Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-------oOo------

HUỲNH NGUYỄN BẢO NGUYÊN

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM
PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


LỜI CAM ĐOAN

Họ và tên : Huỳnh Nguyễn Bảo Nguyên
Sinh ngày : 25/10/1980
Ngành học : Tài chính doanh nghiệp
Đề tài : Nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam
Tác giả xin cam đoan đây là công trình do chính bản thân tác giả nghiên cứu
và trình bày. Các số liệu thu thập được và kết quả nghiên cứu trình bày trong
đề tài này là trung thực.
Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài nghiên cứu.


Xin chân thành cám ơn.


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Quý
Thầy, Cô Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã hết lòng truyền
đạt những kiến thức trong suốt thời gian mà tôi được học tại trường, đặc biệt
là sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Nguyễn Thị Liên Hoa – Trường Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình hoàn tất đề tài, mặc dù đã cố gắng tham khảo tài liệu,
tham khảo nhiều ý kiến đóng góp, song thiếu sót là điều không thể tránh khỏi.
Rất mong nhận được thông tin đóng góp quí báu từ Quý Thầy, Cô, Đồng
nghiệp và các bạn.
Xin chân thành cám ơn.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CÁM ƠN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ 3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ............................................................................................ 3
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ ................................................................................... 5
TÓM TẮT .................................................................................................................... 6
1. GIỚI THIỆU ............................................................................................................ 7
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ ...................................................................................................................... 9
2.1. Khái quát về mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế .............................. 9
2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về đường cong Phillips phản ánh mối quan hệ tăng
trưởng lạm phát ...................................................................................................... 11
2.3. Các nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trên thế giới ................... 14

2.4. Các nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. ................... 18
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................................................... 19
3.1. Mô tả về dữ liệu phân tích............................................................................... 19
3.2. Phương pháp xử lý dữ liệu .............................................................................. 20
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................... 25
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................................ 39
5.1. Kết luận ........................................................................................................... 39
5.2. Hạn chế của đề tài ........................................................................................... 40

-1-


5.3. Một số khuyến nghị chính sách....................................................................... 40
5.4. Hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................................ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 42
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 45

-2-


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Nguyên văn

Viết tắt
ADF

Augmented Dickey-Fuller

CPI


Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index)

ECM

Mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Model)

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế (International Menotary Fund)

VAR

Mô hình véc tơ tự hồi quy (Vector Autoregressive Model)

-3-


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1: Mô tả dữ liệu CPI và GDP................................................................................ 25
Bảng 2: Kết quả kiểm định tính dừng bằng ADF không trend ...................................... 27
Bảng 3: Kết quả kiểm định tính dừng bằng ADF có trend ............................................ 28
Bảng 4: Phân tích quan hệ nhân quả Granger ................................................................ 28
Bảng 5: Đồng liên kết Johansen ..................................................................................... 30
Bảng 6: Hồi quy theo mô hình ECM ............................................................................ 32
Bảng 7: Hồi quy theo ngưỡng CPI ................................................................................. 38


-4-


DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1: Đường cong Phillips ......................................................................................... 12
Hình 2: Minh họa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ........................................................ 13
Hình 3: Diễn biến tỷ lệ tăng CPI và GDP (%) giai đoạn 1999 – 2012 .......................... 27

-5-


NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế trong bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ 1999 đến 2012. Dữ
liệu nghiên cứu được tác giả thu thập hàng quý từ các công bố của Tổng cục thống kê
tại website gos.gov.vn. Với các kỹ thuật phân tích thống kê cơ bản đã cho thấy các dữ
liệu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hoàn toàn sử dụng được trong nghiên cứu
này. Kiểm định bằng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) cho thấy chuỗi dữ
liệu lạm phát là dừng; tuy nhiên chuỗi dữ liệu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) không
dừng cho tới khi lấy sai phân bậc 1; điều này khiến tác giả cần lưu ý xem xét việc hiệu
chỉnh chuỗi số liệu này trong các phân tích của mình. Kiểm định nhân quả Pairwise
Granger Causality cho biết tồn tại quan hệ nhân quả một chiều giữa tăng trưởng kinh tế
tác động vào lạm phát; đồng thời cũng tồn tại quan hệ một chiều giữa lạm phát tác
động vào biến động của tăng, giảm của tăng trưởng kinh tế. Phân tích đồng liên kết
Johansen và mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) cho thấy có tồn tại quan hệ dài hạn giữa
tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo chiều hướng tích cực (positive); tuy nhiên trong
ngắn hạn mối quan hệ này là khá tiêu cực (negative). Mặt khác, hồi quy OLS theo

ngưỡng lạm phát được xác định từ 1% cho đến 27% trong giai đoạn 1999 đến 2012 cho
thấy; tại mức 3 – 11% là có ý nghĩa (ở mức ý nghĩa 5%) đối với việc tác động đến
GDP và tác động này là ngược chiều; tại các ngưỡng còn lại không có ý nghĩa trong
việc tác động đến GDP; và với ngưỡng 6% có mức độ giải thích cao nhất với tác động
lớn nhất. Cuối cùng, các kết quả nghiên cứu của tác giả phù hợp với các nghiên cứu
trước đây về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế; đồng thời cũng là tài

