Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Các bài văn nghị luận ôn thi thpt quốc gia mới nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 84 trang )

Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

CÁC BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
MỚI NHẤT
TÌNH YÊU CÁ NHÂN VÀ TÌNH YÊU ĐẤT NƯỚC QUA SÓNG – XUÂN
QUỲNH VÀ ĐẤT NƯỚC (TRÍCH MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG) –
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Cảm nhận cùa anh (chị) về tình yêu được thể hiện qua hai đoạn thơ sau:
Làm
sao
Thành
trăm
Giữa
biến
Dê ngàn năm còn vỗ

được
con
lớn

tan
sóng
tình

ra
nhỏ
yêu



(Sóng - Xuân Quỳnh)
Em
ơi
em
Đất
Nước
Phải
biết
gắn
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở




xương

máu


của
san

mình
sẻ

Làm nên Đất Nước muôn đời
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
BÀI LÀM
1.


Mở bài:

Có thể nói văn học thời kì chống Mỹ là một bộ phận của công cuộc chiến
đấu giải phóng dân tộc, đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Với trách nhiệm xã hội đó, mặc nhiên tinh thần yêu nước là nội dung bao
trùm của toàn bộ nền văn học. Phẩm chất yêu nước ấy có từ văn học của cha ông
qua các thời đại, mỗi khi dân tộc đứng trước họa xâm lăng, nhưng đến văn học giai
đoạn chống Mĩ được thể hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất, biến thành sức mạnh vật
chất cụ thể nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tồ quốc.


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

Tình yêu đất nước, tình yêu đôi lứa cũng là một đề tài xuyên suốt trong dòng
chảy văn học kháng chiến chổng Mỹ. Hãy cùng cảm nhận tình yêu được thể hiện
rất sâu sắc qua hai thi phẩm Sóng của Xuân Quỳnh và Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm để thấy được tình yêu thời kì này muôn màu muôn vẻ.
2.

Thân bài:


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561


Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

Giới thiệu chung:
+ Xuân Quỳnh là một trong các nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời
chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng người phụ nữ khi yêu, nhiều trắc ấn vừa hồn nhiên, tươi tắn lại vừa đằm thắm, chân thành. Sóng là thi phẩm xuất sắc
của Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh viết bài thơ “Sóng” vào những năm 1967, khi cuộc
kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái
ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân
trường diên ra những cuộc chia ly màu đỏ. Và trong cuộc kháng chiến ấy Xuân
Quỳnh đã hiểu ra rằng thiên nhiên vũ trụ, biển và sóng là hiện thân sinh động cùa
sự sống mãnh liệt, vĩnh hằng. Phải chăng vì thế, qua ngòi bút nhiều nhà thơ, biền
và sóng đã trở thành những biểu tượng quen thuộc diễn tả sự dâng đầy, nỗi khát
khao, niềm sục sôi mê đắm của sức sống, của tình yêu. Sóng của Xuân Quỳnh
cũng nằm trong trường hợp ấy. Thế nhưng qua trái tim yêu của người phụ nữ này
được mang trong một bài thơ lấp lánh với một vẻ đẹp riêng và ngót 30 năm nay, từ
lúc ra đời, từng làm thốn thức trái tim bao người trẻ tuồi, trẻ lòng. Au đó cũng
chứng tỏ cái quy luật muôn đời của giá trị nghệ thuật: cùng vận dụng một chất liệu
nhưng nếu nghệ sĩ nào gửi trọn vào đấy càng nhiều máu thịt của tâm hồn, của cuộc
đời mình thì tác phẩm càng có sức sống lâu bền.
+ Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Thơ ông đã phản ánh khá
sinh động hình ảnh hào hùng của nhân dân ta, đất nước ta trong cuộc dấu tranh một
mất một còn với kẻ thù để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hay nói một
cách khác thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một tình yêu nước, yêu chân lí cách
mạng tha thiết, bộc lộ niềm tự hào dân tộc cao độ, niềm tin chắc chắn vào tương lai
tất thắng của cách mạng. Đặc biệt là Nguyễn Khoa Điềm luôn có ỷ thức nhắc nhở
thế hệ hôm nay và những thể hệ mai sau phải biết gìn giữ và phát huy truyền thống
yêu nước cùa dân tộc. Năm 1971, trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn
thành. Năm ấy, chàng trai Nguyễn Khoa Điềm hai mươi bảy tuồi. Hai mươi bảy

tuổi, cái tuổi đủ để có những cảm nhận chín chắn, sâu sắc và có ý thức dối với tình
yêu đất nước. Hai mươi bảy tuồi, ngọn lửa khát vọng vẫn sáng mãi, cháy mãi với
ước muốn hiến dâng tuổi xuân cho đất nước. Mặt đường khát vọng đã ra đời như
thế. Đoạn trích Đất Nước trích từ phần đầu trường ca Mặt đường khát vọng.
- Cảm nhận về hai đoạn thơ:


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

+ Đoạn thơ trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
++ Nội dung: Đoạn thơ thể hiện cái tôi đầy khao khát.
+++ Khát vọng được hòa thành trăm con sổng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm
con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình
yêu là "Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải
nắm giữ thật chặt" (Christopher Hoare). Tình yêu lửa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như
trăm ngàn con sóng nhò giữa đại dương mênh mông, mong muốn được hoà nhịp
vào biển lổm của tình yêu cộng đồng.
+++ Khát vọng muốn hòa nhập tình yêu của mình để ngàn năm còn vỗ. Đây là khát
vọng muốn được vĩnh cừu hóa, bất tử hóa tình yêu. Người con gái mong muốn hòa
mình vào bể đời rộng lớn , bứt mình ra khỏi những lo toan tính toán, để ngập chìm
trong bể lớn tình yêu. Phải có một tình yêu như thế nào thì mới có được một mong
muốn cao cả đến chừng ấy. Khát vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt
đủ đầy. Cuộc đời còn tình yêu thì cuộc đời còn tươi đẹp và đáng sống và sống
trong tình yêu là một điều hạnh phúc. Xuân Quỳnh mong ước được sống mãi trong
tình yêu, bất tử với tình yêu.
+++ Trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh ta thấy được một tư tưởng nhân

văn: yêu và sự hiến dâng (chữ" hiến dâng" không hiểu theo nghĩa thông tục). Tình
yêu của cá nhân không tách rời cộng đồng. Sự hóa thân, quên mình trong tình yêu
vào thiên nhiên vĩnh cửu để tôn tại mãi mãi, muốn thành trăm con sóng nhỏ để
được sống mãi, yêu mãi. Đó chính là khát vọng được hiến dâng, được hi sinh vì
tình yêu mà chỉ có những người yêu thực sự mới làm được như vậy. Ta hãy chú ý
đến từ chỉ thời gian là “ngàn năm” và “biển lớn tình”. Chuyện tình yêu và hạnh
phúc ở đời thường lả chuv trăm năm “trăm năm giàu nỗi hẹn hò”, “trăm năm biển
nước tình tình - trăm năm là nghĩa là tình mình ta” Xuân Quỳnh chuyện tình yêu
phải là chuyện của “ngàn năm”, biển phải là “biển lớn tình yêu” vĩnh hằng và bất
tử. Động từ “tan ra” trong khổ thơ là đỉnh điểm của cảm xúc, của nỗi nhớ, của lòng
chung thủy và đức hi sinh một cách trọn vẹn.
++ Nghệ thuật:


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

+++ Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm cùa sóng và đặc điểm của người
con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hỉnh tượng song song, nhưng hai
mà một.
+++ Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình
thể của các con sóng, nhu con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng
nhu lúc sóng êm biển lặng.
+++ Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng:
2/3 (Dữ dội và dịu êm - Ôn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nỗi mình - sóng
tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn - từ nơi nào
sóng lên),v.v...

