VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HẢI HÀ
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội.
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Võ Khánh Vinh
Phản biện 1: ..........................................
Phản biện 2: ..........................................
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học Xã hội vào lúc:
...... giờ, ngày ..... tháng ..... năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội luôn là đòi hỏi khách quan trong
quá trình xét xử đối các vụ án hình sự để quyết định hình phạt đúng, đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta
và nhất là đảm bảo quyền con người. Thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
TNHS tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang trong thời gian qua về
cơ bản là đúng với từng người thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do cách hiểu
về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không thống nhất đồng thời một số
quy định của pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ TNHS chưa cụ thể, rõ ràng dẫn
đến một số vướng mắc, bất cập, tùy tiện trong thực tiễn áp dụng các tình tiết này.
Việc nghiên cứu khoa học một cách chuyên biệt về chế định các tình tiết
giảm nhẹ trên cơ sở lý luận, thực tiễn nhằm hiểu rõ và áp dụng đúng đắn các tình
tiết giảm nhẹ TNHS để nâng cao chất lượng xét xử và tìm ra những vấn đề còn
vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn để từ đó đưa ra giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong thực tiễn xét xử là một yêu cầu rất quan
trọng và cấp thiết. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang” để làm luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được
nghiên cứu trong nhiều công trình, bài viết như:
Luận án tiến sĩ luật học “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thị Quang Vinh, Học
viện khoa học xã hội, năm 2002.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh” của
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Phương, Học viện khoa học xã hội, năm 2014.
Mỗi công trình nghiên cứu, mỗi bài viết của các nhà luật học đã đề
cập ở các phương diện và mức độ khác nhau về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS. Tuy nhiên, Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này được áp
dụng như thế nào trong thực tiễn xét xử trên địa bàn huyện Bắc Quang,
tỉnh Hà Giang- một huyện miền núi phía đông bắc của Tổ quốc với nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên có nhiều
nét khác với các địa phương khác trong cả nước. Vấn đề các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự đòi hỏi cần phải được nghiên cứu một cách toàn
diện hơn nhằm bảo đảm áp dụng đúng đắn các tình tiết này trong thực tiễn
xét xử của Tòa án nói chung, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang nói riêng. Do vậy, tác giả của luận văn chọn đề tài “Các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang” để phân tích, lý giải thêm về lý luận và
thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Tác giả mong muốn đóng góp một phần suy nghĩ của mình vào việc nhận
thức đúng đắn những vấn đề lí luận và đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ TNHS trên địa bàn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nhằm tìm ra giải pháp bảo
đảm áp dụng đúng các tình tiết này để nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nói
chung, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về
các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS của Tòa án nhân
dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nhằm phát hiện những vướng mắc, thiếu sót
trong việc áp dụng các tình tiết này trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ
TNHS trong thực tiễn xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là những quy định của luật hình sự
Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ TNHS tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ một số
vấn đề về cơ sở lý luận, nội dung các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với
tính chất là một trong những căn cứ quyết định hình phạt.
Về giới hạn số liệu thực tiễn xét xử, luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng
các tình tiết này của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang từ năm
2012 đến năm 2016, với 150 bản án.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của
Đảng về chính sách nhân đạo trong luật hình sự.
Phương pháp nghiên cứu: tác giả đã sử dụng tổng hợp và đồng bộ
các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Phương pháp phân tích, tổ ng
hợp, lịch sử, so sánh, thống kê....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và nội
dung quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đóng góp vào việc làm rõ quy định pháp luật
hình sự và thực tiễn áp dụng. Qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ TNHS để nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục những từ viết tắt và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.
2
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang.
- Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM
NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
a. Khái niệm
Trước hết, chúng ta tìm hiểu khái niệm trách nhiệm hình sự. Có thể
hiểu TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu do việc
thực hiện tội phạm. TNHS chỉ là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là
loại trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các loại trách nhiệm pháp lý mà
cá nhân của người phạm tội phải chịu trước Nhà nước thông qua quá trình
tiến hành tố tụng theo trình tự đặc biệt được quy định trong Luật Tố tụng
hình sự và được thể hiện bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hiện nay được hiểu chung
nhất là những tình tiết làm giảm bớt mức độ trách nhiệm hình sự. Về khái
niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có nhiều quan điểm của
các tác giả khác nhau. Dựa vào các quy định của pháp luật hình sự v à qua
việc nghiên cứu các quan điểm của các tác giả có thể đưa ra khái niệm: Các
tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết của vụ án hình sự, nó không
làm thay đổi tính chất của tội phạm nhưng nó hàm chứa những nội dung
làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh
nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội, phản ánh
nhân thân người phạm tội, phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo người phạm
tội..., làm giảm TNHS của người phạm tội, làm cơ sở cho việc quyết định
hình phạt giảm nhẹ hơn đối với một hành vi phạm tội nhất định kể cả khả
năng được áp dụng loại hình phạt nhẹ hơn hoặc được miễn hình phạt.
b. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Một là: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết được pháp luật hình
sự quy định: Trước hết, các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định trong BLHS,
cụ thể là 18 điểm (từ điểm a đến điểm s) của khoản 1 Điều 46 BLHS. Bên cạnh đó,
trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi rõ lý do trong bản án theo quy định tại
khoản 2 Điều 46 BLHS. Tình tiết giảm nhẹ TNHS còn được hướng dẫn tại một số
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Hai là: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có giá trị làm giảm bớt trách
nhiệm hình sự của người được áp dụng các tình tiết này. Tình tiết giảm nhẹ
TNHS có khả năng làm giảm hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt,
3
chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn, miễn hình phạt, miễn trách nhiệm
hình sự, áp dụng án treo.
Ba là: tình tiết giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng đến việc quyết định hình
phạt như thế nào là do Tòa án cân nhắc, xem xét. Giá trị giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không giống
nhau. Pháp luật không quy định cụ thể sự hiện diện của tình tiết giảm nhẹ
sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt, sự hiện hữu của
tình tiết nào thì được giảm TNHS đến đâu, điều đó phụ thuộc vào sự xem
xét và cân nhắc của Tòa án.
Bốn là: các tình tiết giảm nhẹ TNHS rất phong phú, không xác định về mặt
số lượng. Chúng ta có thể xác định được các tình tiết quy định trong khoản 1 Điều
46 Bộ luật hình sự và các tình tiết được quy định tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ nói trên thì trong quá trình xét xử
từng vụ án cụ thể, Tòa án còn có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi rõ lý do trong bản án.
Năm là: ảnh hưởng của từng tình tiết giảm nhẹ TNHS đến mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội không giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khá
phong phú về mặt số lượng và ảnh hưởng của chúng đối với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội là khác nhau. Do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến
việc quyết định hình phạt là không giống nhau.
1.1.2. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a. Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội.
* Các tình tiết liên quan đến mức độ hậu quả:
- Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn.
* Các tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ
ảnh hưởng đến hành vi và người phạm tội:
- Tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
* Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ lỗi.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp
thiết.
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra.
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra.
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức.
- Phạm tội do lạc hậu.
- Người phạm tội là người có bệ nh bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
b. Các tình tiết giảm nhẹ do khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội.