-6-


liệu tham khảo hữu ích cho các nhà làm chính sách cũng như các bạn đọc trong việc
nghiên cứu, điều hành nền kinh tế vĩ mô.
Từ khóa: Lạm phát, Tăng trưởng kinh tế, GDP, CPI, Ngưỡng lạm phát; ECM
1. GIỚI THIỆU
Sự thay đổi về giá cả có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến tăng trưởng. Sự
tăng giá ở một mức độ nhất định sẽ kích thích sự tăng trưởng. Theo trường phái
Keynes, mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là mối quan hệ cùng chiều và
nghiên cứu thực nghiệm của nhà nghiên cứu Tobin (năm 1965) cũng cho ra kết quả
tương tự; tuy nhiên, nếu sự thay đổi giá mạnh mẽ sẽ dẫn đến lạm phát. Nhìn về mặt
ngọn của vấn đề có thể thấy, đó là sự mất cân đối tiền - hàng, khi GDP tăng trưởng
nóng dựa vào vốn là chủ yếu thì sẽ dẫn đến lạm phát. Những nghiên cứu của một số
nhà khoa học như Fish (năm 1993), Bruno và Eastly đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát là trái chiều nhau ở một số nước trên thế giới. Fisch (1993) đã đưa
ra kết luận nghiên cứu như sau: khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có
thể không tồn tại, hoặc thậm chí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan
hệ này là nghịch biến. Tuy nhiên, ông không chỉ ra mức cao là bao nhiêu thì sẽ có quan
hệ nghịch biến.
Như vậy, có thể thấy, trong một quốc gia, ở những thời điểm khác nhau sẽ có
những ảnh hưởng khác nhau trong mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng mà nguyên
nhân là do chính sách thường diễn biến đột ngột ở cả phía cung và phía cầu; và vấn đề

này khiến cho nhiều nhà nghiên cứu luôn tìm kiếm các lời giải cho mối quan hệ này và
tìm các biện pháp để ứng dụng chúng vào trong việc điều hành kinh tế vĩ mô.
Về mặt thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam, quan sát diễn biến của GDP và CPI
các năm giai đoạn 1999 đến 2012 tác giả nhận thấy:

-7-


(i) Thời kỳ từ 1999 đến 2006 GDP có tốc độ tăng trưởng phục hồi và ổn định từ
mức 6,79% lên 8,48%; Thời kỳ 2007 đến 2012, gắn liền với khủng hoảng và suy thoái
nên GDP có xu hướng giảm từ mức 6,23% xuống còn 5,03%.
(ii) Tương ứng với diễn biến của GDP, CPI có các biến động mạnh và bất
thường hơn: CPI duy trì ở mức thấp với mức bình quân là 5.04% từ năm 1999 đến
2003. Sau đó, CPI có dấu hiệu tăng trở lại từ 2004 đến 2011 với mức bình quân là
11.68%, mà đỉnh điểm là năm 2008 với mức tăng 19,90%; Năm 2012 CPI có dấu hiệu
giảm nhiệt còn 6,81%.
(iii) Xét mối quan hệ CPI và GDP thì tác giả nhận thấy: (a) Tỷ lệ CPI duy trì ở
mức trung bình là 5% thì GDP có tốc độ tăng trưởng ổn định; (b) nếu CPI có mức
trung bình trên 11% thì GDP có dấu hiệu suy giảm; (c) Những năm CPI tăng đột biến
18 – 19% thì GDP suy giảm mạnh trong năm đó và năm kế tiếp.
Bài nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam trong giai đoạn 1999 – 2012 và từ đó đưa ra các dự báo về mối quan hệ
này cũng như những khuyến nghị trong điều hành nền kinh tế vĩ mô theo mục tiêu. Cụ
thể là:
(1) Xem xét diễn biến mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong một
thời kỳ khá dài từ 1999 tới 2012 theo các quý, từ đó sẽ theo sát và cập nhật kịp thời
hơn mối quan hệ này.
(2) Ứng dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) để phân tích mối quan hệ này.
(3) Bổ sung những kết luận, khuyến nghị cho việc điều hành nền kinh tế vĩ mô
trong việc cân nhắc hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát.

Bài nghiên cứu này đưa ra các câu hỏi cần phải giải quyết là:
(1) Liệu có hình thành mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế hay
không?