+++ Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như
những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt.
+++ Âm điệu cùa bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự
nhiên cho bài thơ.
+++ Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân
Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ
dội.
+ Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước cùa Nguyễn Khoa Điềm:
++ Nội dung: là lời nhắn của bài thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ với non sông đất
nước.
+++ Bốn câu thơ nhẹ nhàng, chân thành và tha thiết. Cách dùng đại từ “em” gợi
cảm, gần gũi, thân mật đủ đế làm “mềm hóa” những điều mang tính chất rộng lớn
bao quát: đó là những suy niệm về Đất Nước. “Em ơi” trong câu thơ này không
mênh mang dìu dặt đưa người về cõi xa bên dòng sông Đuống, pha lẫn chút vị hư
ảo trong câu thơ toàn vần bằng như “Em ơi buồn làm chi” (Bên kia sông Đuổng Hoàng cầm). “Em ơi” ở đây là lời nói và tâm niệm của chàng trai với cô gái, người
“đánh rơi chiêc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là lời tâm tình của người yêu với người
yêu. Chọn câu chuyện tình yêu nam nữ để nói lên tình yêu đất nước, phải chăng là
Nguyễn Khoa Điềm đã “mạo hiểm”? Không, chính tình yêu đất nước hòa lẫn trong


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

câu chuyện tình yêu nam nữ mới tạo nên nét độc đáo hơn cho tác phẩm của nhà
thơ.
+++Những câu thơ giàu chất nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha
thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó san sẻ,

hoa than, dang hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây
nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất
ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương bởi nó có ý nghĩa biểu
trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như
một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đủng như vậy,
biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế,
mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật
thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm
vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể
sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp cùa những cá nhân rời rạc mà là một
cộng đồng. Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức
lực, mồ hôi cho Tổ quôc. Thời chiên, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự
dâng hiên ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi người
đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia làm
sao đât nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời!
+++ Đoạn thơ là một đoạn thơ hay trong bài Đất Nước. Nhà thơ đã thể hiện những
suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng trữ tình, ngọt ngao. Câu
chuyện về đất nước đổi với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng
liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện
với kẻ thù của dân tộc, hẳn người ta phải biêt làm gì cho Tổ quốc, giang sơn.
++ Nghệ thuật:
+++ Bằng giọng văn trữ tỉnh kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu
khiển, điệp ngữ “phải biết - phải biết nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn
bó, san sẻ, hóa thân” ...nhà thơ như nhẳn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với
mọi người (nhất là thể hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước.
Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn
rất trừ tình, tha thiết như lời tự dặn mình - dặn người cùa nhà thơ.


Cô Diễm Hằng

Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

+++ Sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện
đại, tạo ra màu sẳc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn
học dân gian dược sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian
nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng
của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt
bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tường và
cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
- So sánh:
+ Giống nhau:
++ Tư tưởng của hai đoạn thơ đều là tư tường về tình yêu và sự hi sinh hết mình,
hiến dâng cho tình yêu.
++ Khát vọng của hai đoạn thơ đều lớn lao và cao
thượng. + Khác nhau:
++ Sóng là vẻ đẹp của tình yêu lứa đôi, trong khi đó, Đất Nước là vẻ đẹp tình cảm
cá nhân của con người đối với Tổ quốc.
++ Sóng được diễn tả bằng thể thơ ngũ ngôn với âm điệu phong phú và đậm chất
nữ tính cùa Xuân Quỳnh, Đất Nước được diễn tả bằng thể thơ tự do với không gian
nghệ thuật dậm chất dân gian dã thấm sâu vào tư tường và cảm xúc của tác già.
3. Kết bài:
Qua sự thể hiện tình yêu của Xuân Quỳnh và Nguyên Khoa Điềm trong hai bài thơ
Sông và Đất Nước, ta có thể thấy được sự muôn màu muôn vẻ cùa tình yêu. Nhưng
dù là tình yêu được thể hiện như thê nào, thì cuối cùng nó vẫn được bao hàm trong
tình yêu đất nước, tình yêu cộng đồng to lớn.



Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

So sánh chi tiết “Dòng nước mắt” trong Vợ nhặt – Kim
Lân và Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
Hai đoạn trích sau “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà
ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…
Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân)
và “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào
người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống
những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) đều có sự
xuất hiện của chi tiết “dòng nước mắt”. Anh/chị có suy nghĩ gì về chi tiết này?

Bài làm
Trong vô vàn những tác phẩm văn học Việt Nam, đề tài về người nông dân,
người mẹ trong những hoàn cảnh gian khổ, nghèo đói vẫn chiếm số lượng lớn. Và
“Vợ nhặt” – Kim Lân cùng “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là
những tác phẩm khá tiêu biểu thuộc đề tài đó. Hai tác phẩm của hai tác giả tưởng
như hoàn toàn khác nhau lại cùng gặp nhau ở một chi tiết, đó là chi tiết “dòng nước
mắt” “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân) và
“Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào
người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống
những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn, đó cũng là những
điểm sáng trong sự nghiệp văn học của cả hai tác giả. Hai tác phẩm đều khắc họa

tình người, tình mẹ và chi tiết “dòng nước mắt” chính là một phương tiện để biểu
hiện.
Vợ nhặt là những trang văn mà Kim Lân kể về số phận, cuộc đời của những
người nông dân nghèo trước cách mạng. Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo, cao tuổi chỉ
còn cậu con trai duy nhất là anh cu Tràng. Gia cảnh của bà cũng như biết bao gia
đình khác lúc bấy giờ đó là sự đói kém, nghèo khó đến cùng cực. Vậy mà trong
hoàn cảnh ấy, đứa con trai ngờ nghệch của bà đã “nhặt” về một cô vợ. Ban đầu bà
cũng ngờ vực, ngạc nhiên rồi bất ngờ lắm. Nhưng khi nghe lời giới thiệu của cậu


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

con trai “ Nhà tôi về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà “ bỗng hiểu ra bao nhiêu là cơ
sự”. Và rồi trong suy nghĩ chậm chập vì tuổi tác cua bà cụ Tứ “Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con
đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống
hai dòng nước mắt”. “Dong nước mắt “ chính là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi
phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi và hơn hết là
lo lắng vô cùng. Bà cụ Tứ đã ở tuổi gần đất xa trời, cuộc đời đã rất nhiều đau khổ,
chồng và con gái mất, chỉ còn lại mẹ góa con côi, đắp đổi nuôi nhau qua ngày. Anh
con trai thì lại chẳng sáng sủa để mong lấy được vợ, bà chỉ có mong mỏi lớn nhất
là hy vọng gây dựng được gia đình cho con. Mong ước ấy giản đơn nhưng sao thật
xa vời khi cảnh đói nghèo cứ vây lấy cuộc sống, hiện thực “chết đói như ngả rạ”
khiến bà chẳng còn dám nghĩ đến mong mỏi ấy. Sau biết bao tháng ngày đau khổ
của cuộc đời, dường như bà cụ Tứ đang ở mức tận cùng của bất hạnh trong hiện
thực xót xa của nạn đói 1945 đó. Vậy mà bỗng nhiên con trai bà – anh cu Tràng