4
- Người phạm tội tự thú
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát
hiện, điều tra tội phạm
- Người phạm tội lập công chuộc tội
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất,
chiến đấu, học tập hoặc công tác
c. Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội.
- Người phạm tội là phụ nữ có thai
- Người phạm tội là người già
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
a. Vai trò của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ để quyết định
hình phạt. Theo Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: “Khi quyết định hình
phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để giảm hình phạt trong
giới hạn một khung hình phạt đã được xác định. Giá trị giảm nhẹ còn là
căn cứ để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn, miễn hình phạt, miễn trách
nhiệm hình sự, cho hưởng án treo.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là phương tiện thực hiện nội dung nhân đạo
của chính sách hình sự của Nhà nước về tội phạm và trách nhiệm hình sự. Vai trò
của hình phạt là nhằm trừng trị người phạm tội, nhưng Nhà nước ta chủ trương việc
áp dụng hình phạt chỉ trong giới hạn cần và đủ để đấu tranh có hiệu quả đối với tội
phạm vì hình phạt còn có mục đích quan trọng khác là nhằm cải tạo, giáo dục
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS làm thay đổi mức độ nguy hiểm chứ không
làm thay đổi tính chất nguy hiểm của tội phạm.
b) Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
* Ý nghĩa pháp lý của quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự
- Quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự có ý
nghĩa là một phương tiện phân hóa TNHS trong luật.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được sử dụng như là phương tiện
cá thể hóa TNHS trong áp dụng pháp luật.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những điều kiện cần
thiết để đạt được mục đích của hình phạt.
- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được sử dụng như là điều kiện để
không áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc cao.
* Ý nghĩa xã hội của quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội trong lĩnh
vực hình sự.
5
- Quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam với hệ thống thang bậc tiết giảm TNHS có ý nghĩa quan trọng
trong việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước về tội phạm và
TNHS. Việc quy định này là một cách thức đưa nội dung của chính sách
hình sự trở thành hiện thực. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là phương tiện
cần thiết để thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta.
1.2 Quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
1.2.1 Khái quát quá trình quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự từ năm 1945 đến năm 2015
Quá trình hình thành và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam trải
qua nhiều giai đoạn lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển của chế định
các tình tiết giảm nhẹ TNHS là quá trình phát triển có tính kế thừa chọn
lọc.
Cách mạng tháng Tám thành công, để giải quyết vấn đề tội phạm
Nhà nước ta đã ban hành nhiều sắc lệnh, tiếp đến là Pháp lệnh trừng trị tội
phản cách mạng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (năm 1967), Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (năm 1970). Các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tình tiết giảm nhẹ T NHS thời kỳ
này nhà nước ta ban hành chưa cụ thể, rõ ràng mà chỉ mang tính chung
chung.
Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, sau khi thống nhất về mặt nhà nước,
vấn đề thống nhất pháp luật trong cả nước, trong đó có pháp luật hình sự đã được
giải quyết về cơ bản. Thời kỳ này phải kể đến việc ban hành Pháp lệnh trừng trị hối
lộ ngày 20 tháng 5 năm 1981, tại Điều 8 Pháp lệnh đã ghi nhận: “Những trường
hợp miễn TNHS, giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt”. Tuy nhiên các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tình tiết giảm nhẹ TNHS từ năm 1975 đến năm 1985 vẫn
chưa cụ thể, chi tiết.
Năm 1985, Nhà nước ta ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 , lần đầu
tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam đã có một điều luật riêng với
tên gọi là các tình tiết giảm nhẹ thuộc phần ch ung của BLHS (Điều 38) quy
định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng chung cho tất
cả các loại tội phạm. Cách quy định các tình tiết này được thực hiện theo
hướng mở, không chỉ giới hạn ở những tình tiết được quy định rõ trong
luật mà còn ghi nhận cơ sở pháp lý cho phép HĐXX coi các tình tiết khác
là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Kế thừa cách quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 quy định các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 46 với tên gọi là các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, sự thay đổi tên gọi này so với BLHS năm 1985 đã phản
ánh chính xác hơn về tính chất và giá trị giảm nhẹ của các tình tiết này. Ngoài sự
thay đổi tên gọi, quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của BLHS năm
1999 có một số khác biệt so với quy định của BLHS năm 1985. Cụ thể là: tách các
tình tiết được quy định gộp ở các điểm a, b, d, e, h để quy định ở các điểm độc lập;
bổ sung tình tiết khắc phục hậu quả, người phạm tội đã lập công chuộc tội, người
6
phạm tội có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; bỏ
đoạn 2 điểm đ (phạm tội vì bị người khác chi phối về mặt vật chất, công tác hay các
mặt khác), đoạn 2 điểm g (phạm tội do trình độ nghiệp vụ non kém); bỏ khoản 3 về
quyết định hình phạt; bổ sung khoản 3 về nguyên tắc không áp dụng là tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tình tiết đã là dấu hiệu định tội hoặc định
khung hình phạt. Quy định này đã khắc phục được tình trạng nhận thức sai và áp
dụng hình phạt nhẹ hơn mức cần thiết đối với bị cáo. So với BLHS năm 1985 thì
BLHS năm 1999 quy định về nguyên tắc này rõ ràng hơn.
BLHS năm 2015 đã bổ sung 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS mới so với BLHS
năm 1999 đó là: Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội; Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà
không phải do lỗi của mình gây ra; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc
khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ,
người có công với cách mạng. Riêng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người
già” trong BLHS năm 1999 được đổi thành “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở
lên” trong BLHS năm 2015.
1.2.2 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999
1.2.2.1 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản
1 Điều 46 Bộ luật hình sự
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm
a khoản 1 Điều 46 BLHS)
- Ngăn chặn tác hại của tội phạm: Là khi tội phạm đã được thực
hiện và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động của khách quan nên đã
bằng những khả năng có thể để ngăn chặn không cho tác hại của tội phạm
xảy ra.
- Làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Là khi tội phạm đã được
thực hiện, tác hại của tội phạm đang xảy ra và người phạm tội tự mình
hoặc có sự tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để hạn
chế tác hại của tội phạm.
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả (điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS)
Là trường hợp người phạm tội đã gây ra thiệt hại, gây ra hậu quả và người
phạm tội tự nguyện (không do ép buộc, cưỡng chế) mà người phạm tội sửa chữa,
bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.
Sửa chữa là sửa lại, chữa lại những gì bị làm hư hỏng do hành vi
phạm tội gây ra.
Bồi thường là bồi thường bằng tài sản cho những thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra.
Khắc phục hậu quả là khắc phục tác hại do hành vi phạm tội gây ra
mà không thể sửa chữa hoặc bồi thường bằng tài sản được.
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (điểm
c khoản 1 Điều 46 BLHS)
7
Là trường hợp vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà có hành vi chống trả rõ ràng
quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi xâm phạm.
Các điều kiện xác định người này phạm tội trong trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng:
- Lỗi đầu tiên xuất phát từ người bị hại, người bị hại có hành vi trái pháp
luật đe dọa xảy ra ngay tức khắc xâm phạm đến lợi ích trên.
- Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vì bảo vệ các lợi
ích tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản….của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà buộc phải chống trả lại
sự xâm hại.
- Người phạm tội bị hạn chế khả năng lựa chọn hành vi của mình. Yếu tố
tâm lý của người này có khi không thể có điều kiện bình tĩnh được lựa chọn chính
xác phương pháp, phương tiện….chống trả thích hợp, cường độ của sự tấn công,
nhất là trường hợp bị tấn công bất ngờ.
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (điểm
d khoản 1 Điều 46 của BLHS)
Là trường hợp vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của
Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác
mà không còn cách nào khác là phải gây ra một thiệt hại nhưng thiệt hại gây ra rõ
ràng vượt quá yêu cầu ngăn ngừa thiệt hại.
Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu
TNHS khi có đủ những điều kiện sau:
- Phải có sự nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc;
- Sự nguy hiểm đang đe dọa phải là sự nguy hiểm thực tế;
- Việc gây thiệt hại để tránh một thiệt hại khác là sự lựa chọn duy nhất;
- Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại muốn tránh.
đ. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp
luật của người bị hại hoặc người khác gây ra (điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS)
Trạng thái tinh thần bị kích động là tình trạng tâm lý của con người
bị giảm sút về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, đặc b iệt
là tính tự chủ và kiềm chế do sự tác động của ngoại cảnh. Để được áp dụng
tình tiết này thì đòi hỏi phải có hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc
người khác gây ra và hành vi trái pháp luật đó xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người phạm tội hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người thân thích của người phạm tội dẫn đến làm người đó bị
kích động về tinh thần và thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng đó.
e. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây
ra (điểm e khoản 1 Điều 46 BLHS)
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm do bị chi phối
bởi hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà người phạm tội không vượt qua
được. Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đó có thể của chính người phạm tội hay
của gia đình, có thể do thiên tai, tai nạn hay bệnh tật....
8
g. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn
(điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS)
Đây là những trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm
nhưng chưa gây ra hậu quả cho xã hội hoặc tuy hậu quả đã xảy ra nhưng
không lớn vì được hạn chế do những nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý
muốn của người phạm tội.
h. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm h khoản 1
Điều 46 BLHS)
Phạm tội lần đầu là từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào nghĩa là nếu
trước đó đã phạm tội và bị kết án nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án
nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong
cùng lần phạm tội sau thì cũng không được áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu.
Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: tội phạm “gây nguy hại không
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm
tù” (khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999).
i. Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức (điểm i khoản 1 Điều 46
BLHS)
Người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị người khác uy hiếp về mặt tinh
thần, bằng cách đe dọa dùng vũ lực hoặc thực hiện hành vi trái pháp luật đối với
người phạm tội hoặc đối với gia đình của họ. Sự uy hiếp đó có khả năng trở thành
hiện thực. Đây là trường hợp phạm tội vì bị người khác đe dọa.
Người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị người khác sử dụng bạo lực về thể
chất hoặc tinh thần dưới bất kỳ hình thức nào, nếu hành vi cưỡng bức đó không
phải là đe dọa. Đây là trường hợp phạm tội vì bị người khác cưỡng bức.
k. Phạm tội do lạc hậu (điểm k khoản 1 Điều 46 BLHS)
Đây là trường hợp phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu, thấp kém đã hạn
chế nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Nguyên nhân dẫn đến trình
độ lạc hậu của người phạm tội phải là khách quan như do không được học tập,
không có những điều kiện thực tế để họ nhận biết được giữa cái tiến bộ và cái lạc
hậu.
l. Người phạm tội là phụ nữ có thai (điểm l khoản 1 Điều 46 BLHS)
Đây là trường hợp chủ thể của tội phạm là người phụ nữ đang có thai khi
thực hiện tội phạm. Trường hợp khi phạm tội người phụ nữ không có thai mà khi
xét xử có thai thì không được áp dụng tình tiết này mà tùy trường hợp cụ thể có thể
áp dụng quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự đối với phụ nữ có thai khi xét xử.
m. Người phạm tội là người già (điểm m khoản 1 Điều 46 BLHS)
Bộ luật hình sự quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ TNHS xuất phát
từ tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện chính sách hình sự đối với người
cao tuổi và có tính đến đặc điểm tâm- sinh lý của lứa tuổi này. Khi con người đến
một độ tuổi nhất định thì các hoạt động của cơ thể đều bị giảm sút, thiếu năng
động. Mặt khác, bắt một người già chịu một hình phạt nghiêm khắc là không cần
thiết. BLHS 2015 đã quy định cụ thể “Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên”
là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
9
n. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình (điểm n khoản 1 Điều 46 BLHS)
Người phạm tội trong trường hợp này là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội đang mắc bệnh nào đó nên đã không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội của mình, cũng như hậu quả của hành vi do mình gây ra hoặc nhận
thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó nhưng bị hạn chế
khả năng điều khiểu hành vi, không điều khiển được hành vi theo ý muốn.
o. Người phạm tội tự thú (điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS)
Tự thú là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình
trong khi không ai phát hiện hành vi phạm tội của mình. Người nào bị bắt,
bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể nhưng trong quá trình điều tra
tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình chưa bị
phát hiện thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai
ra những hành vi phạm tội của mình chưa bị phát hiện.
p. Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (điểm p khoản 1
Điều 46 BLHS)
Thành khẩn khai báo được hiểu là người phạm tội thừa nhận hành vi
phạm tội và khai rõ việc thực hiện hành vi của mình đầy đủ, đúng sự thật
khách quan đã diễn ra trong thực tế qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, người phạm
tội thể hiện sự day dứt, hối hận về tội lỗi của mình và thể hiện bằng những
hành động, việc làm cụ thể để chứng minh cho việc mình muốn sửa chữa,
cải tạo thành người tốt thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
q. Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện,
điều tra tội phạm (điểm q khoản 1 Điều 46 BLHS)
Tích cực giúp đỡ là người phạm tội chủ động giúp đỡ các cơ quan có
trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm nhằm tạo ra những biến đổi,
thay đổi nhanh hơn trong việc phát hiện và điều tra tội phạm. Việc tích cực
giúp đỡ này thường được thể hiện bằng việc cung cấp những thông tin, tài
liệu bằng chứng có ý nghĩa thiết thực cho việc phát hiện và điều tra tội
phạm; chỉ nơi cất giấu tang vật, nơi người phạm tội khác đang trốn tr ánh;
cung cấp thông tin về tội phạm khác, người phạm tội khác không liên quan
đến mình.
r. Người phạm tội đã lập công chuộc tội (điểm r khoản 1 Điều 46 BLHS)
Đây là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, cho đến trước khi bị xét xử,
người phạm tội có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện
hoặc ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt người phạm
tội, có hành động vì lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác… được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng
nhận.
s. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu,
học tập hoặc công tác (điểm s khoản 1 Điều 46 BLHS)
Người phạm tội có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu học
tập hoặc công tác là trước khi phạm tội họ đã có những thành tích xuất sắc
10
được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động
sáng tạo hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị hoặc nhiều năm được công
nhận là chiến sỹ thi đua, dũng sĩ quyết thắng, các danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú,
Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú và các danh hiệu cao quý khác....