-8-


(2) Có tồn tại quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và
dài hạn hay không?
(3) Có tồn tại một giới hạn nào vừa đảm bảo tăng trưởng và có lạm phát chấp
nhận được hay không?
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
2.1. Khái quát về mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Lạm phát, có nhiều phát biểu khác nhau về khái niệm lạm phát. Một số nhà
kinh tế học cho rằng “lạm phát là hiện tượng tiền được cung ứng nhiều hơn mức cần
thiết hoặc là do khối lượng tiền thực tế trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần
thiết” hoặc cho rằng “lạm phát là quá nhiều tiền được bỏ ra để săn lùng quá ít hàng
hoá”, “lạm phát là hiện tượng bội chi lâu dài của ngân sách nhà nước”, “lạm phát là
một khối u ác tính, thể hiện sự nở phồng lên của tiền tệ”.
Theo Milton Friedman (1970) “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện
tượng tiền tệ”. Như vậy, có thể coi lạm phát là sự suy giảm sức mua của tiền tệ và được
đo lường bằng sự gia tăng của mức giá chung trong nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc quy mô tổng sản lượng quốc gia tính
trên đầu người (PCI -Per capita income) trong một thời gian nhất định.
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có rất nhiều lý thuyết và
quan điểm đề cập về mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng.
Theo lý thuyết của Keynes, trong ngắn hạn, sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và
tăng trưởng. Nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ

lệ lạm phát nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển
cùng chiều. Sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng
trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm đi.

-9-


Theo chủ nghĩa trọng tiền mà đại diện là Milton Friedman cho rằng lạm phát là
sản phẩm của việc gia tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức độ lớn hơn tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Lập luận này cũng được thể hiện trong công thức nổi tiếng của
Irving Fisher (lý thuyết số lượng tiền tệ - Quantity theory of Money):
• MV = PY
• Trong đó:
• M: cung tiền
• V: Hệ số tạo tiền
• P: Giá
• Y: sản lượng đầu ra (GDP thật)
Cũng theo Friedman, nếu giá cả hàng hóa trong nền kinh tế tăng gấp 2 lần mà
thu nhập của người lao động cũng tăng gấp 2 lần, họ sẽ không quan tâm đến việc tăng
giá hàng hóa. Trong trường hợp như vậy, tăng trưởng không bị suy giảm bởi lạm phát.
Nếu lạm phát xảy ra theo hướng này thì không ảnh hưởng nguy hiểm đến tăng trưởng
kinh tế. Nói tóm lại, theo quan điểm của thuyết trọng tiền, trong dài hạn, giá cả bị ảnh
hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng. Nếu cung tiền tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Nếu giữ cung tiền
và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Theo lý thuyết tân cổ điển: Tobin (1965, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif
2004) phát triển mô hình Mundell (1963, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) cho
rằng lạm phát là nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển tiền thành
các tài sản sinh lợi. Điều này sẽ làm gia tăng sự tích lũy vốn trong nền kinh tế và thúc
đẩy kinh tế phát triển. Theo mô hình này giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ

cùng chiều.

-10-


Bổ sung thêm cho mô hình trên của lý thuyết tân cổ điển nhà kinh tế học
Sidrauski (1967, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) có cùng quan điểm với chủ
nghĩa trọng tiền, Sidrauski đề cập đến một trạng thái “vô cùng dửng dưng”
(superneutral) với lạm phát. Kết quả nghiên cứu của ông là khi các biến số độc lập với
việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng lạm phát không ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế.
Mô hình của Stockman (1981, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) - một
nhà kinh tế học thuộc trường phái tân cổ điển - thì cho rằng lạm phát tăng cao sẽ làm
cho tăng trưởng giảm.
Sau khi xem xét nhiều quan điểm lý thuyết của các trường phái khác nhau tác
giả nhận thấy tuy mỗi trường phái có một quan điểm riêng, mô hình riêng để chứng
minh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng nhưng quan điểm chung của các
trường phái có thể nhận thấy là mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không phải
là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại. Trong ngắn hạn, khi lạm phát còn
ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ cùng chiều. Nghĩa là nếu
muốn tăng trưởng đạt tốc độ cao hơn thì phải chấp nhận tăng lạm phát. Tuy nhiên, mối
quan hệ này không tồn tại mãi mãi mà đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng
cao sẽ ảnh hưởng làm giảm tăng trưởng. Trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức
tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà lúc này, lạm phát là hậu
quả của việc cung tiền quá mức vào nền kinh tế.
2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về đường cong Phillips phản ánh mối quan hệ tăng
trưởng lạm phát
Vào những năm 1958 nhà kinh tế học người Anh Phillips Alban W cho đăng bài
báo “mối quan hệ giữa thất nghiệp và tỉ lệ thay đổi tiền lương danh nghĩa của Anh
những năm 1861-1957” trên tờ tạp chí kinh tế học của Anh


. Trong bài báo này nhà

kinh tế học Phillip s đã thể h iện mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát trong ngắn

-11-


hạn trên đường cong mà mình đã tìm ra . Và sự kết hợp giữa lạm phát và thất nghiệp
trong ngắn hạn khi có sự dịch chuyển của tổng cầu dọc theo đường tổng cung trong
ngắn hạn.

