Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.88 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ HẢI HÀ

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÁC TÌNH
TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ...............................................................................................................7
1.1 Những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự...................7
1.2 Quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.......................................................................................................................16
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC


TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG……………………………...32
2.1 Đánh giá tổng quan tình hình xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang từ năm 2012 đến năm 2016................................32
2.2 Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang…………………..35
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ .............................62
3.1 Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự………………………………………………………………………62
3.2 Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong thực tiễn xét xử ...............................................................................................64
KẾT LUẬN .............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Bảng thống kê số liệu xét xử các vụ án hình sự từ năm 2012-2016 của
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.................................................................32
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 của TAND huyện Bắc
Quang, tỉnh Hà Giang từ năm 2012 - 2016...............................................................36
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự theo khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang từ năm 2012 - 2016........................................................................................48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định hình phạt là khâu quan trọng nhất trong hoạt động xét xử
của Tòa án. Trong đó, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn
cứ để quyết định hình phạt, là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc
cá thể hóa hình phạt trong áp dụng pháp luật. Việc quy định các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không những là cơ sở pháp lý để Hội đồng xét
xử đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, từ đó quyết định hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội và
nhân thân người phạm tội mà còn đảm bảo việc cải tạo giáo dục người phạm

tội, góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc bình đẳng và bảo đảm quyền con người.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
đã thực hiện tốt công tác xét xử các vụ án hình sự, về cơ bản việc áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là đúng với từng người thực hiện
hành vi phạm tội, thể hiện được chính sách hình sự của Nhà nước ta. Tuy
nhiên, do cách hiểu về một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không
thống nhất dẫn đến một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các
tình tiết này.
Mặt khác, mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 46 và Nghị quyết số 01/2000/ NQHĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự
năm 1999; Nghị quyết sổ 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật hình sự đã hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nhưng nhiều tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự còn chưa được quy định rõ ràng, cụ thể.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự quy định tình tiết giảm nhẹ tr ách
nhiệm hình sự theo hướng mở nên trong thực tiễn việc áp dụng còn tùy tiện,

1


tùy vào nhận thức chủ quan của Hội đồng xét xử. BLHS năm 2015 đã có sự
sửa đổi về quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội luôn là đòi hỏi khách quan trong
quá trình xét xử đối các vụ án hình sự để quyết định hình phạt đúng, đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta
và nhất là đảm bảo quyền con người.
Việc nghiên cứu khoa học một cách chuyên biệt về chế định các tình tiết

giảm nhẹ trên cơ sở lý luận, thực tiễn nhằm hiểu rõ và áp dụng đúng đắn các tình
tiết giảm nhẹ TNHS để nâng cao chất lượng xét xử và tìm ra những vấn đề còn
vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn để từ đó đưa ra giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong thực tiễn xét xử là một yêu cầu rất quan
trọng và cấp thiết. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang” để làm luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được nghiên
cứu trong nhiều công trình, bài viết như: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 (phần chung), Tập thể tác giả do TS. Uông Chu Lưu chủ
biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, ThS. Đinh Văn Quế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000; Hoàn thiện các quy định của phần chung Bộ luật hình sự trước
yêu cầu mới của đất nước, TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb. Chính trị quốc gia - sự
thật, Hà Nội, 2012; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần chung), tập thể
tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế, Nxb. Công an
nhân dân, 2010; Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam, Trần Thị Quang Vinh, Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên
cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2003; Các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Bùi Kiến Quốc,

2


Tạp chí Luật học số 6/2000; Ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong chế định quyết định hình phạt theo Bộ luật hình sự năm
1999, Trần Thị Quang Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2001; Một
số ý kiến về tự thú và đầu thú trong BLHS năm 1999, Nguyễn Đức Tuấn, Bản
tin kiểm sát số xuân ra tháng 01/2002; Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng theo

