri thức đi vào từng em qua con đường giao tiếp.
Nhờ có giao tiếp, con người học được cách đánh giá hành vi và thái độ, lĩnh
hội được các tiêu chuẩn đạo đức từ cuộc sống, kiểm tra và vận dụng các tiêu
chuẩn đó vào thực tiễn. Thiếu sự giao tiếp thì những phẩm chất nhân cách quan
trọng nhất như tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc, lòng vị tha, sự
trung thực, lòng thành trong giao tiếp… không thể có được.
Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ nhận thức được người khác
mà còn nhận thức chính bản thân mình. Bất kì người nào cũng đều đối chiếu cái
mà họ quan sát được ở mình với cái mà họ nhìn thấy ở những người xung
22


quanh, từ đó họ thu nhận được thông tin cần thiết để hình thành một thái độ, giá
trị. Phạm vi giao tiếp càng rộng, hình thức giao tiếp càng đa dạng thì những
thông tin càng muôn màu muôn vẻ, càng phong phú.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, không có giao tiếp với người
khác con người cảm thấy cô đơn và đôi khi trở thành bệnh hoạn. C.Mác đã chỉ ra
rằng: “Sự phát triển của mỗi cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả
các cá nhân khác mà họ giao lưu một cách trực tiếp”. Con người có rất nhiều nhu
cầu, nhưng quan trọng hơn hết đó là nhu cầu được tiếp xúc với người khác. Nhu
cầu về sự tiếp xúc tình cảm với người khác là mặt quan trọng của nhu cầu giao

tiếp. Trong quá trình tiếp xúc với nhau, con người không chỉ trao đổi thông tin,
hiểu biết lẫn nhau mà còn đồng cảm với nhau, đó là tính chất “đối lưu” của sự tiếp
xúc, nó biểu hiện trong bất kì hình thức quan hệ nào với bạn bè, cha mẹ…
Vì giao tiếp có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con
người nên nó trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống con người.
Theo C. Mác thì “Nhu cầu vĩ đại nhất, phong phú nhất của con người là nhu cầu
tiếp xúc với người khác, nhu cầu này không ngang hàng với nhu cầu khác, sự
phát triển của nó trong mỗi con người chính là một điều kiện làm cho con người
trở thành người”.
Cùng với các hoạt động, thông qua giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa
xã hội, tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến những kinh nghiệm đó
thành vốn sống, kinh nghiệm của bản thân mình, hình thành và phát triển đời
sống tâm lí, đồng thời góp phần vào sự phát triển nền văn hóa xã hội. Nếu không
có sự giao tiếp với con người, với các quan hệ xã hội thì đứa trẻ sẽ không trở
thành người, không có sự phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng, sự giao tiếp không đầy đủ
về số lượng, nghèo nàn về nội dung của trẻ nhỏ với người lớn và những người
xung quanh dễ dẫn đến những hậu quả nặng nề. Trẻ dễ mắc bệnh hospitalision
(bệnh nằm viện lâu ngày), èo uột. Mặc dù được chăm sóc chu đáo về mặt y tế và
vệ sinh song những đứa trẻ lớn lên trong điều kiện “đói giao tiếp” đều chậm phát
23


triển trí tuệ. Như B.F. Lomov đã từng khẳng định “Khi con người rơi vào sự cô
đơn kéo dài (không giao tiếp) có thể dẫn đến bệnh rối loạn tri giác, chú ý và lĩnh
vực cảm xúc của con người, có thể dẫn đến quan niệm lệch lạc về bản thân và
các hiện tượng của thế giới xung quanh”. Khi xem xét, phân tích “Vấn đề giao
tiếp trong tâm lí học” ông khẳng định “Nhu cầu giao tiếp có liên quan đến các
nhu cầu cơ bản của con người. Nó quy định hành vi của con người. Điều đó là tự
nhiên bởi vì giao tiếp là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bình thường của

con người như là thành viên của xã hội, như là nhân cách”. Thông qua giao tiếp,
cá nhân dễ dàng gia nhập vào các mối quan hệ xã hội với những cá nhân khác và
với toàn xã hội.
Giao tiếp có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Giao tiếp có mặt trong
mọi hoạt động của con người. Có thể khẳng định: nếu không có giao tiếp thì
không có sự tồn tại xã hội, vì xã hội là một cộng đồng người có sự ràng buộc, liên
kết với nhau. Qua giao tiếp, con người biết được các giá trị xã hội của người khác
và bản thân, trên cơ sở đó, cá nhân tự điều khiển, điều chỉnh bản thân theo các
chuẩn mực xã hội, do đó nhân cách của con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại, cuộc sống là một chuỗi hoạt động và giao tiếp của con người, nó
chính là sự tạo lập và xử lí một loạt các mối quan hệ: con người - con người; con
người - thế giới tự nhiên; con người - xã hội (quá khứ, hiện tại, tương lai)… xảy
ra xung quanh cuộc sống của mỗi cá thể. Bằng hoạt động và giao tiếp của mình,
mỗi người trở thành người, xã hội hóa bản thân, gia nhập vào các quan hệ xã
hội, chuyển hóa các quan hệ này thành của chính mình, nhập tâm các quan hệ ấy
thành tâm lí, ý thức, nhân cách… như C. Mác đã khẳng định “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Các
quan hệ người - người được thể hiện trong sự giao tiếp, giao tiếp có mặt trong
mọi hoạt động của con người. Trong hoạt động, con người phải xác định được
quan hệ giữa nhóm người này với nhóm người kia, thậm chí là cả thế hệ trước
với thế hệ sau. Do đó giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát
triên tâm lí người .
24


1.2.2. Kĩ năng giao tiếp
1.2.2.1. Khái niệm kĩ năng và kĩ năng giao tiếp
* Khái niệm kĩ năng:
Theo Từ điển tiếng Việt, kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. [26]

Từ điển Oxford định nghĩa “skill” - kĩ năng là khả năng tìm ra giải pháp cho
một vấn đề nào đó và có được nhờ rèn luyện. [Dẫn theo 17, tr.15]
Tác giả Trần Trọng Thủy cho rằng: kĩ năng là mặt kĩ thuật của hành động,
con người nắm được cách hành động tức là có kĩ thuật hành động, có kĩ năng.
[34 tr.49]
N.D. Levitovxam xét kĩ năng gắn liền với kết quả hành động. Theo ông,
người có kĩ năng hành động là người phải nắm được và vận dụng đúng đắn các
cách thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả. Ông nhấn mạnh,
muốn hình thành kĩ năng con người vừa phải nắm vững lí thuyết về hành động,
vừa phải vận dụng lí thuyết đó vào thực tế.
Cùng quan điểm này, các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết,
Trần Thị Quốc Minh cũng cho rằng, kĩ năng là một mặt của năng lực con người
thực hiện một công việc có kết quả. Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng, kĩ năng là
khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những
tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện
cho phép. [Dẫn theo 24, tr.6]
Như vậy, với những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, kĩ năng không chỉ
là thao tác mà còn là biểu hiện của năng lực. Rõ ràng kĩ năng là sự thực hiện có
kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách áp dụng
hay lựa chọn những cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định.
Nói khác đi, một người có kĩ năng hành động là phải nắm bắt được và vận dụng
đúng đắn các cách thức hành động nhằm hành động thực hiện có hiệu quả.
Mặt khác có thể hiểu kĩ năng là năng lực của người thực hiện công việc có
kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong những
25


×