Hình 1: Đường cong Phillips 1
Nguồn: Phillips Alban W. (1958), "The relationship between unemployment and the
rate of change of money wages in the UK 1861-1957," Economica.
Milton Friedman và Edmund Phelps (1968, 1976, 2006) cho rằng khi kỳ vọng
lạm phát tăng lên thì đường cong Phillips ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang phải. Như vậy
với kỳ vọng lạm phát quá cao thì lạm phát đình đốn có thể xảy ra (vừa có lạm phát cao
vừa có thất nghiệp cao) và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo quy
luật Okun (1960) sẽ được biểu diễn như sau:

1

Chú thích: khi tổng cầu tăng từ A đến B thì có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất ngh iệp, sản lượng tăng nên làm
giảm thất nghiệp, giá tăng nên làm tăng lạm phát.

-12-


Hình 2: Minh họa lạm phát và tăng trưởng kinh tế 2

Nguồn: Milton Friedman và Edmund Phelps (1968, 1976, 2006)
Trong hệ tọa độ này, một chu kỳ kinh tế thường có dạng một vòng xoáy ngược
chiều kim đồng hồ như hình bên trên. Bắt đầu từ điểm A khi cả lạm phát và kỳ vọng
lạm phát ở mức thấp, nền kinh tế tăng trưởng từ từ đến điểm B trên đường cong
Phillips có lạm phát kỳ vọng thấp. Tại B nền kinh tế đã tăng trưởng quá nóng và nó bắt
đầu chững lại, đồng thời lạm phát kỳ vọng tăng cao đẩy nền kinh tế dần đến điểm C
trên một đường đường cong Phillips có lạm phát kỳ vọng tăng cao hơn. Lúc này Ngân
hàng trung ương buộc phải thắt chặt tiền tệ và kinh tế suy giảm dần đến D, tuy nhiên
lạm phát kỳ vọng vẫn còn cao. Phải đến khi lạm phát xuống thấp hẳn thì người dân và
doanh nghiệp mới thay đổi kỳ vọng để nền kinh tế quay về đường cong Phillips ban
đầu và lúc đó Ngân hàng trung ương mới giảm lãi suất trở lại để thúc đẩy tăng trưởng.
Nghĩa là khi nào nền kinh tế quay về đường cong Phillips AB thì mới nên nới lỏng tiền
tệ, tài khóa, nếu quá nóng vội giảm lãi suất khi nền kinh tế vẫn năm trên đường CD thì
lạm phát kỳ vọng sẽ không thể giảm.

2

Lưu ý: Lúc này đường cong Phillips ngắn hạn với kỳ vọng lạm phát cao nằm bên trái.

-13-


Trên thực tế quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát phức tạp hơn nhiều và các
đường cong Phillips ngắn hạn. Nền kinh tế luôn luôn vận động và chịu đủ kiểu shocks
khác nhau nên các chu kỳ kinh tế không nhất thiết tạo thành một vòng xoáy trơn tru
như lý luận đã trình bày. Đường cong Phillips rất hữu ích trong việc hoạch định chí nh
sách của chính phủ, vì vậy việc quan trọng và chủ yếu nhất mà một chính phủ quản lý
nền kinh tế cần làm là phát triển và tăng trưởng kinh tế.
2.3. Các nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trên thế giới
Ứng dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước

đã sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh,
nhưng kém bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng “bong bóng”. Xu hướng
các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở
giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị
trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có
thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu
yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả
điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất. Hiện nay các nước phát
triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải
hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện
cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn
và công nghệ kỹ thuật, v.v.... Các học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản
lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006
lạm phát thế giới gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước
phát triển quá nóng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu cho rằng lạm phát ở một mức
nhẹ lại có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn:
Nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin (1965) cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái
phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế

-14-


và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một
chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho
phù hợp. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở
mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm năng suất lao động và, do
đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua
là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này.
Theo Mundell (1965), có mối tương quan tỉ lệ thuận giữa lạm phát và tăng

trưởng trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng trưởng, đồng thời
làm gia tăng lạm phát; đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm
phát và thất nghiệp.
Nghiên cứu của Shahzad Hussain và Shahnawaz Malik (2011) về mối quan hệ
tăng trưởng và lạm phát tại Pakistan: hai tác giả đã triển khai nghiên cứu thực nghiệm
bằng phân tích đồng liên kết và mô hình ECM để kiểm tra sự biến động trong dài hạn
và ngắn hạn của mối quan hệ giữ tăng trưởng lạm phát. Mặt khác, hai tác giả cũng phát
hiện ra một vấn đề chính sách thú vị của mức ngưỡng của lạm phát đối với nền kinh tế.
Kết quả của hai tác giả cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế ở Pakistan 3. Kết quả nghiên cứu của hai ông cũng cho thấy hiệu ứng lạm phát
cao khiến nhà đầu tư đầu tư nhiều vào vốn vật chất và cắt giảm nắm giữ tiền mặt. Kiểm
định Granger về mối quan hệ nhân quả tuyến tính cho thấy lạm phát có ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế với độ trễ là 3 quý và không có mối quan hệ nhân quả ngược lại từ
sự tăng trưởng với lạm phát. Hai ông cũng chứng minh được rằng ngưỡng lạm phát
dưới 9% là tốt cho việc tăng trưởng kinh tế.
Các nhà kinh tế cho rằng tỉ lệ lạm phát cao, tác động tiêu cực đến sản lượng
sản xuất của nền kinh tế thông qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu dùng; người
cho vay không có động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm trong thời kỳ này
Phù hợp với nghiên cứu của Malik và Chowdhury (2001) cũng thiết lập một kết nối tích cực giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế
3

-15-


và cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ, với chi phí huy động vốn cao, đẩy lãi suất cho
vay cao, các doanh nghiệp dù thiếu vốn cũng rất e ngại vay vốn vì làm chi phí tăng cao,
hệ quả là kênh tín dụng bị thu hẹp. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng lạm phát có thể tác
động tiêu cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn kinh tế vĩ mô; tăng sự không chắc
chắn của các hoạt động đầu tư; lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối, làm méo mó

quá trình phân bổ nguồn lực; lạm phát còn được xem như là một loại thuế đánh vào
nền kinh tế. Cụ thể như: Fisch (1993); Bruno và Eastly (1995); Barro(1998) đã nhận
thấy quan hệ âm giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế sau giai đoạn sau khủng hoảng
dầu 1973-1974. Sarel (1996), Gosh và Philip (1998), Khan và Senhadji (2001) … đã cố
gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó
nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Sarel (1996) cho
rằng ngưỡng lạm phát là 8%. Christoffsen và Doyle (1998) tìm ra ngưỡng là 13% cho
các nền kinh tế chuyển đổi. Khan và Senhadji (2001) đã chỉ ra ngưỡng lạm phát tại các
nước đang phát triển là 11-12%/năm; các nước công nghiệp khoảng 1-3% sẽ gây tác
động tiêu cực cho tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu của tác giả Khan (2005) đã tập
trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu; và Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu
đối với các nước vùng Trung Đông và Trung Á là khoảng 3.2%. Nghiên cứu của Li
(2006): Số liệu cho 90 nước đang phát triển, giai đoạn 1961-2004 lại cho rằng ngưỡng
tạo ra tác động tiêu cực cho tăng trưởng nền kinh tế là 14%/năm.
Nghiên cứu của Omoke Philip Chimobi (2010) là tìm ra sự tồn tại của (nếu có)
một mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Nigeria. Ông đã sử dụng các
phương pháp phân tích dữ liệu là kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger, phân tích
đồng liên kết Johansen, kiểm định tính dừng ADF và Phillips Perron, sử dụng mô hình
VAR. Tác giả sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường cho diễn biến lạm phát và
GDP như là một đo lường hoàn hảo cho sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn từ 1970
để 2005. Kết quả thử nghiệm nghiên cứu cho thấy, cho các giai đoạn, 1970-2005, đã

-16-


không có mối quan hệ đồng liên kết giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Nigeria.
Vì vậy, tác giả đã không thể tìm thấy bất kỳ mối quan hệ dài hạn nào giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế ở Nigeria. Bằng kỹ thuật VAR – Granger với kiểm định 2 trễ tác
giả đã thu được mối quan hệ nhân quả một chiều từ lạm phát tới tăng trưởng kinh tế;