1.2.2.2 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản
2 Điều 46 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự thì khi quyết định
hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng
phải ghi rõ trong bản án. Tại mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân d ân Tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999 thì
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 46 đó là:
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có
công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong
các danh hiệu vinh dự như: Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ
trang, Người mẹ Việt Nam anh hùng, Nghệ sỹ nhân dân, Nghệ sỹ ưu tú,
Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú
hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước;
- Bị cáo là thương binh, hoặc có người thân thích như vợ, chồng,
cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi) anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong
công tác có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm
nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khỏe của
người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất
như đi chống, bão lụt, cấp cứu.
Ngoài ra khi xét xử, tùy trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của
người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ
nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
2.1 Đánh giá tổng quan tình hình xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang từ năm 2012 đến năm 2016
Khảo sát thực tế số liệu thống kê từ năm 2012 đến năm 2016 về số vụ án
hình sự đã giải quyết của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang cho thấy: tính
11
trung bình của các năm từ năm 2012 đến năm 2016, mỗi năm Tòa án nhân dân
huyện Bắc Quang xét xử 54 vụ án hình sự với 112 bị cáo. Trong đó năm 2012 có số
lượng vụ án đã xét xử và số bị cáo ít nhất trong các năm và năm 2013 có số lượng
vụ án đã xét xử và số bị cáo tăng vượt trội so với các năm khác. Hà Giang là một
tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc gồm 11 huyện, thành phố với điều
kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn so với cả nước. Trong đó huyện Bắc
Quang là huyện có số lượng án nói chung, án hình sự nói riêng nhiều hơn các
huyện khác trong tỉnh.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung, công tác xét xử án hình sự
đạt kết quả tốt. Việc áp dụng pháp luật, thực hiện các trình tự tố tụng theo đúng quy
định của pháp luật. TAND huyện Bắc Quang đã có nhiều cố gắng nên việc giải
quyết các vụ án hình sự đạt tỷ lệ 100%, trong đó xét xử đạt tỉ lệ 98%; đình chỉ, tạm
đình chỉ, trả hồ sơ điều tra bổ sung chiếm tỉ lệ nhỏ 2%. Chất lượng xét xử ngày
càng tiến bộ, việc xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không xét xử oan người vô tội.
Bên cạnh những mặt làm được, thông qua việc nghiên cứu, xem xét một số
vụ án bị hủy, sửa cho thấy thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang
vẫn tồn tại khuyết điểm. Những sai sót thường mắc phải là: áp dụng tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS chưa phù hợp dẫn đến xử bị cáo quá nhẹ hoặc quá nặng, cho
hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật; chưa cân nhắc đúng tính chất và
hậu quả của hành vi bị cáo đã gây ra cho xã hội; việc xử lý vật chứng, tịch thu tài
sản hoặc tiền đã tham gia vào việc phạm tội hoặc do phạm tội mà có chưa đúng quy
định của pháp luật……..Những hạn chế trong hoạt động giải quyết án hình sự
thuộc bốn nhóm vi phạm sau: quyết định hình phạt quá nhẹ, áp dụng 60 của BLHS
năm 1999 để cho hưởng án treo không đúng. Ngược lại, có trường hợp quyết định
hình phạt quá nặng; áp dụng không đúng điều khoản của BLHS, trong đó có trường
hợp áp dụng không đúng quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS; đánh giá
chứng cứ, xác định tiền án, tiền sự, xử lý vật chứng, phân hoá vai trò trong đồng
phạm, cá thể hoá hình phạt không chính xác; coi nhẹ giải quyết phần dân sự trong
vụ án hình sự. Do những văn bản hướng dẫn cho hoạt động xét xử án hình sự của
TAND tối cao chưa đầy đủ, cụ thể nên trong thực tiễn các địa phương hiểu và thực
hiện các hướng dẫn của TAND tối cao đôi khi còn khác nhau nên hiệu quả của
công tác hướng dẫn pháp luật còn chưa được như mong muốn. Đây cũng chính là
nguyên nhân của tình trạng các vụ án bị cấp trên sửa, huỷ có chiều hướng tăng.
Thêm nữa, trên thực tế, trình độ chuyên môn của một số Hội thẩm nhân dân chưa
đáp ứng yêu cầu xét xử.
2.2 Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
2.2.1 Thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự hiện hành
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS tại khoản 1 Điều 46 BLHS được quy định
tương đối cụ thể, rõ ràng nên nhìn chung Hội đồng xét xử dễ vận dụng để làm cơ sở
quyết định mức hình phạt tương xứng với từng người phạm tội. Khảo sát việc áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm
12
1999 qua hoạt động xét xử của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang trong 150
bản án được lấy ngẫu nhiên, nhận thấy hầu như không có bản án nào là không áp
dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS để quyết
định hình phạt đối với người phạm tội. Tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS được áp
dụng phổ biến và hầu hết trong các bản án, chiếm tỷ lệ lên tới 99,6%, chỉ có 01 bị
cáo trong số 258 bị cáo do không nhận tội thì mới không được áp dụng tình tiết
giảm nhẹ TNHS này. Tình tiết “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
cũng được các áp dụng đối với nhiều bị cáo, chiếm tỷ lệ 41%. Ngoài ra, tình tiết
“người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”
cũng được nhiều HĐXX áp dụng chiếm tỷ lệ 33,3%. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS
còn lại được áp dụng rất ít hoặc không được áp dụng. Trong đó tình tiết “phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt không lớn” quy định tại điểm g chỉ có 2 bị
cáo trong số 258 bị cáo được áp dụng, chiếm tỷ lệ 0,7%, tình tiết “người phạm tội
tự thú” quy định tại điểm o cũng chiếm 0,7 %, các tình tiết quy định tại các điểm đ,
n, q, s mỗi tình tiết chỉ có 01 trong số 258 bị cáo được áp dụng chiếm tỷ lệ 0,3%.
Nhìn chung, công tác xét xử tại TAND huyện Bắc Quang đã có những tiến bộ rõ
rệt, chất lượng xét xử ngày càng được nâng cao. Các HĐXX đã nâng cao tinh thần
trách nhiệm, thận trọng khi áp dụng pháp luật hình sự, cân nhắc khi áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy giữa các HĐXX vận
dụng chưa thống nhất một số tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều
46 BLHS năm 1999.
2.2.2 Thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự hiện hành
Qua khảo sát 150 bản án với 258 bị cáo được xét xử trên địa bàn huyện
Bắc Quang, tỉnh Hà Giang thì số vụ án và số bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS có tỉ lệ tương đối cao, gần 50% số vụ án và bị
cáo đã xét xử. Các tình tiết giảm nhẹ thường xuyên được HĐXX Tòa án nhân dân
huyện Bắc Quang áp dụng đối với các bị cáo như:
- “Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với
nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh
dự......hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước”;
- “ Người bị hại cũng có lỗi” ;
- “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”;
- “Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khỏe của người bị hại, gây
thiệt hại về tài sản”.