đưa về một người phụ nữ, không lễ nghi, không thủ tục nhưng hai đứa con đáng
thương ấy nên vợ nên chồng. Bà cụ Tứ ngổn ngang bao tâm trạng. Mừng vì “người
ta có gặp bước khó khăn này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ
được”, nhưng mừng rồi bà lại tủi, bởi “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”, giá như bà cụ có thể làm được “dăm ba
mâm” thì có lẽ nỗi tủi hờn ấy sẽ vơi đi phần nào, nhưng trong nạn đói lúc bấy giờ
thì đó thực sự là điều quá viển vông, xa xỉ. Và bao trùm lên tất cả là sự lo lắng của
người mẹ “liệu chúng nó có nuôi nổi nhau, cuộc đời chúng nó có khá hơn cuộc đời
vợ chồng bà trước kia không”. Trong những cảm xúc ngổn ngang ấy, “kẽ mắt kèm
nhèm của bà cụ rỉ xuống những dòng nước mắt”. Tác giả đã để cho dòng nước mắt
ấy “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời với toàn những năm tháng khốn khổ dường như bà
cụ đã cạn khô nước mắt rồi. Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương Khuê cũng đã
từng viết “tuổi già hạt lệ như sương/Hơi đây ép lấy hai hàng chứa chan" hay Nam
Cao khi mieu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiên cho họ
dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những
dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi. Kim Lân đã để chân dung bà cụ
Tứ hiện lên qua chi tiết “kẽ mắt kèm nhèm” – một bức chân dung đầy khổ hạnh
của người nông dân lớn tuổi. Dòng nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là biểu hiện
của nỗi đau khổ, tủi phận mà còn là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng, mừng
hay tủi hay lo lắng cũng đều xuất phát từ tình thương con đến thắt lòng, từ trái tim


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

nhân hậu của người mẹ. Có thể nói, chi tiết “dòng nước mắt” đã thể hiện giá trị

hiện thực và giá trị nhan đạo sâu sắc. Chỉ “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ nhưng ta
có thể thấy được tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945.
Đặc biệt, đó còn là sự cảm thông thương xót những người nông dân khốn khổ, là
sự tố cáo xã hội, tố cáo giai cấp thống trị đã đè nén áp bức người dân. Nhưng đặc
biệt nhân đạo ở đây là sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ mà Kim Lân dành
nhiều tâm huyết vào ngòi bút của mình. Chi tiết “dòng nước mắt” còn mang giá trị
nghệ thuật đặc sắc. Dù chỉ là chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lại rất
lớn, diễn tả chân thực, sinh động nội tâm nhân vật.
Còn lý do vì sao mà tác phẩm của Nguyễn Minh Châu lại có sự xuất hiện
của “Dòng nước mắt”. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm mà ông nói về cuộc đời
của người dân trong thời kì sau cách mạng, thời kì còn nhiều u tối, khó khăn.
Phùng – một nghệ sĩ luôn đi tìm cái đẹp đã vô tình bắt gặp và rồi đắm say trước
hình ảnh của chiếc thuyền mờ ảo hiển hiện trên sông. Nhưng anh đâu biết rằng,
đằng sau đó là bi kịch bạo lực của một gia đình. Người đàn bà hàng chài hằng ngày
phải gánh chịu những trận đòn dã man của người chồng – người chịu áp lực mưu
sinh nuôi sống cả một gia đình đến 9, 10 người con trong hiện thực đói nghèo. Và
rồi, thằng Phác, con trai chị đã xông đến đánh chính cha mình để bảo vệ cho mẹ để
rồi nhận hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề
hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm
hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”Nếu chi tiết “dòng nước
mắt” của bà cụ Tứ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận, xót xa thì “dòng nước
mắt” của người đàn bà hàng chai là biểu hiện của sự đau đớn bởi hoàn cảnh gia
đình bế tắc. Gia cảnh nghèo khó, thuyền chật lại đông con chín mười đứa khiến
khó khăn chồng chất khó khăn, số lượng cá bắt được thì không đổi nhưng nhu cầu
thì ngày càng tăng, con ngày một lớn hơn khiến gia đình người đàn bà hàng chài
càng túng bách, bế tắc. Điều đó làm người chồng phải tìm cách giải tỏa nhưng lại
giải tỏa bằng cách đánh vợ, bằng bạo lực gia đình, một cảnh bạo lực không lối
thoát, không biết bao giờ có thể kết thúc bởi chỉ khi nào gia đình ấy thoát khỏi đói
nghèo, tìm hướng đi cho riêng mình thì mới hy vọng thoát khỏi thảm cảnh ấy.
Nhưng điều đó liệu có xảy ra được không khi cái nghèo ngày một lớn, cảnh bạo

lực ngày càng trầm trọng them. Kéo theo đó là tội ác trái luân thường đạo lí của
thằng con và nỗi lo lắng của người đàn bà về sự phát triển nhân cách lệch lạc của
những đứa trẻ tội nghiệp thường xuyên phải chứng kiến cảnh cha chúng đánh mẹ


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

một cách không thương tiếc. Và “dòng nước mắt” một lần nữa là biểu hiện của tình
mẫu tử thiêng liêng. Chị khóc vì thương con. Khi chồng đánh, chị không hề có bất
kì phản ứng nào, không chạy trốn, không chống trả chỉ đứng im chịu đòn, cam chịu
đến mức trong con mắt của Phùng và Đẩu thì sự cam chịu ấy là bắt nguồn từ việc
thất học, từ sự u mê tăm tối. Thế nhưng trước hành động của thằng con, nó lao đến
bố mình như một viên đạn rồi đánh bố mình và sau đó nhận hai cái bạt tai của bố
ngã dúi xuống cát, chị như sực tỉnh. Hành động của thằng con như một viên đạn
xuyên qua tâm hồn người đàn bà để thức dậy nỗi đau tận cùng. Chị khóc, chị mếu
máo, vái lạy con rồi lại buông ra…Vô cùng đau đớn! Chị không chỉ cảm thấy
thương con, xót xa cho con mà còn cảm thấy có lỗi với con nữa. Thân là một người
mẹ nhưng chị chẳng thể che chắn, bảo vệ cho con, mang đến cho chúng tuổi thơ
trong trẻo yên bình. Những cảnh bạo lực gia đình cứ tàn nhẫn ăn sâu vào kí ức
hàng ngày của chúng, cảnh cha mẹ bất hòa đã làm lệch lạc những suy nghĩ, nhận
thức và hành động của những đứa trẻ tội nghiệp. Chị nhận lỗi về mình, nhận lỗi vì
không thể nuôi dạy những đứa con cho tốt. Ai dám chắc rằng khi chúng lớn lên sẽ
không trở thành những hung thần bạo lực, những hung thần thậm chí còn kinh
khủng hơn bố nó trước kia. Chỉ một chi tiết “dòng nước mắt” mà truyền tải nội
dung ý nghĩa thật lớn, mang đến cho người đọc cái nhìn sâu thẳm vào nội tâm nhân
vật, dồng thời mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nó đã phơi bày tình cảnh

xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước đổi mới 1986. Một hiện thực khổ
ải vì nghèo đói, vì tăm tối, vì bạo lực…Con mắt nhân đạo của Nguyễn Minh Châu
được thể hiện qua sự cảm thông, thương xót cho số phận của người đàn bà hàng
chài hay cũng như biết bao người phụ nữ đáng thương, tội nghiệp như vậy trong xã
hội đương thời. Bên cạnh đó, ông còn dùng ngòi bút của mình cất lên lời trân
trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ. Trong nỗi đau, người mẹ vẫn cam
chịu, vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận cho chồng đánh để chồng giải tỏa phần nào áp lực
từ cuộc sống đói nghèo để rồi tiếp tục cùng mình bươn chải, mưu sinh lo toan cho
gia đình, nuôi lớn các con.
Chi tiết “dòng nước mắt” của cả hai tác phẩm đều có những điểm chung. Đó
đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói
và khốn khổ, là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào ra
từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hy sinh. Bên cạnh đó, hai chi tiết đều
góp phần thể hiện giá trị nội dung và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực
xã hội trong những thời điểm khác nhau, thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả và cho
thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa
chọn chi tiết đặc sắc.
Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau nên dòng nước mắt cũng mang
nỗi niềm riêng. Chi tiết “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu
Tràng “nhặt” được vợ, bà cụ tuy cảm thấy ai oán, xót xa và thương cho số kiếp đứa
con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình nhưng phía trước bà cụ là ánh

sáng của hạnh phúc nhen nhóm. Còn “dòng nước mắt” của người đàn bà hàng chài
chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le,
ngang trái của gia đình chị diễn ra trước mắt nghệ sĩ Phùng. Chị cảm thấy đau đớn,
nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con.
Tội nghiệp thay khi phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc. Để khắc họa chi tiết
“dòng nước mắt”, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị còn
Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.
Cùng gặp nhau ở những điểm chung bởi cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu
đều cùng hướng đến đề xuất giải pháp cách mạng từ nỗi đau của chính nhân vật và
cùng ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống. cùng là nhà văn nhân
đạo và hiện thực sâu sắcThế nhưng hoàn cảnh va tương lai khác bởi các chi tiết
được tạo nên trong những bối cảnh khác nhau. Kim Lân viết sau khi cách mạng
thành công viết nên từ cảm quan lạc quan Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại,
ông không thể chắc chắn rằng liệu tương lai có tốt đẹp hơn với người phụ nữ hàng
chài đáng thương không. Đồng thời phong cách mỗi tác giả luôn có sự khác biệt
không trộn lẫn. Vì thế cùng là chi tiết dòng nước mắt nhưng mỗi ngòi bút lại có
cách tiếp cận riêng, tạo ấn tượng riêng nơi người đọc.
Chi tiết “dòng nước mắt” ở hai tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân và Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đều đạt thành công cả về nội dung và
nghệ thuật. Tất cả mang đến những màu sắc riêng biệt để người đọc tìm đến văn
học, tìm đến hiện thực, tìm đến các giá trị nhân văn với nhiều cánh cửa khác nhau.


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

Hướng dẫn tìm hiểu văn bản


HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT – LƯU QUANG VŨ
( Trích kịch nói )

I.

Đặc điểm thi pháp:

1. Lưu Quang Vũ (1948 – 1988 ):
- quê gốc ở Đà Nẵng, nhưng sinh ra và trưởng thành ở Phú Thọ và Hà Nội.
Ông từng tham gia quân đội thời kì kháng chiến chống Mỹ và sống lăn lội,
sôi nổi, mưu sinh bằng những công việc lao động cực nhọc, những hoạt
động nghệ thuật và sáng tác thơ, truyện, kịch,… Từ 1978 trở đi, với một
nguồn sáng tạo và một nỗi trăn trở về con người, cuộc sống của đất nước,
nhân dân trong bước đầu đổi mới, Lưu Quang Vũ chuyển sang viết kịch nói.
Trong vòng 10 năm, ông đã viết gần 50 kịch bản, gây tiếng vang lớn, trở
thành nhà viết kichk hàng đầu của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện
đại.
- kịch của Lưu Quang Vũ đề cập đến những vấn đề nóng hổi của cuộc sống,
vừa thấm đẫm cảm hứng nhân văn, vừa có chiều sâu triết lý. Trong mỗi tác
phẩm, cây bút ấy đã xây dựng được nhiều xung đột kịch rất hấp dẫn, nhiều
nhân vật giàu tính biểu tượng, gợi những bài học nhân sinh sâu sắc.
2. Tác phẩm và đoạn trích:
a. Tác phẩm: Dựa vào một truyện dân gian, Lưu Quang Vũ sáng tạo câu
chuyện về cuộc sống con người bị đẩy vào cảnh ngộ trớ trêu (bên ngoài một
đằng, bên trong một nẻo) đã đấu tranh, vươn tới cuộc sống đích thực là
mình, thanh cao, trong sạch
b. Đoạn trích trong SGK:
- Thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và
quyết định vô cùng của cao thượng của hồn Trương Ba, từ đó sáng lên ý

nghĩa nội dung và giá trị vở kịch.
- Về nghệ thuật: đoạn trích xây dựng những xung đột kịch rất căng thẳng, hấp
dẫn, vừa có tính hiện thực vừa lãng mạn, huyền ảo: cuộc tranh luận giữa hồn
Trương Ba với da hàng thịt; cuộc trờ chuyện giữa hồn Trương Ba với vợ con
và những đề bạt của hồn Trương Ba với tiên ông Đế Thích…Ngôn ngữ kịch
rất sinh động, hài hòa chất khẩu ngữ đời thường với chất triết lí lắng sâu. Từ


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

ngôn ngữ và hành động, các nhân vật hiện lên với tính cách rất sôi động,
mang ý nghĩa nhân sinh, gần gũi, thú vị.

II.