Bộ luật hình sự năm 1999, Dương Tuyết Miên, Tạp chí Tòa án nhân dân số
1/2003; Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình
phạt, TS. Trịnh Tiến Việt, Tạp chí khoa học pháp lý số 1/2004; Bàn về tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự, ThS. Lê Văn Luật, Tạp chí nghề luật số 1/2007; Bàn về tình tiết
giảm nhẹ khác ở khoản 2 Điều 46 BLHS, Vũ Thành Long, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 22, tháng 11/2007; Một số vấn đề về tình tiết giảm nhẹ “Phạm
tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, Th.s Đinh Văn Quế, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 9/2009; Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
thể hiện sự ăn năn, hối cải của người phạm tội – những tồn tại, vướng mắc
và kiến nghị, Phạm Thị Thanh Nga, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7, tháng
4/2008; Một số vấn đề về phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng và những vướng mắc trong thực tiễn xét xử, Th.s Đinh Văn Quế,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 17, tháng 9/2009; v.v...
Mỗi công trình nghiên cứu, mỗi bài viết của các nhà luật học đã đề cập
ở các phương diện và mức độ khác nhau về các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nêu
lên những vướng mắc và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, các quan điểm của các tác giả cũng
không thống nhất, chưa lý giải tại sao các tình tiết giảm nhẹ này đượ c áp
dụng đối với người phạm tội này mà không áp dụng đối với người phạm tội
khác, áp dụng đối với loại tội này mà không áp dụng đối với loại tội khác?
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này được áp dụng như thế nào
trong thực tiễn xét xử trên địa bàn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang- một
huyện miền núi phía đông bắc của Tổ quốc với nhiều dân tộc thiểu số sinh

3


sống, điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên có nhiều nét khác với các địa
phương khác trong cả nước. Vấn đề các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự đòi hỏi cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện hơn nhằm bảo đảm
áp dụng đúng đắn các tình tiết này trong thực tiễn xét xử của Tòa án nói
chung, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nói riêng . Do vậy,
tác giả của luận văn chọn đề tài “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang” để phân tích, lý giải thêm về lý luận và thực tiễn áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài luận văn này tác giả mong muốn đóng góp một phần suy
nghĩ của mình vào việc nhận thức đúng đắn những vấn đề lí luận về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự trên địa bàn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nhằm tìm ra giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết này để nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa
án nói chung, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích như trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự
về các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
- Hai là, đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS của Tòa án
nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nhằm phát hiện những vướng mắc, thiếu
sót trong việc áp dụng các tình tiết này trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.
- Ba là, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ
TNHS trong thực tiễn xét xử.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của luật hình sự Việt
Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ TNHS tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về cơ sở lý luận,
nội dung các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với tính chất là một trong
những căn cứ quyết định hình phạt.
- Về giới hạn số liệu thực tiễn xét xử, luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng các
tình tiết này của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang từ năm 2012
đến năm 2016, với 150 bản án.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
nhân đạo trong luật hình sự.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng tổng
hợp và đồng bộ các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Phương pháp
phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và nội dung quy định của
pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đóng góp vào việc làm rõ quy định pháp luật hình sự và thực tiễn
áp dụng. Qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình
tiết giảm nhẹ TNHS để nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án.

5



7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục những từ viết tắt và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
- Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM
NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
a. Khái niệm
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của Pháp
luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong các thời kỳ
xây dựng và phát triển của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1945 đến nay, thì chưa có văn bản
pháp luật nào nêu khái niệm về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kế
thừa các quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, B LHS năm
1985 và BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và các văn bản quy
phạm pháp luật khác hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS cũng
không nêu khái niệm các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khoa học pháp lý

hình sự hiện vẫn chưa có sự thống nhất khái niệm về trách nhiệm hình sự
cũng như khái niệm tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu khái niệm trách nhiệm hình sự. Theo
GS.TSKH. Đào Trí Úc thì TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể
hiện ở chỗ người đã gây tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước [33, tr.41].
Theo giáo trình Đại học luật Hà Nội thì TNHS là một dạng của trách
nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy
cứu TNHS, chịu sự kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự
(hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích [30, tr.210]. Khái niệm này
cũng đồng khái niệm TNHS trong Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2006 do tác giả PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, PGS.TS. Lê Thị Sơn
nghiên cứu và biên soạn.
Ngoài ra, theo Giáo trình Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, TNHS

7


là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc phạm tội
thể hiện ở trách nhiệm của người phạm tội trước Nhà nước phải chịu những
tác động pháp lý bất lợi được quy định trong Luật hình sự do Tòa án áp dụng
theo một trình tự tố tụng nhất định [31, tr.250].
Như vậy, trên cơ sở các khái niệm đã nêu có thể hiểu TNHS là hậu quả
pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu do việc thực hiện tội phạm.
TNHS chỉ là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là loại trách nhiệm nghiêm
khắc nhất trong các loại trách nhiệm pháp lý mà cá nhân của người phạm tội
phải chịu trước Nhà nước thông qua quá trình tiến hành tố tụng theo trình tự
đặc biệt được quy định trong Luật Tố tụng hình sự và được thể hiện bằng bản
án hoặc quyết định của Tòa án.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hiện nay được hiểu chung nhất
là những tình tiết làm giảm bớt mức độ trách nhiệm hình sự. Về khái niệm các