với kiểm định 4 trễ tác giả tiếp tục thu được kết quả tương ứng. Mặc dù tác giả không
đưa ra kết luận là mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là tiêu cực hay tích cực,
tuy nhiên, cũng ngụ ý rằng lạm phát tăng cao và chưa bao giờ thuận lợi để kinh tế tăng
trưởng.
Nghiên cứu Md. Shoaib Ahmed (2010), Trong nghiên của Md. Shoaib Ahmed,
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Bangladesh đã được xem xét với
các dữ liệu theo quý trong giai đoạn 1988 – 2008. Tác giả đã sử dụng kiểm định quan
hệ nhân quả Granger, phân tích đồng liên kết, mô hình VECM và mô hình ARDL 4 để
xem xét vấn đề. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có ý nghĩa thống kê mối quan hệ
lâu dài giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát; đồng thời tồn tại mối quan hệ tiêu cực
trong ngắn hạn tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Tồn tại mối quan hệ nhân quả một
chiều chạy từ lạm phát sang tăng trưởng kinh tế. Tác giả cũng đưa ra khuyến nghị về
tầm quan trọng của các chính sách kinh tế vĩ mô, tạo sự ổn định rõ ràng cho một sự
tăng trưởng ổn định và bền vững.
Nghiên cứu của Jen-Te Hwang, Ming-Jia Wu (2011) Mục tiêu nghiên cứu của
hai tác giả là để kiểm tra các mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng ở Trung Quốc. Hai
ông đã xem xét các hiệu ứng phi tuyến của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Trung
Quốc. Sử dụng bộ dữ liệu chính GDP và CPI trong giai đoạn từ 1986 để 2006. Kết quả
thực nghiệm của hai tác giả cho thấy rằng hiệu ứng ngưỡng lạm phát là rất quan trọng
ở Trung Quốc. Hơn nữa, dựa trên ước tính của hai tác giả, khi lạm phát cao (lớn hơn
2,5% hàng năm), mỗi 1 điểm phần trăm gia tăng trong tỷ lệ lạm phát làm giảm tăng
trưởng kinh tế 0,61%, khi lạm phát thấp (ít hơn 2,5% mỗi năm), mỗi 1 điểm tăng tỷ lệ
4

Autoregressive Distribution Lag

-17-


phần trăm điểm kích thích tăng trưởng bằng 0,53%. Điều này cho thấy rằng lạm phát

cao gây hại cho tăng trưởng kinh tế, trong khi lạm phát vừa phải có lợi ích cho tăng
trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng Trung Quốc nên duy trì một tỷ lệ lạm
phát vừa phải để duy trì tăng trưởng dài hạn.
2.4. Các nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Theo đánh giá của IMF (2006), Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong các năm
gần đây, đã chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vuợt mức tiềm năng; bắt đầu từ
năm 2005 có dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng (những năm trước
đó mối quan hệ này là không nhất quán và không rõ nét). Mức lạm phát chuẩn của Việt
Nam có thể gần với mức lạm phát của các nước Đông Nam Á. Nghiên cứu bước đầu
của IFM (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á cũng đã
chỉ ra rằng, mức lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đông Nam
Á, trong đó có Việt Nam khoảng 3.6%.
Nghiên cứu của Trần Hoàng Ngân, Hoàng Hải Yến, Vũ Thị Lệ Giang (Lạm phát
và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam). Xét ở thời kỳ dài 20-23 năm (1987-2010)
lạm phát ảnh hưởng tiêu cực yếu đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ảnh hưởng của
lạm phát tới tăng trưởng là tích cực hay tiêu cực còn phụ thuộc vào mức lạm phát sử
dụng để xác định mối tương quan này. Các tác giả cũng đưa ra ngưỡng lạm phát ở Việt
Nam nên từ 5%-6% .
Nghiên cứu của Nguyễn Trung Chính, Đại học Ngoại Thương (Mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế qua kết quả phân tích tại Việt Nam, 2010),
Nghiên cứu của tác giả là nối tiếp các nghiên cứu trước đây nhằm phân tích sự ảnh
hưởng qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến hết
nửa đầu năm 2008 bằng các phương pháp hồi qui đồng liên kết, mô hình sai số hiệu
chỉnh ECM và phân tích phương sai dựa trên mô hình VAR, kết quả cho thấy những
bằng chứng thực nghiệm rõ rệt về tương tác qua lại giữa hai yếu tố này trong cả dài hạn