Ngoài ra, căn cứ vào quy định cuối tại điểm c “khi xét xử, tùy từng trường
hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án” nên HĐXX Tòa án nhân
dân huyện Bắc Quang cũng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản
2 Điều 46 BLHS trong một số trường hợp tùy theo đánh giá của HĐXX. Nhìn
chung, hầu hết các HĐXX đã xem xét thận trọng, đánh giá toàn diện, khách quan
khi xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại
13
khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999.
Tuy nhiên, qua khảo sát các bản án cho thấy, thực tiễn có những cách hiểu
khác nhau đối với quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS dẫn đến việc vận dụng
không nhất quán, thiếu chặt chẽ, thậm chí tùy tiện. Đây cũng là nguyên nhân làm
giảm tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung của hình phạt được áp
dụng, cũng như không đảm bảo sự bình đẳng, công bằng đối với những
người phạm tội. Nhất là còn có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau đối
với quy định: "Khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của
người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng
phải ghi rõ trong bản án", cụ thể như sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc áp dụng tình tiết khác phải là
những tình tiết mở rộng của các tình tiết đã được liệt kê tại điểm c Mục 5
Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, khi xét xử, Tòa án chỉ dựa vào
“từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tộ i” để xác
định một tình tiết có phải là tình tiết giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 46
BLHS hay không.
Thực tế, tình tiết giảm nhẹ TNHS rất đa dạng nên các tình tiết
được nêu tại điểm c Mục 5 Nghị quyết sổ 01/2000/NQ -HĐTP ngày
04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao chưa bao hàm
hết tất cả các tình tiết giảm nhẹ. Mặt khác, q uy định tại khoản 2 Điều 46 là
quy định mở nên hướng dẫn tại điểm c Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao
hướng dẫn Điều luật nêu trên cũng phải là quy định mở. Do đó, tác giả luận
văn đồng tình với quan điểm thứ hai. Trong thực tiễn có những cách áp
dụng như sau:
+ Xác định tình tiết giảm nhẹ qua việc mở rộng các yếu tố về chủ
thể, phạm vi, điều kiện áp dụng của các tình tiết giảm nhẹ được liệt kê tại
điểm c Mục 5 kết hợp với nội dung mở ở cuối điểm c Mục 5 Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao.
- Đối với tình tiết thứ nhất quy định tại điểm c Mục 5 Nghị quyết
số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao có nội dung: Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị
cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước
tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực
lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỳ nhân dân, nghệ sĩ ưu
tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú
hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước. Khi xét xử,
có HĐXX đã mở rộng “chủ thể” được tặng danh hiệu cao quý có quan hệ
với người phạm tội là “ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cháu ruột kêu
người phạm tội là ông, bà nội, ngoại”. Nhiều HĐXX đã chấp nhận các hình
14
thức khen thưởng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Mỹ cứu nước là
tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
- Đối với tình tiết thứ sáu quy định tại điểm c Mục 5 Nghị quyết
số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao có nội dung: “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt
hại thay cho bị cáo”. Thực tế, có HĐXX đã mở rộng phạm vi chủ thể sửa
chữa, bồi thường thay cho bị cáo vì cho rằng dù gia đình hay là ai bồi
thường thay cho bị cáo mà không có sự tác động của bị cáo thì bản chất sự
việc như nhau; việc mở rộng chủ thể bồi thường trong trường hợp này
không nên giới hạn để nhanh chóng khắc phục, hạn chế hậu quá mà hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra.
+ Xác định tình tiết giảm nhẹ dựa vào những tình tiết giảm nhẹ
được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS.
Trong thực tiễn xét xử, có trường hợp HĐXX đã áp dụng tình tiết
giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 46 BLHS khi người phạm tội chỉ đáp ứng 01 nội
dung đối với những tình tiết giảm nhẹ được liệt kê tại khoản 1 Điều 46
BLHS có 02 nội dung. Chẳng hạn, đối với tình tiết giảm nhẹ quy định tại
điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS, thực tiễn có trường hợp, khi người phạm tội
chỉ có tình tiết “phạm tội lần đầu” thì có Tòa án đã mặc nhiên áp dụng tình
tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS cho người phạm tội; đối với tình
tiết, “người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại” được quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS mà người phạm tội không có trách nhiệm bồi
thường nhưng đã tự nguyện bồi thường thì HĐXX áp dụng tình tiết giảm
nhẹ theo khoản 2 Điều 46 BLHS cho người phạm tội mà không áp dụng tình
tiết giảm nhẹ này theo khoản 1 Điều 46 BLHS.
+ Xác định các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ dựa vào hướng
dẫn ở cuối điểm c Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ -HĐTP ngày 04/8/2000
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao mà không có sự đánh giá
cụ thể nào của HĐXX. Đó là các tình tiết: Đã thu hồi được tài sản do phạm
tội mà có; người phạm tội có tuổi đời còn trẻ; phạm tội do bị lôi kéo, rủ rê;
bị cáo có nhân thân tốt; bị cáo có trình độ văn hóa thấp, am hiểu pháp luật
còn hạn chế; phạm tội do bộc phát, nhất thời; bị cáo bị bệnh nặng hoặc sức
khỏe quá yếu; bị cáo là người lao động duy nhất trong gia đình; hoàn cảnh
gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn; người phạm tội là người dân tộc thiểu số
v.v...
Tác giả xin nêu ra một số vụ án mà trong thực tiễn tại địa bàn
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử li ên quan đến việc cân nhắc, áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 2 Điều 46 BLHS như sau:
Ví dụ thứ nhất: tại bản án số 36/2016/HSST ngày 16/08/2016 của
TAND huyện Bắc Quang đã xét xử đối với bị cáo Hoàng Hồng Quân về tội
“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo
khoản 1 Điều 202 BLHS. HĐXX đã cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ
TNHS tại khoản 2 Điều 46 BLHS và nêu rõ lý do “sau khi phạm tội bị cáo
đã đến Cơ quan Công an huyện Bắc Quang đầu thú; Bố đẻ của bị cáo là
15
người có công với cách mạng, được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương
kháng chiến hạng nhì và hiện là hội viên của hội nạn nhân chất độc da cam
Dioxin tỉnh Tuyên Quang. Trong giai đoạn điều tra người đại diện hợp
pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình ph ạt cho bị cáo”. Trong vụ
án này, HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho
bị cáo là đúng pháp luật.
Ví dụ thứ hai: tại bản án số 45/2013/HSST ngày 13/09/2013,
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử đối với bị cáo Trịnh
Minh Tiến về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 BLHS. Bị
cáo Trịnh Minh Tiến là thương binh nên HĐXX cho bị cáo được hưởng
tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS là hoàn toàn phù hợp với quy
định tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ -HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Ví dụ thứ ba: tại bản án số 31/2016/HSST ngày 30/06/2016 của
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử đối với bị cáo Bàn Văn
Lâm về tội “Giao cấu với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 115 BLHS. Vụ
án có tình tiết như sau: bị cáo Bàn Văn Lâm và người bị hại Lý Thị Linh
(chưa đủ 15 tuổi) quen biết và có quan hệ tình cảm với nhau, cùng xác định
hướng tới hôn nhân. Trong thời gian tìm hiểu yêu đương bị cáo Lâm đã dẫn
cháu Linh về ra mắt bố mẹ cũng như giúp đỡ việc gặ t hái của gia đình. Tuy
nhiên, do không làm chủ được bản thân nên bị cáo Lâm đã thực hiện hành
vi giao cấu với cháu Linh nhiều lần. Do bị cáo Bàn Văn Lâm là người dân
tộc Dao, nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một
phần xuất phát từ sự hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế , nên HĐXX
cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS. Tác
giả luận văn đồng tình với phán quyết của HĐXX.