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau:
- Trong bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung,

Thạc sĩ Đinh Văn Quế cho rằng “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là
các tình tiết trong một vụ án cụ thể nó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự của người
phạm tội trong một khung hình phạt” [20, tr.240].
- Tiến sĩ Trần Thị Quang Vinh thì định nghĩa các tình tiết giảm nhẹ

TNHS như sau: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết của vụ án
hình sự, liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự, có ý nghĩa làm
giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng
cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan
hồng [40, tr.32].
- Theo quan điểm của Tiến sĩ Trịnh Tiến Việt trong bài viết về ản h

hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt được đăng
trên tạp chí khoa học pháp lý số 01/2004 thì: Tình tiết giảm nhẹ TNHS là
những tình tiết được quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự, với tính
chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết do Tòa án tự xem xét, cân

8


nhắc và ghi rõ trong bản án (nếu trong vụ án hình sự không có tình tiết này)
đồng thời là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền và Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tươn g ứng cá thể
hóa TNHS và hình phạt của người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong
phạm vi một khung hình phạt [34, tr.l].
Như vậy, ở những góc độ khác nhau các tác giả đưa ra các khái niệm khác
nhau về các tình tiết giảm nhẹ. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về các

tình tiết giảm nhẹ TNHS, cũng như trong thực tiễn áp dụng thì tình tiết giảm nhẹ
TNHS phải được quy định trong BLHS, trong các văn bản hướng dẫn thi hành việc
áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS và những tình tiết giảm nhẹ do HĐXX cân nhắc,
quyết định. Những tình tiết này có giá trị làm giảm nhẹ TNHS đối với người phạm
tội trong phạm vi khung hình phạt đang được áp dụng đối với người đó.
Dựa vào các quy định của pháp luật hình sự và qua việc nghiên cứu các
quan điểm trên có thể đưa ra khái niệm: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình
tiết của vụ án hình sự, nó không làm thay đổi tính chất của tội phạm nhưng nó hàm
chứa những nội dung làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
phản ánh nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội, phản ánh
nhân thân người phạm tội, phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội...,
làm giảm TNHS của người phạm tội, làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt giảm
nhẹ hơn đối với một hành vi phạm tội nhất định kể cả khả năng được áp dụng loại
hình phạt nhẹ hơn hoặc được miễn hình phạt.
b. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Qua nghiên cứu các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều
46 BLHS, các văn bản hướng dẫn thi hành và từ khái niệm trên ta có thể rút
ra được một số đặc trưng cơ bản của các tình tiết giảm nhẹ TNHS như sau:
Một là: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết được pháp luật hình sự
quy định: Trước hết, các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định trong BLHS, cụ
thể là 18 điểm (từ điểm a đến điểm s) của khoản 1 Điều 46 BLHS. Bên cạnh đó,
trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết

9


khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi rõ lý do trong bản án theo quy định tại
khoản 2 Điều 46 BLHS. Tình tiết giảm nhẹ TNHS còn được hướng dẫn tại Nghị
quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần chung của BLHS năm 1999; Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày

12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLHS và những tình tiết giảm nhẹ khác do HĐXX cân nhắc,
quyết định và ghi rõ trong bản án. Việc cho phép Tòa án có thể coi các tình tiết khác
là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong từng vụ án đối với từng bị cáo cụ thể nhằm mở
rộng tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm cho hoạt
động xét xử được công bằng, chính xác, khách quan. Pháp luật dù hoàn thiện đến
đâu cũng không thể tiên liệu hết mọi tình huống của cuộc sống nên quy định cho
phép Tòa án xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong hoạt động xét xử
là hợp lý và cần thiết.
Hai là: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có giá trị làm giảm bớt trách
nhiệm hình sự của người được áp dụng các tình tiết này. Tình tiết giảm nhẹ
TNHS có khả năng làm giảm hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt,
chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn, miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hì nh
sự, áp dụng án treo. Trường hợp thông thường, người có tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được giảm nhẹ hình phạt trong phạm vi khung hình phạ t
đang được áp dụng đối với người đó. Mức hình phạt trong trường hợp này
tùy thuộc vào số lượng và giá trị giảm nhẹ của các tình tiết mà người đó có.
Việc quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt của
điều luật được quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự: "Khi có ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể
quyết dịnh một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều
luật đã quy định.....". Tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQHĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao
hướng dẫn áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo quy định một trong
các điều kiện để xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo là " ......có từ