-18-


và ngắn hạn, kết quả thu được giống với các kết quả của Tobin (1965), Mallik and

Chowdhury (2001), Faria và Carneiro (2001) đã công bố. Từ kết quả phân tích, tác giả
đã đưa ra kết luận giữa tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ dương (đồng biến)
trong cả dài hạn và ngắn hạn và sự thay đổi của tăng trưởng nhanh hơn sự thay đổi của
lạm phát trong cả hai trường hợp trên, như vậy, trong giai đoạn này lạm phát có tác
dụng tích cực đến tăng trưởng và chưa vượt quá ngưỡng kiểm soát. Đồng thời, lạm
phát có ảnh hưởng đến tăng trưởng nhiều hơn ảnh hưởng ngược trở lại của tăng trưởng
đến lạm phát, điều đó cho thấy lạm phát còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt
là những biến động trong ngắn hạn.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô tả về dữ liệu phân tích
Trên cơ sở xem xét phương pháp nghiên cứu của hai tác giả Shahzad Hussain
(2011) và Shahnawaz Malik (2011) về đề tài “Inflation and Economic Growth:
Evidence from Pakistan”; tác giả đã ứng dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) và Hồi
quy theo ngưỡng lạm phát nhằm xem xét mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam. Lý do chọn và vận dụng phương pháp nghiên cứu của hai tác giả
trên là vì sự tương đồng trong tăng trưởng kinh tế, cũng như lạm phát giữa hai nước;
mặt khác cũng như ưu điểm của mô hình ECM trong việc phân tích các chuỗi dữ liệu
có yếu tố thời gian và có khả năng hiệu chỉnh các sai số trong quá trình tính toán, cũng
như xem xét được các mối quan hệ giữa ngắn hạn và dài hạn, xem xét được tốc độ tăng
trưởng kinh tế (tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế, % ) theo các diễn biến của tỷ lệ lạm phát
được xác lập theo các mức cụ thể (3%, 4% …. 18%). Cụ thể dữ liệu nghiên cứu được
xác định như sau:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là diễn biến của cặp quan hệ tăng trưởng kinh
tế được phản ánh thông qua chỉ tiêu GDP và lạm phát được phản ánh qua CPI trong
giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2012.

-19-


Giai đoạn 1999 đến 2012 được lựa chọn nghiên cứu vì đây là giai đoạn kinh tế

Việt Nam đã có những bước thay đổi căn bản về chất và lượng; gắn với nhiều mốc lịch
sử quan trọng của đất nước; đồng thời có ý nghĩa trong việc xem xét mối quan hệ lạm
phát và tăng trưởng kinh tế; hơn nữa dữ liệu trong thời kỳ này có thể tiếp cận được và
tương đối ổn định cho việc phân tích mối quan hệ lạm phát, tăng trưởng kinh tế; đồng
thời trong khoảng thời gian này tác giả cũng có khả năng thu thập được các số liệu về
GDP và CPI phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Việc lựa chọn tỷ lệ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng CPI tính theo % cho việc
nghiên cứu là xuất phát từ thực tiễn của các cơ quan nhà nước thường sử dụng các chỉ
tiêu này để phản ánh các vấn đề tăng trưởng kinh tế và lạm phát một cách phổ thông và
các chỉ tiêu tính tương đối (theo %) sẽ có ý nghĩa hơn trong việc hình dung các diễn
biến so với dùng các chỉ tiêu tuyệt đối (theo giá trị).
Nguồn số liệu được tác giả thu thập theo quý từ công bố từ IMF, Worldbank,
Tổng cục thống kê hàng năm về GDP và CPI theo quý trong thời kỳ 1999 – 2012 thông
qua website gso.gov.vn và một số phương tiện thông tin đại chúng khác như cafef.vn;
vnexpress.net; vietstock.com.vn; stox.vn, các nghiên cứu đã thực hiện trước đây…
3.2. Phương pháp xử lý dữ liệu
Để phân tích các dữ liệu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế; tác giả đã triển khai
tuần tự các công việc như sau:
(1) Tính toán các chỉ tiêu đại diện cho hai chuỗi số liệu nhằm phản ánh tính
chất, đặc tính của các chuỗi dữ liệu trước khi ứng dụng các kỹ thuật thống kê vào việc
xử lý, cụ thể bao gồm: Trung bình (mean); Trung vị (median); Độ lệch chuẩn
(Std.Dev); Giá trị lớn nhất (Maximum) và nhỏ nhất (Minimum); Độ nghiêng
(Skewness); Độ nhọn (Kurtosis); Kiểm định Jarque-Bera.
(2) Xem xét phương trình biểu diễn mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
như sau: GDP = α + β*CPI + ε1 và CPI = γ + θ* GDP + ε2; với ε1 và ε2 là phần dư

-20-


phản ánh những diễn biến ngẫu nhiên, phản ánh các tác động khác ngoài CPI và GDP;