Ví dụ thứ tư: tại bản án số 66/2013/HSST ngày 16/12/2013 của
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử đối với bị cáo Đặng Văn
Lộc về tội “Cưới tài sản” theo diểm d khoản 2 Điều 133 BLHS. Bị cáo
được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 46 BLHS với lý do
“ông Đặng Văn Mừu- ông nội của bị cáo là người có công với cách mạng ,
được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất vào năm
1997 và năm 2009 ông Mừu cũng được Bộ trưởng, chủ nhiệm UBDT tặng
kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển các dân tộc”. Tác giả luận văn
đồng tình với việc mở rộng “chủ thể” được tặng danh hiệu cao quý như
trong vụ án này.
Ví dụ thứ năm: tại bản án số 68/2013/HSST ngày 20/12/2013 của
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử đối với bị cáo Lê Tuấn
Anh về tội “trộm cắp tài sản” theo Điều 138 BLHS và cho bị cáo được
hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS với lý do “tài sản trộm
cắp đã được thu hồi và trả cho người bị hại”. Tác giả luận văn không đồng
tình với việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo của H ĐXX trong trường
hợp này bởi lẽ tài sản bị cáo đã trộm cắp được cơ quan C ông an thu hồi và
trả lại cho người bị hại. Việc Công an thu hồi lại được tài sản trộm cắp và
16
trả lại cho bị hại không phản ánh được thái độ, khả năng cải tạo cũng như
đặc điểm nhân thân của bị cáo và các yếu tố khác liên quan đ ến tính chất
hành vi của bị cáo.
Ví dụ thứ sáu: tại bản án số 17/2014/HSST ngày 07/04/2014 của
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử đối với bị cáo Mai Ngọc
Huy về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều
140 BLHS và áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Đi ều 46 BLHS đối với
bị cáo nhưng không nêu rõ lý do trong bản án là không đúng với quy định
“Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình
tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”.
Ví dụ thứ bảy: tại bản án hình sự số 08/2 014/HSST ngày
26/02/2014 của TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử đối với
bị cáo Hoàng Thị Lan về tội “Chứa mại dâm” theo Điều 254 BLHS và cho
bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS với lý do
“bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi”. Theo nhiều quy định có thể
thấy những người phạm tội là nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được
hưởng chính sách hình sự đặc biệt hơn người phạm tội khác. Chính vì vậy,
tác giả luận văn đồng tình với việc bị cáo là nữ nuôi con nhỏ dưới 36 tháng
tuổi được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS.
2.2.3 Đánh giá thực trạng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
2.2.3.1 Mặt tích cực
Qua phân tích thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS cụ thể tại
TAND huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang có thể thấy rằng HĐXX vận dụng các tình
tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại Điều 46 BLHS năm 1999 tương đối chính xác,
đúng quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, thực hiện đúng
chính sách hình sự của Nhà nước, nâng cao chất lượng xét xử. Việc cho phép Tòa
án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong từng vụ án đối với
từng bị cáo cụ thể nhằm mở rộng tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động xét xử
của Tòa án, bảo đảm cho hoạt động xét xử được công bằng, chính xác, khách quan.
Nó giúp Tòa án tính toán được sự tương xứng giữa mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội với chế tài hình sự.
2.2.3.2 Hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân
Trong thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS còn có nhiều
trường hợp HĐXX áp dụng một cách tùy tiện không có căn cứ, không đảm
bảo điều kiện luật định. Việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản
2 Điều 46 BLHS phụ thuộc vào sự nhận thức đánh giá của HĐXX không
theo một quy chuẩn nào, do đó còn tùy nghi, không tránh khỏi việc lợi dụng
quy định này để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một cách không có căn cứ,
làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Một số bản án
áp dụng không đúng về nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy
định của pháp luật. Không áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho người phạm tội
trong khi có đủ cơ sở để áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định
của BLHS. Không có nhận định về tình tiết giảm nhẹ trong bản án nhưng
17
áp dụng tại phần quyết định hoặc có nhận định nhưng không áp dụng khi
tuyên quyết định về hình phạt. Còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn do
chưa có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, chi tiết dẫn đến nhiều cách hiểu v à cách
vận dụng khác nhau.
Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trê n là do:
- Các quy định của pháp luật chưa đầy đủ và việc hướng dẫn áp
dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp Trung ương chưa kịp thời, đầy đủ.
- Trình độ chuyên môn chưa được tăng cường và ý thức pháp luật,
trách nhiệm chưa được nâng cao đối với Thẩm phá n.
- Về tổ chức bộ máy cơ quan Tòa án và chính sách đãi ngộ đối với
đội ngũ Thẩm phán chưa phù hợp.
- Đối với lực lượng Hội thẩm nhân dân phần lớn là cán bộ, công
chức, viên chức trong cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập nên
hoạt động xét xử không chuyên, trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế, hơn
nữa chưa có chế tài về trách nhiệm của họ đối với phán quyết của bản án,
quyết định.
- Chưa có bản án nào qua giám đốc kiểm tra án của TAND cấp tỉnh
bị kháng nghị kịp thời về việc vận dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ.
- Chưa có chuyên đề về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong quyết
định hình phạt nhằm nâng cao nhận thức pháp luật và áp dụng đúng khi
quyết định mức hình phạt.
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
3.1 Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự
3.1.1 Mục đích áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Khi xét xử các vụ án hình sự, một trong những phần việc quan
trọng và thường xuyên nhất đối với các thành viên HĐXX là cân nhắc mức
hình phạt cho các bị cáo. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS giữ vai trò là một
trong những căn cứ chủ yếu khi quyết định hình phạt, bảo đảm cho hoạt
động xét xử của Tòa án được chính xác, khách quan, công bằng, hợp lý.
Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự thể
hiện chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, chúng cũng
góp phần thực hiện mục đích của hình phạt “không chỉ nhằm trừng trị
người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội”.
Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt có vai
trò tác động tích cực tới người phạm tội trong việc giáo dục người phạm
tội, hạn chế hậu quả, tác hại của tội phạm, đấu tranh phòng ngừa tội p hạm,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm.
3.1.2 Yêu cầu áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Để áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ TNHS phải đạt được các yêu
18
cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các chủ thể áp dụng pháp luật phải có nhận thức đúng về
các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 46 BLHS năm 1999.
Thứ hai, yêu cầu bảo vệ quyền con người được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 là Hiến pháp vì các quyền và tự
do cơ bản của con người. Do vậy, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
TNHS cũng phải đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người được ghi nhận
trong Hiến pháp.