10


hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.....". Tại

khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự quy định: "Người chưa thành niên phạm tội
có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó.......có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục".
Khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự quy định về miễn trách nhiệm hình sự như
sau: “Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm
tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều
tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì
cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Điều 54 Bộ luật hình sự quy
định về miễn hình phạt cũng đã đặt ra điều kiện liên quan đến tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, cụ thể: "Người phạm tội có thể miễn hình phạt
trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến
mức được miễn trách nhiệm hình sự”.
Ba là: tình tiết giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng đến việc quyết định hình
phạt như thế nào là do Tòa án cân nhắc, xem xét. Giá trị giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không giống
nhau. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46
Bộ luật hình sự có nội dung khác nhau nên mức độ giảm nhẹ cũng khác nhau.
Ví dụ tình tiết giảm nhẹ “Ngườiphạm tội tự thú” khác với tình tiết giảm nhẹ
“Người phạm tội đầu thú”. Cùng một tình tiết giảm nhẹ, nhưng đối với tội
phạm khác nhau thì mức độ giảm nhẹ cũng khác nhau; cùng phạm một tội và
cùng có tình tiết giảm nhẹ như nhau, nhưng đối với người phạm tội khác
nhau thì mức độ giảm nhẹ cũng khác nhau. Mức độ giảm nhẹ của mỗi tình
tiết còn phụ thuộc vào những điều kiện khách quan khi hành vi phạm tội
được thực hiện. Ví dụ: A và B phạm tội cướp giật tài sản gây thiệt hại cho
người bị hại 10.000.000 đồng nhưng A bồi thường 9.000.000 đồng, B bồi
thường 1.000.000 đồng thì A sẽ được giảm nhẹ nhiều hơn B; Nhìn chung các

11



tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự có giá trị giảm nhẹ cao hơn so với các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khác được Hội đồng xét xử áp dụng đối với người phạm tội
theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi xác định mức
độ giảm nhẹ của các tình tiết giảm nhẹ cần phải căn cứ vào hành vi phạm tội
mà người phạm tội thực hiện, vào các yếu tố về nhân thân người phạm tội và
các yếu tố khách quan khác có liên quan. Pháp luật không quy định cụ thể sự
hiện diện của tình tiết giảm nhẹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết
định hình phạt, sự hiện hữu của tình tiết nào thì được giảm TNHS đến đâu,
điều đó phụ thuộc vào sự xem xét và cân nhắc của Tòa án.
Bốn là: các tình tiết giảm nhẹ TNHS rất phong phú, không xác định về mặt
số lượng. Chúng ta có thể xác định được các tình tiết quy định trong khoản 1 Điều
46 Bộ luật hình sự và các tình tiết được quy định tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ nói trên thì trong quá trình xét xử
từng vụ án cụ thể, Tòa án còn có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi rõ lý do trong bản án.
Năm là: ảnh hưởng của từng tình tiết giảm nhẹ TNHS đến mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội không giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khá phong
phú về mặt số lượng và ảnh hưởng của chúng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội là khác nhau. Do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc
quyết định hình phạt là không giống nhau. Có tình tiết thì ảnh hưởng rất lớn đến
việc quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội, nhưng có tình tiết thì
ảnh hưởng ít hơn. Có tình tiết chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm, còn đối
với những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa rất hạn chế. Mặt khác, Điều 47 BLHS
năm 1999 quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều
46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề
nhẹ hơn của điều luật…”. Theo đó, khả năng “có thể quyết định một hình phạt dưới


12


mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định” chỉ có thể thực hiện
“khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46”.
1.1.2. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a. Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Đây là tình tiết thuộc về yếu tố khách quan, chủ quan hay nhân thân
người phạm tội- những yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội. Bao gồm:
* Các tình tiết liên quan đến mức độ hậu quả:
- Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn.
* Các tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ
ảnh hưởng đến hành vi và người phạm tội:
- Tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
* Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ lỗi.
Bao gồm:
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái
pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra.
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự
gây ra.
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức.
- Phạm tội do lạc hậu.
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

b. Các tình tiết giảm nhẹ do khả năng giáo dục, cải tạo của người
phạm tội.