Gợi ý giải mã:

1. Nhân vật hồn Trương Ba:
1.1. Cảnh ngộ:
- Từ một người nông dân hiền lành, nhân hậu, yêu thương vợ con, quý mến
bạn bè, được mọi người tôn trọng, Trương Ba bị chết đột ngột. Cái chết của
ông không phải do tuổi già, bệnh tật hay số mệnh mà do sự tắc trách của hai
vị tiên trên trời ( Nam Tào và Bắc Đẩu) gạch nhầm sổ sinh mệnh của con
người trần gian. Để sửa lỗi, trời sai tiên ông Đế Thích xuống trần cho
Trương Ba sống lại. Nhưng vì quá muộn, xác Trương Ba đã bị hủy hoại nên
Đế Thích đành để hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt – người cùng

xóm, vừa chết. Do đó, xảy ra bao nhiêu trớ trêu, bao nhiêu xung đột.
- Trong đoạn trích, ông Trương Ba xuất hiện bằng hồn của mình mang một
cảnh ngộ thật éo le, đau khổ: bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, không
được là mình toàn vẹn. Đó là một cuộc sống nhờ, sống giả dối, thiếu trung
thực, trái với tự nhiên,…
1.2. Đặc điểm tính cách, phẩm chất: Để thể hiện là con người lương thiện,
hồn Trương Ba đã luôn day dứt, dằn vặt và liên tục đấu tranh. Cuộc đấu
tranh ấy diễn ra ở ba xung đột:
a. Xung đột thứ nhất: Hồn Trương Ba tranh luận với xác hàng thịt
Hồn Trương Ba
Lần thứ
- Phê phán xác hàng thịt “Chỉ
nhất
là vỏ bên ngoài, không có ý
nghĩa gì hết, không có tư
tưởng, không có cảm
xúc,…”

- Hồn Trương Ba mắng lại: Ta
vẫn có đời sống riêng,
nguyên vẹn, trong sạch,
thẳng thắn.

Xác hàng thịt
- Phản bác lại: nêu rõ vai trờ
và lợi ích của cái xác, của
phần vỏ bên ngoài: giúp hồn
Trương Ba rung động trước
người đàn bà trẻ - vợ hàng
thịt, giúp hồn Trương Ba

thưởng thức những món
ngon: tiết canh, thịt lợn,…


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

Lần thứ Hồn Trương Ba tiếp tục phủ nhận
hai
vai trò của xác hàng thịt: ta cần gì
sức mạnh làm ta trở nên tàn bạo
Lần thứ
ba





Xác hàng thịt kể công: tôi đã cho
ông sức mạnh để ông tát vào mặt
người con trai hư đốn
Xác hàng thịt đề nghị hai bên giảng
hòa, rồi động viên hồn Trương Ba
chấp nhận cuộc sống đang có “Ông
đừng tự dằn vặt làm gì. Tôi đâu
muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất
cần đến ông. Thôi đừng cãi nhau

nữa. Không còn cách nào khác đâu,
phải sống hòa thuận với nhau thôi”

Lý lẽ của xác hàng thịt chứa đựng nhiều điều đúng đắn, đây sức thuyết phục.



Đây chính là cuộc xung đột giữa thể xác ( phần bản năng ) và tinh thần
(phần ý thức ) của con người. Trong cuộc đấu tranh này, phần bản năng đã
thắng phần ý thức. Hồn Trương Ba, đành chấp nhận cúi đầu chấp nhận cuộc
sống thực tại. Nhập vào xác hàng thịt, ông ngồi lặng lẽ trên chõng, cô đơn,
đau khổ


Bị kịch thật đáng thương.

b. Xung đột thứ hai: Hồn Trương Ba trò chuyện với người thân, mong tìm
được sự cảm thông, giúp mình vượt qua cảnh ngộ
Với bà vợ:
- Hồn Trương Ba ôn tồn hỏi về cái Gái – đứa cháu nội, thằng vu Tị hàng xóm
đang ốm
- Bà vợ trách ông hờ hững với mọi người rồi hờn mát: “Cái thân tôi sao trời
không bắt đi cho rảnh…” Bà quyết định bỏ nhà đi để “ Ông được thanh thản
với cô vợ người hàng thịt”
- Hồn Trương Ba không hiểu sao người vợ ông rất đỗi yêu thương bây giờ lại
hờn dỗi, ghen tuông với mình như thế. Ông cố ngăn cản , nhưng trong suy
nghĩ người vợ “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn
ngày nào … Tôi không giúp gì được ông. Tốt nhất là không có tôi nữa”
Với đứa cháu nội – cái Gái:
- Hồn Trương Ba cầu cứu, gọi cháu nhưng đứa cháu vừa về nhà đã nặng lời

với ông “Tôi không phải là cháu ông”
- Hồn Trương Ba cố ôn tồn giải thích, thuyêt phục cháu nhưng cái Gái vẫn
một mực chối từ, rồi xa lánh ông. Nó nói như quát mắng “Ông nội tôi chết


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

rồi…Ông xấu xa lắm, ác lắm…Cút đi, lão đồ tể, cút đi”. Đứa cháu bỏ chạy
khiến hồn Trương Ba choáng váng, hụt hẫng, không thể níu giữ được.
Với người con dâu
- Chị về nhà tìm con, thấy hồn Trương Ba đang run rẩy, bèn đến gần an ủi.
Chị nói “Khổ thân thầy”. Ngỡ người con dâu thấu hiểu, thương cảm, hồn
Trương Ba nguôi ngoai chút ít
- Người con dâu cố an ủi ông “Con biết giờ này thầy khổ hơn xưa nhiều lắm,
mà u con cũng khổ…Nhà ta như sắp tan hoang ra cả…” Hồn Trương Ba dần
dần nhận ra hâu quả cuộc sống của mình hiện nay, đúng như lời người con
dâu nói: “ Có lẽ cái ngày mà u con chon thầy xuống đất, tưởng thầy chết
hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”
- Cuối cùng, người con dâu cũng nói ra sự thật phũ phàng rằng mỗi ngày hồn
Trương Ba một đổi khác, mất mát dần…đến nỗi chính cô cũng không nhận
ra nữa “ Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi…làm sao giữ được thầy ở lại,
hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy chúng con xưa”



Mặc dù cố thuyết phục với gia đình nhưng càng cô thì hồn Trương Ba càng

thất bại. Đây là xung đột, là mâu thuẫn giữa “tình cảm đôn hậu, yêu thương”
với “hành động vụng về, thô bạo “ của Trương Ba. Ông đau đớn vô cùng
nhận ra mình là kẻ giả dối, bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo
- Nhưng rồi ông chợt bừng tỉnh, rồi tự dằn vặt, phê phán mình “Cái thân xác
không phải của ta…Lẽ nào tao chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh
mất mình?” , “ Chẳng còn cách nào khác” , “Không cần cái đời sống do mày
mang lại, không cần”



Đây là giây phút bản chất lương thiện của người nông dân Trương Ba trỗi
dậy và đấu tranh với chính mình, để chiến thắng chính mình. Cuối cùng, ông
quyết định gọi tiên Đế Thích xuống trần.
c. Hồn Trương Ba tranh luận và thuyết phục Đến Thích giải thoát cho mình:
Đây là cuộc đấu tranh giữa sự sống và cái chết
- Mở đầu, hồn Trương Ba đề đạt nguyện vọng một cách thẳng thắn: “Không
thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
vẹn”. Đế Thích giải nghĩa để hồn Trương Ba hiểu cảnh ngộ như của ông là
chuyện hoàn toàn bình thường ở đời, dưới hạ giới con người vẫn sống như
thế. Lí lẽ và thực tế thật đáng sợ, không dễ gì con người trối bỏ, hoặc phủ
nhận…


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

- Hồn Trương Ba phân tích bi kịch của kẻ sống nhờ, sống giả dối “Sống nhờ

vào đồ đạc, của cải của người khác là chuyện không nên, đằng này đến cái
thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Từ thực tế đau khổ của mình,
hồn Trương Ba phê phán sai lầm của Đế Thích “Ông chỉ nghĩ đơn giản là
cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng biết”. Vừa bằng lí lẽ, hồn
Trương Ba vừa đưa ra biện pháp cụ thể : Trả lại xác cho anh hàng thịt, còn
hồn mình thì ở đâu cũng được. Nếu không ông sẽ nhảy xuống sông hoặc
đâm một nhát dao vào cổ cho hồn ông chẳng còn mà xác anh hàng thịt cũng
mất.