Thứ ba, yêu cầu thực hiện chính sách hình sự nhân đạo, hướng
thiện của Đảng và Nhà nước ta. Những năm gần đây, chính sách nhân đạo
của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý người phạm tội đã được đề cao, thể
hiện trên nhiều khía cạnh.
Thứ tư, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình
mới. Những năm gần đây, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến phức
tạp, gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt cho xã hội. Việc áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ TNHS cũng phải đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng
chống tội phạm trong tình hình mới.
3.2 Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử
3.2.1 Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong BLHS năm 1999 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2009 tương đối đầy đủ, rõ ràng giúp cho việc áp dụng khi
quyết định hình phạt được chính xác hơn. BLHS năm 2015 hiện chưa có hiệu lực
thi hành đã bổ sung 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS mới so với BLHS năm 1999 đó là:
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của
mình gây ra; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt
nặng; Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công với
cách mạng. Riêng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người già” trong BLHS
năm 1999 được đổi thành “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” trong BLHS
năm 2015. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử vẫn còn có những tình tiết gây ra
nhiều cách hiểu khác nhau nên cần có văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp
luật hoặc cần có những tình tiết trong thực tiễn áp dụng có giá trị giảm nhẹ cần phải
bổ sung vào điều luật. Có như vậy thì quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS
trong Luật hình sự mới ngày càng hoàn thiện, bảo đảm cho việc thực hiện và áp
dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn.
Trước hết, việc cụ thể hóa thêm và đưa thêm một số tình tiết giảm
nhẹ TNHS vào khoản 1 Điều 46 BLHS là rất cần thiết, vì trong thực tiễn và
qua các văn bản hướng dẫn thì nhận thấy mức độ giảm nhẹ ở khoản 1 Điều
46 BLHS sự so với mức độ giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là
có sự chênh lệch và khác nhau rất đáng kể khi quyết định hình phạt. Do vậy,
tác giả xin đưa ra phương án kiến nghị là đưa thêm một số tình tiết giảm
nhẹ theo tác giả là có giá trị pháp lý rất đáng kể vào khoản 1 Điều 46 Bộ
19
luật hình sự. Đó là các tình tiết: Bị cáo là thương binh, Bị cáo là người có
công với Đất nước, người được tặng huân chương kháng chiến , Bị cáo đang
mắc bệnh hiểm nghèo, bị cáo phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu
công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu, chữa cháy, bị cáo mắc
bệnh tâm thần trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, mới tạm điều trị ổn định ,
người bị hại cũng có lỗi.
Thêm nữa, cần phải mở rộng phạm vi áp dụng của tình tiết gi ảm
nhẹ “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả”. Cần phân biệt việc bị cáo tự thực hiện việc bồi thường và việc gia
đình bị cáo tự nguyện bồi thường là tình tiết giảm nhẹ TNHS được áp dụng
tùy theo điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS trong một số trường hợp chưa đảm
bảo tính công bằng, chưa khuyến khích việc sửa chữa, bồi thường, khắc
phục hậu quả của tội phạm một cách kịp thời, nhanh chóng hoặc trong
trường hợp pháp nhân có trách nhiệm bồi thường và đã bồi thường thì người
phạm tội có được hưởng tình tiết giảm nhẹ không? Trong thực tế các vụ án
tai nạn giao thông, nhiều vụ người phạm tội vẫn được Tòa án áp dụng tình
tiết giảm nhẹ này khi quyết định hình phạt. Do đó nên quy định mở rộng
chủ thể đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả để người phạm tội được
hưởng tình tiết giảm nhẹ. Nên nhập chung tình tiết giảm nhẹ người phạm tội
và gia đình người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả, sửa chữa thành tình tiết tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả, sửa chữa quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS.
Đối với tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 46
BLHS, theo quan điểm tác giả nên sửa thuật ngữ pháp luật “tác hại” thành
“hậu quả” để đồng nhất thuật ngữ trong khoa học pháp lý. Bổ sung k hái
niệm trường hợp ít nghiêm trọng (tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS) là
những hành vi của người phạm tội có thể thuộc trường hợp nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng có vai trò thứ yếu (trong
vụ án đồng phạm) bị Tòa án kết án với mức hình phạt cao nhất đến ba năm
tù. Cần có khái niệm thành khẩn khai báo là thái độ của người phạm tội sau
khi thực hiện hành vi trái pháp luật trình bày toàn bộ sự việc vụ án.
Các cơ quan liên ngành Trung ương cần kịp thời hướng dẫn các tình
tiết giảm nhẹ TNHS còn có những quan điểm khác nhau, cũng như hướng
dẫn cụ thể giá trị giảm nhẹ của các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo những
hướng nào, nên quy định cụ thể tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại
khoản 1 Điều 46 BLHS có giá trị giảm nhẹ nhiều hơn các tình tiết giảm nhẹ
hướng dẫn theo quy định tại khoản 2 Điều 46 B LHS cũng như những tình
tiết giảm nhẹ do HĐXX xem xét quyết định trong trường hợp cụ thể. Cụ thể
là:
- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS “gây thiệt hại không lớn” thì cần
hướng dẫn gây thiệt hại về tài sản bao nhiêu là không lớn, gây thiệt hại về
sức khỏe thì có được coi là gây thiệt hại không lớn không và tỷ lệ thương
tích bao nhiêu phần trăm là không lớn, các tội xâm phạm đến danh dự nhân
phẩm hoặc các tội khác thì có được xem là gây thiệt hại không lớn không
20
v.v...
- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS “người phạm tội là người có thành
tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đ ấu, học tập hoặc công tác” cần hướng
dẫn bổ sung là bằng khen ở cấp nào, cơ quan nào, chiến sỹ thi đua ở cấp
nào, huy chương gì, thì được áp dụng tình tiết này.
Đối với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khoản 2 Điều
46 Bộ luật hình sự, để tránh việc áp dụng tùy tiện, thiếu thống nhất thì cần
có quy định hướng dẫn một cách chi tiết hơn. Cụ thể như sau:
- Đối với những tình tiết giảm nhẹ đã được liệt kê tại tại điểm c
Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 ngày 04/8/2000
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, khi mở rộng chủ thể áp
dụng, phạm vi áp dụng hay điều kiện áp dụng phải không vượt quá nội dung
đã được quy định và phải đảm bảo giá trị giảm nhẹ của tình tiết được áp
dụng.
- Đối với những tình tiết được áp dụng là tình tiết giảm nhẹ tại
khoản 2 Điều 46 BLHS mà chưa được liệt kê tại các tình tiết của điểm c
Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì áp dụng phần cuối của điểm c Mục
5 Nghị quyết vì đây là quy định mở. Tuy nhiên, liên ngành các cơ quan tư
pháp Trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn xác định các tiêu chí để
coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 2 Điều 46 BLHS như: Tình tiết
đó phải có ý nghĩa làm giảm nhẹ mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội hoặc góp phần làm giảm bớt tác hại của tội phạm, góp phần bồi
thường, khắc phục hậu quả của tội phạm; Tình tiết đó phản ánh đặc điểm về
hoàn cảnh phạm tội, về nhân thân, hoàn cảnh gia đình bị cáo và những yếu
tố này đã tác động, chi phối đến việc thực hiện hành vi phạm tội của người
phạm tội hoặc thể hiện có khả năng thực tế để giáo dục, cải tạo bị cáo.