13


- Người phạm tội tự thú
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát
hiện, điều tra tội phạm
- Người phạm tội lập công chuộc tội
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến
đấu, học tập hoặc công tác
c. Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội.
- Người phạm tội là phụ nữ có thai
- Người phạm tội là người già
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
a. Vai trò của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Trong việc thực hiện chính sách hình sự thì các tình tiết giảm nhẹ TNHS có
vai trò rất quan trọng, nó được thể hiện là một trong những nguyên tắc xử lý cơ bản
của BLHS.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ để quyết định hình
phạt. Theo Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: “Khi quyết định hình phạt,
Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để giảm hình phạt trong giới
hạn một khung hình phạt đã được xác định. Giá trị giảm nhẹ còn là căn cứ để
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển
sang hình phạt khác nhẹ hơn. Khi có tình tiết giảm nhẹ, thì người phạm tội

được áp dụng loại và mức hình phạt ít nghiêm khắc hơn, làm giảm hình phạt
trong một khung hình phạt, có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt, chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn, miễn hình phạt,
miễn trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo.

14


- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là phương tiện thực hiện nội dung nhân đạo
của chính sách hình sự của Nhà nước về tội phạm và trách nhiệm hình sự. Không
phủ nhận rằng vai trò của hình phạt là nhằm trừng trị người phạm tội, nhưng Nhà
nước ta chủ trương việc áp dụng hình phạt chỉ trong giới hạn cần và đủ để đấu tranh
có hiệu quả đối với tội phạm vì hình phạt còn có mục đích quan trọng khác là nhằm
cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, việc tiết
giảm hình phạt cũng như mức độ khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội
phải bảo đảm yêu cầu dựa trên sự đánh giá đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội. Để xác định được tiêu chí này
cần phải dựa vào tổng thể các tình tiết liên quan đến tội phạm và người phạm tội
trong đó có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS làm thay đổi mức độ nguy hiểm chứ không
làm thay đổi tính chất nguy hiểm của tội phạm.
b) Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
* Ý nghĩa pháp lý của quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự
- Quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự có ý
nghĩa là một phương tiện phân hóa TNHS trong luật.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được sử dụng như là phương tiện cá
thể hóa TNHS trong áp dụng pháp luật.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những điều kiện cần thiết
để đạt được mục đích của hình phạt.

- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được sử dụng như là điều kiện để không
áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc cao.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự là một chế định có ý
nghĩa lớn cả về mặt xã hội cũng như pháp lý. Việc quy định này đã tạo cơ sở pháp
lý để thực hiện phân hóa và cá thể hóa TNHS, áp dụng các biện pháp xử lý khoan
hồng về hình sự, bảo đảm một phán quyết công bằng và nhân đạo, tạo tiền đề quan
trọng về tâm lý cho quá trình cải hóa người phạm tội.

15


* Ý nghĩa xã hội của quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự:
- Bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội trong lĩnh
vực hình sự.
- Quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam với hệ thống thang bậc tiết giảm TNHS có ý nghĩa quan trọng
trong việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước về tội phạm và TNHS.
Việc quy định này là một cách thức đưa nội dung của chín h sách hình sự trở
thành hiện thực. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là phương tiện cần thiết để
thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta.
1.2 Quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
1.2.1 Khái quát quá trình quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự từ năm 1945 đến năm 2015
Quá trình hình thành và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam trải qua nhiều
giai đoạn lịch sử. Quan điểm về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với
mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau có những khác nhau, phụ thuộc vào ý chí của giai
cấp thống trị. Quá trình hình thành và phát triển của chế định các tình tiết giảm nhẹ
TNHS là quá trình phát triển có tính kế thừa chọn lọc.