α, γlà các hệ số chặn; β, θ là các hệ số phản ánh tác động của CPI và GDP.
(3) Kiểm định tính dừng ADF, theo Basabi (2006) hầu hết các biến chuỗi thời
gian là không dừng hoặc liên kết bậc một (sai phân bậc một là chuỗi dừng). Theo
Nguyễn Quang Dong (2006,106) nếu ước lượng một mô hình với chuỗi thời gian trong
đó có biến độc lập không dừng sẽ vi phạm các giả định OLS (phương pháp hồi quy cổ
điển). Granger và Newbold cho rằng R2 > DW là dấu hiệu cho biết kết quả ước lượng
có thể tương quan giả. Theo phân tích ở bên trên, chúng ta đang cần các chuỗi thời gian
dừng. Có nhiều cách để nhận dạng một chuỗi thời gian là dừng hay không dừng, ví dụ
như phân tích đồ thị, sai phân, giản đồ tự tương quan, kiểm định thống kê LjungBox…Tuy nhiên, theo Gujarati (2003, 814), kiểm định nghiệm đơn vị (unit root test) là
một kiểm định được sử dụng khá phổ biến trong thời gian gần đây. Hơn nữa, kiểm định
nghiệm đơn vị là loại kiểm định có tính học thuật và chuyên nghiệp cao hơn.
Do vậy, với đề tài nghiên cứu này tác giả sử dụng phương pháp kiểm định
nghiệm đơn vị của Augmented Dickey-Fuller trên phần mềm Eview 6: (i) Chuỗi thời
gian được giả thiết là có hệ số chặn (Intcept), có xu hướng (trend) và kiểm định nghiệm
“level” với chuỗi gốc. (ii) Chuỗi thời gian được giả thiết là có hệ số chặn (Intcept),
không có xu hướng (trend) và kiểm định nghiệm với “1st difference” chuỗi lấy sai
phân, các chuỗi sẽ được lấy sai phân cho đến khi có kết quả dừng; (iii) Độ trễ được đặt
tối đa là 5 độ trễ và sử dụng kỹ thuật SIC để lựa chọn trễ tối ưu cho kiểm định nghiệm.
(iv) Các kiểm định có trị tuyệt đối của giá trị thống kê “t” lớn hơn các giá trị bác bỏ là
có tính dừng tương ứng ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10% và ngược lại.
(4) Kiểm định nhân quả và xem xét độ trễ tối ưu của các chuỗi dữ liệu bằng
kiểm định Pairwise Granger Causality Tests bằng Eview 6, với việc tính toán tuần tự
cho từng bước trễ từ 1 đến 5 trễ, việc tính toán tuần tự số trễ này cũng giúp cho việc

-21-


xác định số trễ tối ưu 5; cụ thể việc xem xét mối quan hệ nhân quả này được biểu diễn
như sau:
GDPt = α + α GDPt-1+ … + α GDP + β CPI + … + β CPI + ε

0

1

n

t-n

1

t-1

n

t-n

t

CPIt = α + α CPI + … + α CPI + β GDP + … + β GDP + ε
0

1

t-1

n

t-l

1


t-1

n

t-n

t

Với giả thiết H là: β = β = … = β = 0; Để kiểm định giả thiết đồng thời này, ta sử
0

1

2

n

dụng thống kê F của kiểm định Wald và cách quyết định như sau: Nếu giá trị thống kê
F tính toán lớn hơn giá trị thống kê F phê phán ở một mức ý nghĩa xác định ta bác bỏ
giả thiết H và ngược lại. Sẽ có 4 khả năng xảy ra: (i) GDP tác động CPI và CPI tác
0

động đến GDP; (ii) GDP tác động CPI nhưng CPI không tác động GDP; (iii) CPI tác
động GDP nhưng GDP không tác động CPI; (iv) GDP và CPI không có tác động đến
nhau.
(5) Phân tích đồng liên kết Johansen nhằm xác định mối quan hệ dài hạn giữa
CPI và GDP. Theo Gujarati (1999, 460) cho rằng mặc dù các chuỗi thời gian không
dừng nhưng rất có thể vẫn tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa chúng nếu các
chuỗi thời gian đó đồng liên kết, có nghĩa là phần dư từ phương trình hồi quy của các

chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng. Ví dụ, chúng ta hồi quy phương trình:
GDPt = α + β*CPIt + εt … Có thể viết lại là : εt = GDPt - α - β*CPIt
Vậy nếu như phần dư của phương trình hồi quy εt là một chuỗi dừng, thì kết quả
hồi quy của phương trình GDPt = α + β*CPIt + εt có ý nghĩa, tức không có hiện tượng
tương quan giả. Trong trường hợp này, hai biến GDP và CPI được gọi là đồng liên kết
và hệ số ước lượng γ được gọi là hệ số hồi quy đồng liên kết. Nói theo ngôn ngữ kinh
tế học, hai biến đồng liên kết khi chúng có mối quan hệ dài hạn, hay ổn định với nhau.
Như thế thì nếu ta kiểm định phần dư từ phương trình GDPt = α + β*CPIt + εt và
nhận thấy phần dư là dừng (có phân phối chuẩn), thì các kiểm định truyền thống (Kiểm
5

Tác giả còn kết hợp thêm phương pháp VAR Lag Order Selection Criteria để tìm kiếm trễ tối ưu

-22-


×