Lí lẽ của hồn Trương Ba thật sắc bén, biện pháp của ông thật cụ thể, nguyện
vọng của ông thật da diết. Giữa sự sống và cái chết, ông tự nguyện giũ bỏ

cuộc sống giả dối, sống nhờ để nhận lấy cái chết thanh cao, để được “là tôi
toàn vẹn”, hồn và xác hòa hợp, thống nhất
- Đế Thích cũng đưa ra biện pháp: Trả lại xác hàng thịt, cho hồn Trương Ba
nhập vào cu Tị - dứa trẻ hàng xóm vừa mới chết. Thật là một giải pháp kì
quặc, sửa sai lầm này, Đế Thích lại phạm phải sai lầm khác “ Có những cái
sai không thể sửa chữa. Chắp vá gượng ép chỉ làm sai them. Chỉ có một cách
là đừng bao giờ sai nữa, hoặc là bù bằng một việc đúng khác”. – Hồn
Trương Ba vừa tiếp tục phê phán vị tiên trên trời, vừa nhắc nhở con người
nơi hạ giới.
- Cuối cùng, hồn Trương Ba quyết định: trả lại xác cho anh hàng thịt, giúp cu
Tị sống lại còn mình thì chết hẳn. Thấy Đế Thích phân vân, ông nhấn mạnh
và dứt khoát “ Không thể sống với bất cứ giá nào được…Từ lúc tôi đủ can
đảm để đi đến quyết đinh này, tôi thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn
trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”.
- Không tìm được giải pháp nào tốt hơn thế, Đế Thích đành chấp nhận nguyện
vọng của Trương Ba với thái độ vừa kinh ngạc vừa nể phục “ Con người

dưới hạ giới các ông thật kì lạ”. Điều kì lạ ở nhân vật hồn Trương Ba là gì là
điều mà Lưu Quang Vũ bỏ ngỏ nơi mỗi người đọc kịch, xem kịch,…
1.3. Đánh giá: Qua mỗi xung đột kịch, Trương Ba vừa nhận thức rõ hơn bi
kịch của số phận mình vừa bền bỉ đấu tranh để vượt qua bi kich. Đỉnh
cao của cuộc đấu tranh là xung đột thứ ba, hồn Trương Ba gặp Đế Thích.
Đây chính là cuộc đấu trong bản thân Trương Ba. Ông đã vượt lên chính
mình, bằng tấm lòng vị tha, nhân hậu cao cả, nhường sự sống cho người
khác, chấp nhận cái chết về mình để không phải sống nhờ, để được là


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

mình toàn vẹn, trong sach, thanh thản…Tinh thần và cách ứng xử này
dũng cảm và cao đẹp biết bao. Đoạn kết của vở kịch là một vĩ thanh
khẳng định sự bất tử của hồn Trương Ba, tuy ông ra đi vĩnh viễn nhưng
hương hồn thanh cao, trong sạch của ông mãi mãi trong lòng của những
người thân yêu, bà con làng xóm,…Nhân vật được xây dựng bằng bút
pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, đậm chất triết lí sâu sắc.
2. Nhân vật Đế Thích:
- Có lòng tốt, biết trân trọng người tài
- Nhưng đã phạm sai lầm đáng tiếc
- Biết lắng nghe ý kiến đúng để sửa chữa sai lầm, đem lại cho người khác
cách sống đúng, niềm vui chân chính
- Là nhân vật của cảm hứng lãng mạn nhưng cũng đậm chất hiện thực và
mang những ý nghĩa triết lý sâu sắc


III. Tổng kết:
1. Tuy chỉ là một màn kịch nhưng đoạn trích trong SGK hàm chứa tư tưởng
của cả vở kịch: Được sống làm người thực sự là điều quý giá mà ai cũng
mong muốn nhưng được sống là mình trọn vẹn với những giá trị mình vốn
có còn ý nghĩa hơn nhiều. Sự sống chỉ có giá trị khi con người được sống tự
nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Muốn vậy, cần có những đấu tranh
với chính mình, chống lại mọi sự gian dối, mọi biểu hiện của lối sống ỷ lại,
dựa dẫm người khác để từng bước hoàn thiện nhân cách, vươn tới những giá
trị làm người cao quý,…
2. Nghệ thuật: Màn kịch xây dựng nhiều xung đột hợp lý, hấp dẫn, nhân vật
kịch có nhiều ngôn ngữ đối thoại sinh động giàu chất triết lý, thể hiện đậm
nét tính cách nhân vật.


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Nguyễn Khải
I. Giới thiệu chung: 1.
Tác giả:
- Gia đình: {bố:



quan lại, dòng dõi mẹ: bình dân


Có cái nhìn của con người bên ngoài giới thượng lưu

- Cuộc đời: {còn nhỏ:

sống chủ yếu với mẹ → khó khăn, gian khổ vào bộ đội: bắt đầu trải nghiệm với quân đội

- Phong cách sáng tác: là cây bút xông xáo, đi vào nhiều vấn đề mang tính
chất nhạy cảm
- Đề tài: tiên phong đi đầu những đề tài mang tính thế sự “Tôi thích những cái
bề bộn, cái ngổn ngang của đời sống” – Nguyễn Khải
- Sự
nghiệp
sáng
tác:
{sau 1978: cảm hứng triết luận, có sự quan tâm đến số phận, cá tính con người

trước 1978: ngòi bút thiên về tính chính luận

2. Tác phẩm: thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai, rút trong tập truyện “Hà Nội
trong mắt tôi” tiêu biểu cho quan niệm sáng tác của Nguyễn Khải trong thời
kì đổi mới.
II.
Tìm hiểu tác phẩm:
1. Chân dung cô Hiền – Chân dung một người Hà Nội:
1.1. Chân dung một con người cá tính:
- Được thể hiện qua rất nhiều thời điểm, giai đoạn và biến cố lịch sử. Ở thời
nào, trong bất kì giai đoạn nào, cô cũng luôn là mình, không lẫn vào đám
đông
- Thời thanh xuân ( Dưới chế độ phong kiến )
+ Gia đình: bố mê văn chương, mẹ buôn nước mắm

+ Cô Hiền: Sống cá tính, phóng khoáng, không bị gò bó trong quan niệm cũ,
giao lưu, quen biết rộng => Một con người dình đám của thời ấy
+ Lấy chồng: lấy một ông giáo Hà Nội hiền lành => Cả Hà Nội ngỡ ngàng