Cách mạng tháng Tám thành công chấm dứt sự đô hộ của thực dân
Pháp ở Việt Nam, Nhà nước Việt Nam xây dựng nhà nước dân chủ và ban
hành nhiều văn bản pháp luật hình sự để bảo vệ đất nước còn non trẻ, những
quy định này là nền tảng quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để giải
quyết vấn đề tội phạm Nhà nước ta đã ban hành nhiều sắc lệnh, các sắc lệnh
này chưa nêu rõ và cụ thể về các tình tiết giảm nhẹ cho người phạm tội.
Trong thời kỳ này việc nhà nước ban hành Pháp lệnh trừng trị tội phản cách
mạng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1967) là một bước đột phá về
việc quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Điều 20 Pháp lệnh ghi
nhận “Những trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt”. Năm

16


1970, Nhà nước ta tiếp tục ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 23 Pháp lệnh ghi nhận “Những trường hợp xử
nhẹ hoặc miễn hình phạt”. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tình tiết giảm nhẹ TNHS thời kỳ này nhà nước ta ban hành chưa cụ thể, rõ
ràng mà chỉ mang tính chung chung.
Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng,
cả nước độc lập thống nhất. Sau khi thống nhất về mặt nhà nước, vấn đề thống nhất
pháp luật trong cả nước, trong đó có pháp luật hình sự đã được giải quyết về cơ bản.
Thời kỳ này phải kể đến việc ban hành Pháp lệnh trừng trị hối lộ ngày 20 tháng 5
năm 1981, tại Điều 8 Pháp lệnh đã ghi nhận: “Những trường hợp miễn TNHS, giảm
nhẹ hoặc miễn hình phạt”. Tuy nhiên các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tình tiết giảm nhẹ TNHS từ năm 1975 đến năm 1985 vẫn chưa cụ thể, chi tiết.
Năm 1985, Nhà nước ta ban hành Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự năm
1985 lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam đã có một điều
luật riêng quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng
chung cho tất cả các loại tội phạm. Cụ thể các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự được quy định tại Điều 38 như sau:
1. Những tình tiết sau đây được coi là tình tiết giảm nhẹ:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm
hoặc tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại;
b) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết hoặc bị kích động về tinh thần do
hành vi trái pháp luật của người khác gây ra;
c) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
d) Phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; phạm tội
lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
đ) Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức hoặc bị chi phối về
mặt vật chất, công tác hay các mặt khác;
e) Người phạm tội là phụ nữ đang có thai, là người già hoặc là người

17


có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
phạm tội của mình;
g) Phạm tội do trình độ lạc hậu hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém;
h) Người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích
cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm;
i) Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi tình tiết khác là tinh tiết
giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bán án.
j) Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất mà Điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ này phải được
ghi trong bản án.
Như vậy, BLHS năm 1985 lần đầu tiên quy định các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự (với tên gọi là các tình tiết giảm nhẹ) tại một điều luật

thuộc phần chung Bộ luật hình sự được áp dụng chung cho tất cả các tội
phạm cụ thể. Cách quy định các tình tiết này được thực hiện theo hướng mở,
không chỉ giới hạn ở những tình tiết được quy định rõ trong luật mà còn ghi
nhận cơ sở pháp lý cho phép HĐXX coi các tình tiết khác là tình tiết giảm
nhẹ TNHS.
Kế thừa cách quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 quy định các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 46 với tên gọi là các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, sự thay đổi tên gọi này so với BLHS năm 1985 đã phản
ánh chính xác hơn về tính chất và giá trị giảm nhẹ của các tình tiết này. Ngoài sự
thay đổi tên gọi, quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của BLHS năm
1999 có một số khác biệt so với quy định của BLHS năm 1985. Cụ thể là: tách các
tình tiết được quy định gộp ở các điểm a, b, d, e, h để quy định ở các điểm độc lập;
bổ sung tình tiết khắc phục hậu quả, người phạm tội đã lập công chuộc tội, người
phạm tội có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; bỏ
đoạn 2 điểm đ (phạm tội vì bị người khác chi phối về mặt vật chất, công tác hay các
mặt khác), đoạn 2 điểm g (phạm tội do trình độ nghiệp vụ non kém); bỏ khoản 3 về