3.2.2 Tăng cường tổng kết thực tiễn, thanh tra, kiểm tra việc áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn xét xử. Thường
xuyên tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác ngành trong đó có nội dung
thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Kiểm tra việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 trong kết quả xét xử các vụ
án hình sự. Cần có sự tổng hợp, đánh giá và kết luận những tình tiết nào áp dụng
đúng để áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Làm tốt công tác kiểm tra giám đốc
các bản án của Tòa án các cấp để tìm ra những sai phạm trong việc áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ TNHS để xử lý sai phạm, bảo đảm cho việc áp dụng đúng các
quy định của pháp luật.
3.2.3 Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
của Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng
Trước hết, phải hết sức quan tâm đến việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cơ quan tư pháp, đặc biệt là các Thẩm phán
một cách toàn diện để đảm bảo mỗi cán bộ công chức của ngành Tòa án phải thực
sự là người “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” như chủ tịch Hồ Chí Minh đã
21
dạy. Mặt khác, cần phải xử lý nghiêm khắc, công khai, triệt để những cán bộ có
những biểu hiện, hành vi sá sút về phẩm chất đạo đức, cố tình làm sai các quy định
của pháp luật. Cần chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử, tập huấn chuyên
môn cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Tổ chức tập huấn, hội thảo khoa học cho
người tiến hành tố tụng chuyên đề về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thường xuyên nhắc nhở, động viên, khen thưởng, kiểm điểm kịp thời về ý thức
pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm đối với Thẩm phán và những người
tiến hành tố tụng khác trong công việc.
3.2.4 Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật
hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Hoàn thiện nâng cao chất lượng các văn bản hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật. Cơ quan tư pháp Trung ương cần xây dựng Thông tư liên tịch
hướng dẫn một cách đầy đủ, rõ ràng, khoa học khái niệm chung về tình tiết giảm
nhẹ TNHS và cấu thành cụ thể của từng tình tiết giảm nhẹ. Tòa án Tối cao cần kịp
thời ban hành Nghị quyết hướng dẫn mới của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao
hoặc sửa đổi đối với những điểm hướng dẫn trước đây về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS mà đến nay không còn phù hợp, bổ sung hướng dẫn những điểm chưa được
hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể. Gắn với việc xây dựng là hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật với công tác thi hành pháp luật.
3.2.5 Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
Trong tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng,
nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có mục đích chung là phát hiện, xử lý nghiêm
minh, kịp thời các hành vi phạm tội. Trong những năm vừa qua công tác tư pháp có
nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Tuy nhiên, còn bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt
trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi mà mọi hoạt động chính đều liên quan lớn đến
quyền, lợi ích của công dân thì việc quy định rõ quyền hạn và trên cơ sở đó, xác
định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất quan
trọng, không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn có ý nghĩa
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, sự phối hợp giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng là tất yếu, khách quan. Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình tiến hành tố tụng.
3.2.6 Tăng cường tinh thần thực hiện chức năng, quyền hạn,
nhiệm vụ về kháng nghị theo thủ tục phúc t hẩm, giám đốc thẩm của
VKSND, TAND các cấp (Chánh án, Thẩm tra viên, chuyên viên pháp
luật)
Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra của Tòa án cấp trên đối
với Tòa án cấp dưới nhằm phát hiện kịp thời và khắc phục nhữn g sai sót,
hạn chế về nghiệp vụ. Điều này nói lên trách nhiệm của chuyên viên pháp
luật, Thẩm tra viên phải có “tâm”, “có tầm” nghiên cứu đề xuất đúng quy
định của pháp luật cho Chánh án ký ban hành quyết định kháng nghị; đồng
thời những người này cũng nghiên cứu, đề xuất xem xét kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát có cơ sở chấp nhận hay không khi Hội đồng
giám đốc thẩm, tái thẩm mở phiên họp. Tăng cường trách nhiệm của kiểm
sát viên phát hiện vi phạm tố tụng của Tòa án mà đề xuất Viện trưởng VKS
22
cùng cấp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
3.2.7 Cải thiện chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với cán
bộ công chức; chế độ của Hội thẩm nhân dân
Nghề Thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên là nghề đặc biệt nên cần
phải cải cách chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, chế độ đãi ngộ riêng.
Vì với chính sách tiền lương như hiện nay chưa thực sự đảm bảo được chất
lượng cuộc sống tốt cho cán bộ ngành Tòa án. Trong khi đó khối lượng
công việc của ngành Tòa án ngày càng nhiều đòi hỏi người Thẩm phán
cũng như cán bộ ngành Tòa án phải dành nhiều thời gian, tâm huyết, thậm
chí còn phải đối mặt với không ít nguy hiểm đe dọa mới đạt chất lượng
trong giải quyết án. Do đó, cần phải cải cách chính sách tiền lương và có
chế độ đãi ngộ riêng đối với Thẩm phán cũng như cán bộ, công chức ngành
Tòa, có như vậy mới động viên họ yên tâm công tác, cống hiến lâu dài
trong ngành. Mặt khác chế độ đối với Hội thẩm nhân dân cũng cần được
cải thiện. Hiện nay số tiền bồi dưỡng Hội thẩm nhân dân còn thấp nên chưa
phát huy được sự nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm của họ.
KẾT LUẬN
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết được quy định trong
BLHS, trong các văn bản hướng dẫn thi hành việc áp dụng tình tiết giảm
nhẹ TNHS và những tình tiết do HĐXX cân nhắc, quyết định trong từng vụ
án cụ thể đối với người phạm tội cụ thể nhằm cá thể hóa TNHS đối với
người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình
phạt. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Luật hình sự Việt Nam có một vị trí
vai trò quan trọng trong quyết định hình phạt. Do đó, nắm vững bản chất
pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ TNHS và chính sách nhân đạo pháp luật
hình sự của Đảng và Nhà nước ta giúp cho các HĐXX nhận xét đánh giá
đúng mức độ nguy hiểm hành vi của người phạm tội cũng như khả năng cải
tạo của người phạm tội, từ đó đưa ra những biện pháp xử lý đún g, đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng, công bằng, đảm bảo được quyền con người.
Quá trình hình thành và phát triển các tình tiết giảm nhẹ TNHS là
sự kế thừa có chọn lọc và phát triển phù hợp điều kiện kinh tế, lịch sử của
từng thời đại, những việc kế thừa này là truyền thống nhân đạo, khoan
hồng. Cho đến nay, BLHS năm 1999 quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS
tại Điều 46 với 2 khoản, khoản 1 quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ
TNHS được áp dụng đối với mọi tội phạm và khoản 2 quy định theo hướng
cho phép HĐXX cân nhắc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS khác. Quy
định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS cũng được hướng dẫn trong các văn
bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao và được vận dụng khá linh hoạt trong thực ti ễn xét xử.
Trên cơ sở khảo sát 150 bản án hình sự được thu thập ngẫu nhiên
trên địa bàn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, nhận thấy về cơ bản quy định
tại Điều 46 BLHS hiện hành đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc quyết
23