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

- Cách ứng xử ( 1954): vẫn ở lại Hà Nội => Sự bản lĩnh ( Lý do: không thể rời
xa Hà Nội )
+ Ăn: Khác cách ăn dân dã bình dân: Trải khăn trắng ở bàn ăn, giữa bàn bày
lọ hoa, đũa bọc trong giấy, bát úp trên đĩa…
+ Mặc: Sang trọng
+ Ở: nhà rộng, mặt tiền nhìn hẳn thẳng vào hậu cung của đền Ngọc Sơn
+ Nuôi người ở ( trong chế độ xóa bỏ việc người bóc lột người )
- Thời kì chiến tranh: Vẫn giữ nếp sống của những người thượng lưu Hà Nội
- Hà Nội đổi mới: Cô Hiền vẫn cứ là mình ( sập gụ, tủ chè, bát men thủy
tinh,..)
+ Dù ở rộng nhưng vẫn không cho thuê hay bán lại
+ “Trong khi cả thiên hạ lên tàu Lạng Sơn…” cô vẫn ăn một cái tết rât Hà
Nội



Quan điểm: Con người thuộc về lịch sử nhưng không phải trùng khít với lịch
sử. Con người có quyền khẳng định giá trị cá nhân mình. Sẽ là bất nhân nếu


chúng ta chỉ quan tâm đến toàn thể mà bỏ qua năng lực cá nhân, không thể
chỉ khăng khăng dây thước đo cộng đồng mà loại trừ giá trị cá nhân
- Đối thoại giữa cá nhân với lịch sử:
+ “ Nước độc lập vui quá cô nhỉ?” – “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều,
phải nghĩ đến làm ăn chứ” => Nhìn ra tâm lý say mê, ngủ quên trong chiến
thắng, tâm lý con người chua đủ vững vàng để hưởng thụ chiến thắng ấy.
+ “ Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá” => Quá can thiệp vào
đời tư, áp đặt, ngăn cản sự tự do của cá nhân.
+ Buồn vì cách xưng hô trong gia đình “Đồng chí Khải” => Không thể đem
không gian xã hội để vào không gian gia đình



Cuộc tranh luận với lịch sử đã phản ánh nhiều vấn đề: Lịch sử là bất toàn, là
không trọn vẹn, con người có quyền được chất vấn, đối thoại với lịch sử.
Những cá nhân có năng lực xây dựng
 cá tính của mình là những cá nhân có
khả năng thúc đẩy lịch sử phát triển
1.2. Cô Hiền con người tôn trọng cộng đồng ( Mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng ).
- Là con người thức thời, tỉnh táo nhưng cũng là con người biết tôn trọng cái
chung, biết tôn trọng pháp luật
+ Những năm 54:


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561









Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

Bán ngôi nhà ở Hàng Bún
cho một người bạn bởi chế độ không chấp
nhận việc sở hữu nhà đất
Sống bằng nghề làm hoa giấy: ngăn chồng mở hàng in ( bởi nó không
phù hợp với xã hội 
), không thuê mướn, sống đủ => Sống đúng với
chế độ => thức thời.

+ Cho con đi bộ đội:

 ▪ “ Tuy đau đớn mà bằng lòng…”

 Khi ta sống trọn với bản thân mình chúng ta mới biết nghĩ cho người khác

 Sống công bằng: cô Hiền là một cái tôi biết sống trọn với cái tôi của mình



“Tao cũng muốn được sống …hay hớm gì”

 Trách nhiệm với cộng đồng bắt nguồn từ ý thức về cái tôi của mình






Cô Hiền là con người có cá tính đồng thời là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời.
1.3. Cô Hiền – chân dung con người sống có văn hóa:
- Lối sống: giàu sang, sang trọng không phải sự giàu có ( tác giả không miêu
tả đồ ăn hay quần áo mà miêu tả cách ăn, cách mặc lịch sự theo nếp của gia
đình)
- Quan niệm: Văn hóa là chuẩn mực. Xã hội có thể không phân chia giai cấp
nhưng cần có sự phân chia đẳng cấp, và đẳng cấp ấy phải lấy văn hóa là
thước đo
- Chi tiết cuối truyện “ Một người như cô … ánh vàng”: Những bụi vàng như
cô Hiền phải chìm sâu xuống lớp đất cổ để làm nền tảng cho những thế hệ
sau này, không phải để bay lên. Cô Hiền sống để truyền lửa cho những thế
hệ sau chứ không phải để được vinh danh.



Tác giả đề cao vai trò của tính nữ, vai trò của nếp sống.
2. Nghệ thuật trần thuật: Chân dung cô Hiền hiện lên với cách kể chuyện
khác:
- Người kể chuyện xưng tôi: tạo tính chất đối thoại
+ Lời của “tôi”: điểm nhìn cá nhân ( có thể đúng/sai/vừa đúng vừa sai)
+ Không nhất thiết phải là ý kiến duy nhất, phủ định tính duy nhất , mở ra
khoảng đối thoại => Tính đa thanh, đa giọng điệu trong câu chuyện



Câu chuyện với đường biên rộng

hơn, tạo nhiều khoảng để đánh giá, không
bị bó hẹp hay áp đặt quan điểm
- Kết cấu câu chuyện: Ngẫu hứng, không theo mạch thời gian nhất định


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561



Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

Cách nhìn của Nguyễn Khải: quan tâm đến những cái ngổn ngang, bề bộn
trong cuộc sống – một cuộc sống
 đa chiều vốn có với nhiều phức tạp. => Cái
nhìn tự nhiên, chân thực hơn.
- Cái nhìn cuộc sống: Nhìn đời sống như nó vốn có, phải biết chấp nhận,
xuyên qua những cái bất toàn không hoàn hảo, không giữ thái độ chủ quan
định kiến khi nhìn cuộc đời.


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
I.


Đặc điểm thi pháp:

1. Tác giả: Nguyễn Tuân
- Là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo. Mỗi trang viết của ông đều
toát ra vẻ đẹp của nhà văn tài hoa, uyên bác, phóng túng, đầy sáng tạo,…Đặc
biệt, ông có tình yêu thiên nhiên Tổ quốc say đắm, đam mê.Trước cách
mạng tháng 8 – 1945, đề tài chủ yếu trong văn Nguyễn Tuân tập trung ba
nhóm: Chủ nghĩa xê dịch, đời sống trụy lạc và vẻ đẹp vang bóng một thời.
Giờ đây, đề tài mở rộng. Nhà văn viết về cuộc sống mới, con người mới
trong lao động và chiến đấu. Khi ông càng gắn bó với hiện thực cách mạng
trong kháng chiến chống Pháp, trong những ngày hòa bình mới lập lại bao
nhiêu thì văn ông càng đa dạng, phong phú, uyên bác, tài hoa, phóng
túng,..bấy nhiêu.
- Từ 1958 – 1960, Nguyễn Tuân nhiều lần đi thực tế Tây Bắc. Ông vô cùng
yêu quý vùng thiên nhiên kì thú đang hồi sinh sau kháng chiến chống Pháp.
Ở đây, nhà văn đã tìm hiểu, khám phá được nhiều nét đẹp của con người và
cảnh sắc Tây Bắc mà ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của tâm
hồn Tây Bắc. Sau chuyến đi Tây Bắc gần hai năm, nhà văn đã viết tập tùy
bút “Sông Đà”, gồm 18 bài kí nổi tiếng, trong đó “Người lái đò sông Đà” là
đặc sắc nhất.
2. Tác phẩm:
a. Đề tài, chủ đề: Bài kí tập trung khắc họa hình tượng con người - ở đây là
ông lái đò trên sông Đà tài hoa và cảnh sắc núi rừng, sông nước miền Tây
Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đáng nên thơ, nên nhạc. Cả hai hòa quyện
với nhau đem lại cho người đọc ấn tượng về “thứ vàng mười đã qua thử
lửa”.
b. Nghệ thuật:
- Sử dụng thể tùy bút, cái tôi nhà văn được giãi bày thật phóng túng, suy nghĩ
và cảm xúc rất hài hòa, đầy sáng tạo. Từ hình ảnh nhân vật, đến cảnh thiên