18


quyết định hình phạt; bổ sung khoản 3 về nguyên tắc không áp dụng là tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tình tiết đã là dấu hiệu định tội hoặc định
khung hình phạt. Quy định này đã khắc phục được tình trạng nhận thức sai và áp
dụng hình phạt nhẹ hơn mức cần thiết đối với bị cáo. So với BLHS năm 1985 thì
BLHS năm 1999 quy định về nguyên tắc này rõ ràng hơn.
BLHS năm 2015 đã bổ sung 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS mới so với BLHS
năm 1999 đó là: Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội; Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà
không phải do lỗi của mình gây ra; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc
khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ,

người có công với cách mạng. Riêng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người
già” trong BLHS năm 1999 được đổi thành “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở
lên” trong BLHS năm 2015.
1.2.2 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999
1.2.2.1 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản
1 Điều 46 Bộ luật hình sự
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a
khoản 1 Điều 46 BLHS)
Trong điểm này có hai tình tiết giảm nhẹ là:
- Ngăn chặn tác hại của tội phạm: Là khi tội phạm đã được thực hiện

và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động của khách quan nên đã bằng
những khả năng có thể để ngăn chặn không cho tác hại của tội phạm xảy ra.
- Làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Là khi tội phạm đã được thực

hiện, tác hại của tội phạm đang xảy ra và người phạm tội tự mình hoặc có sự
tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để hạn chế tác hại
của tội phạm.
Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết này phụ
thuộc vào thái độ của người phạm tội nghĩa là người phạm tội tự mình hay

19


người phạm tội do sự tác động bắt buộc của người khác và thực tế tác hại của
tội phạm đã được ngăn chặn hay đã được giảm bớt nhiều hay ít.
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả (điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS)
Là trường hợp người phạm tội đã gây ra thiệt hại, gây ra hậu quả và người

phạm tội tự nguyện (không do ép buộc, cưỡng chế) mà người phạm tội sửa chữa,
bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.
Sửa chữa là sửa lại, chữa lại những gì bị làm hư hỏng do hành vi phạm
tội gây ra. Ví dụ, sửa lại chiếc xe bị hỏng, lợp lại mái ngói bị vỡ...
Bồi thường là bồi thường bằng tài sản cho những thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra. Ví dụ: A lấy trộm một chiếc xe máy đem bán lấy tiền t iêu
xài, sau khi vụ việc bị phát hiện, chiếc xe không thu hồi lại được nên A đã trả
lại cho chủ sở hữu một khoản tiền bằng giá trị chiếc xe đã lấy trộm.
Khắc phục hậu quả là khắc phục tác hại do hành vi phạm tội gây ra mà
không thể sửa chữa hoặc bồi thường bằng tài sản được. Ví dụ, A giết chết B,
A lo tiền mai táng, đưa cho người thân của B một khoản tiền trợ cấp khó
khăn....thì đây được coi là người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả mà
không phải là bồi thường thiệt hại.
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (điểm
c khoản 1 Điều 46 BLHS)
Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là trường
hợp vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác mà có hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm.
Các điều kiện xác định người này phạm tội trong trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng:
- Lỗi đầu tiên xuất phát từ người bị hại, người bị hại có hành vi trái pháp luật
đe dọa xảy ra ngay tức khắc xâm phạm đến lợi ích trên.

20


- Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vì bảo vệ các lợi
ích tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản….của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà buộc phải chống trả lại

sự xâm hại.
- Người phạm tội bị hạn chế khả năng lựa chọn hành vi của mình. Yếu tố tâm
lý của người này có khi không thể có điều kiện bình tĩnh được lựa chọn chính xác
phương pháp, phương tiện….chống trả thích hợp, cường độ của sự tấn công, nhất là
trường hợp bị tấn công bất ngờ.
Khi xem xét đánh giá hành vi của người phòng vệ có vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hay không thì phải đánh giá vào khả năng nhận thức, tâm lý
lúc thực hiện hành vi, không gian, địa điểm,….tác động, làm ảnh hưởng đến hành vi
của họ có tương xứng hay không, có rõ ràng quá đáng hay không thì phải xem xét
toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ.
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (điểm d
khoản 1 Điều 46 của BLHS)
Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là
trường hợp vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước,
của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn
cách nào khác là phải gây ra một thiệt hại nhưng thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá
yêu cầu ngăn ngừa thiệt hại.
Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu
TNHS khi có đủ những điều kiện sau:
- Phải có sự nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc, nếu sự nguy
hiểm đó chưa xảy ra hoặc đã kết thúc thì không được coi là gây thiệt hại trong tình
thế cấp thiết;
- Sự nguy hiểm đang đe dọa phải là sự nguy hiểm thực tế, nếu sự nguy hiểm
đó không chứa đựng khả năng thực tế gây ra hậu quả cho xã hội mà chỉ do người
thiệt hại tưởng tượng ra thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết;

21



×