nhiên, từ đoạn dài đến những câu văn, từ ngữ ngắn, nhà văn đã huy động
nhiều kiến thức về văn chương, lịch sử, âm nhạc, ngôn ngữ và cả quân sự,
thể thao…vô cùng uyên bác, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối.
- Trong bút pháp miêu tả và kể chuyện, văn bản xuất hiện những từ tượng
hình, tượng thanh, những phép tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, cường điệu,


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

những câu văn dài, ngắn, co duỗi có nhịp, có thanh điệu, văn xuôi xen đôi
câu thơ rất bất ngờ, thú vị. Nhờ đó, đọc văn bản này của Nguyễn Tuân,
chúng ta vừa có khoái cảm về tâm hồn, vừa nâng cao rất nhiều về trí tuệ.
- Đọc văn cụ Nguyễn, nhiều người cảm thấy khó vào. Nhưng nếu biết huy
động tất cả vốn kiến thức văn chương, cuộc sống, phát huy cao độ trí tuệ
thông minh, sự nhạy cảm của tâm hồn, sử dụng hài hòa đôi mắt kết hợp trí
tưởng tượng, năng lực phán đoán…chúng ta sẽ đến được vẻ đẹp của áng
văn, chạm đến “chất vàng mười” trong tâm hồn nhà văn
II. Gợi ý giải mã:
1. Nhân vật ông lái đò sông Đà:
a. Hoàn cảnh sống: Sau một đoạn văn ngắn ( từ mở đầu đoạn trích đến “rút lên
cây gậy đánh phèn”), nhà văn giới thiệu nhân vật bằng một câu tóm tắt hoàn
cảnh sống của ông lái khá rõ nét “cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là
một cuộc chiến hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có
nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một”. Vậy, kẻ
thù của ông hiện diện thế nào, có những binh chủng nào?
- Thứ nhất là những hút nước, xoáy tít từ mặt sông đến đáy sông, giống một

lòng giếng sâu, nước ằng ặc như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều con thuyền đã bị
những hút nước ấy hút xuống, thuyền “trồng cây chuối” – bị dựng thẳng
đứng, chổng ngược – rồi tan xác ở khuỷu sông dưới
- Thứ hai là những thác, ghềnh trên mặt trên. Thác nước hiện hình chẳng khác
nào những con quái vật. Lúc nó réo gầm, réo to mãi lên…lúc van xin, lúc
khiêu khích giọng gằn chế nhạo. có lúc nó rống lên như một ngàn con trâu
mộng chạy hỗn loạn trong rừng cháy.
- Thứ ba là đá sông. Trên mặt sông, hiện trước mặt ông đò là một “chân giời
đá”. Đủ các hình dáng, đá nổi, đá chìm, hòn to, hòn nhỏ…Mặt hòn đá nào
cũng trông dữ dằn, gớm ghiếc…Chúng “bày thạch trận trên sông…dụ con
thuyền đối phương đi vào để đánh khuýp, quật vu hồi tiêu diệt tất cả thuyền
trưởng và thủy thủ…”. Nhà văn đã đặc tả kẻ thù của người lái đò như thế.
Qua lien tưởng, tưởng tượng, kết hợp nghệ thuật so sánh, nhân hóa của nhà
văn, thiên nhiên vốn vô cảm bỗng trở nên sống động, có tính cách – đúng là
kẻ thù số một của người lái đò. Nhưng ông lái đò vẫn chiến thắng.
b. Đặc điểm phẩm chất, tính cách: được thể hiện cụ thể trong một đợt leo
ghềnh, vượt thác mà Nguyễn Tuân so sánh “như một trận thủy chiến trên


Cô Diễm Hằng
Tel: 091606561

Facebook: Trần Thị Diễm Hằng
Fanpage: Luyện thi Ngữ văn cùng cô Diễm Hằng

mặt trận sông Đà”. Đoạn văn khá dài. Song qua ngòi bút ghi chép, miêu tả,
kể chuyện đầy cảm xúc của nhà văn, ta có thể hình dung trận chiến ấy gồm
ba chặng, ba đợt phá trùng vi. Đó là cuộc đối đầu không cân sức: sóng nước,
đá sông và con thuyền sáu tay chèo do người lái đò chỉ huy.
Trùng Thác nước và đá sông

vi
Thạch
- Hò la, vang dậy, ùa
trận
vào
vòng
- Đá trái, thúc gối,
1
đánh giáp lá cà, đòn
hiểm, đòn âm,…

Ông lái đò

Phẩm chất người
lao động
- Cố
nét
vết
- Người chiến
thương, hai chân
sĩ dũng cảm,
kẹp chặt cuống
quyết
tâm
lái
giữ
vững
- Tiếng chỉ
huy
trận địa

ngắn gọn, tỉnh táo
- Người
chỉ
huy gan dạ,
bình tĩnh
Thach
- Đổi chiến thuật:
- Cưỡi
lên thác,
- Người
chỉ
trận
tăng cửa tử để đánh
cưỡi đến
cùng
huy táo bạo,
vòng
lừa con thuyền
như cưỡi hổ
bình
tĩnh,
2
- Cửa sinh bố trí lệch
- Nắm lấy bờm của
chủ
động
qua bờ hữu ngạn
sóng, ghì cương
tiến công
lái, vừa lái vừa

- Gợi nhớ Võ
rảo bơi chèo, đè
Tòng đả hổ
sấn, chặt đôi…để
trong truyện
mở đường tiến
Thủy Hử
Thạch
- Bên phải, bên trái
- Cứ phóng thẳng
- Người
anh
trận
đều luồng chết, cửa
thuyền vào cửa
hùng, người
vòng
tử
giữa
nghệ sĩ tài
3
- Luồng sông ở giữa
- Thuyền như mũi
hoa thổi hồn
bọn đá hậu vệ
tên tre tự động lái
vào
con
- Câu văn ngắn, hối
được, lượn được

thuyền như
hả
“Vút, vút, cửa
huyền thoại
ngoài,
cửa
- Tay lái ông
trong…”
đò ra hoa,
- Câu văn dồn dập,
văn
cụ
lên đến cao trào
Nguyễn nở
hoa
- Kết thúc ba đợt phá trùng vi của ông lái đò. Nguyễn Tuân ghi lại một đoạn
vĩ thanh của trận thủy chiến: nhà đò ghé vào hang đá nghỉ ngơi, bình thản.
Rồi nhà văn mường tượng trong cuốn phim về sông nước Đà giang “trên


×