Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.17 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA

LỚP RKTN21
NHÓM 4

BÀI TẬP NHÓM
MÔN HỌC: KINH TẾ VĨ MÔ

CHỦ ĐỀ 2: NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM

Nhóm trưởng
Giáp Văn Biên
Email:

SĐT: 0982.089.084

Danh sách nhóm
1. Giáp Văn Biên
2. Lê Sỹ Giảng
3. Đỗ Mạnh Hà
4. Dương Văn Hinh
5. Nguyễn Quốc Hưng
6. Vũ Văn Lộc
7. Hoàng Thị Sáu
8. Hà Thị Thơm
9. Nguyễn Trung Tín
10. Lê Thanh Tuyên
11. Nguyễn Quốc Việt




TNU – TOPICA 2017MỤC LỤC


Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả tích cực và quan trọng về kinh tế vĩ mô. Trong 10 năm (2007 – 2016), nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 6,29%, thâm hụt ngân sách liên tục trong 10
năm trở lại đây với tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP luôn ở trên mức trên dưới 5%. Tuy
vậy về tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng còn nhiều điều phải làm sáng tỏ nếu như
chúng ta so sánh tốc độ và chất lượng tăng trưởng của Việt Nam với các nước trong khu
vực. Vấn đề đặt ra là với tốc độ và chất lượng tăng trưởng như vậy đã tương xứng với tiềm
năng của Việt Nam hay chưa? So với các nước trong khu vực hiện nay chúng ta đang ở
đâu ? Làm thế nào để tăng trưởng bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng để Việt
Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự tăng trưởng chưa tương xứng? Chúng ta thấy rằng bên
cạnh những tác động bên ngoài từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu bùng phát
năm 2008; phải kể đến các nguyên nhân chủ quan như quản lý tài khóa chưa đạt hiệu quả
cao, từ phương pháp tính toán, hạch toán ngân sách không theo thông lệ quốc tế, quá trình
quản lý phân bổ các khoản chi tiêu công nhiều bất cập đến công tác huy động, gia tăng
nguồn thu ngân sách chưa bền vững.
Trước bối cảnh trên của nền kinh tế, trong phạm vi bài viết này, nhóm chúng tôi sẽ
tổng hợp lại toàn bộ thực trạng tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách của Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2016 để đưa ra một góc nhìn toàn diện về mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và
thâm hụt ngân sách trên phương diện lý thuyết cũng như thực tế. Trên cơ sở đó, nhóm
chúng tôi sẽ đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm giảm thâm hụt ngân sách và hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế trong thời gian tới.


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
1.1. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm
Là sự gia tăng lực lượng kinh tế của năm này so với năm trước hoặc năm được
chọn làm xuất phát điểm của chu kỳ nghiên cứu.
Hoặc: Là sự tăng theo quy mô sản lượng hay thu nhập bình quân đầu người của
một nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Đó là kết quả được tạo ra
bởi tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế.


1.1.2.Phương pháp xác định tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng hàng năm phản ánh % thay đổi của sản lượng năm sau so với
năm trước.
GDPr1

-

GDPr1

Trong đó: A% là tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm GDPr1
lượng thực tế cuối năm và đầu năm nghiên cứu.


và GDPr0 Là sản

Xác định tốc độ tăng trưởng bình quân thời kì theo công thức
ā% =
Trong đó : là sản lượng thực tế của năm báo cáo thời kì nghiên cứu
là sản lượng thực tế của năm gốc thời kì nghiên cứu.


1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến mức tăng trưởng Kinh tế quốc dân
1.1.3.1. Tỉ lệ tích lũy và tiêu dùng
- Khi tăng tích lũy, giảm tiêu dùng sẽ hạn chế tăng trưởng.
- Nếu tăng tiêu dùng sẽ tăng sản xuất.
Có: YD = C + S
C

C= C + MPC.Y

E

S= -C + MPS.Y

C
45o

Y
Y

-C

1.1.3.2. Tích lũy, đầu tư và để dành
4


Để dành chỉ đơn giản là không tiêu dùng hết thu nhập, muốn dành lại một phần để đề
phòng rủi ro hoặc chưa biết dùng số tiền đó vào việc gì do bão hòa về nhu cầu tiêu dùng.
-Tích lũy là sự để dành có mục đích đầu tư, chờ cơ hội, chờ đủ sức sẽ đầu tư.
- Đầu tư là biến tích lũy thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự tăng trưởng kinh tế.
S2 (Quốc dân)


S= -C + MPS.Y

I, S

i

E

S1

I
i2 i1

C

Y
Y

-C

I (i)
I

Y*

Sự tác động của tiết kiệm và đầu tư đến thu nhập và tăng trưởng kinh tế.
Tại điểm E mức tiết kiệm mong muốn bằng mức đầu tư mong muốn.
1.1.4.Các dạng tăng trưởng kinh tế
1.1.4.1. Tăng trưởng kiểu “bong bóng xà phòng”

- Đó là sự tăng trường nhanh và kém bền vững.
- Đặc điểm:


Có khát vọng tăng trưởng nhanh, dẫn đến đầu tư ồ ạt, đầu tư không những bằng vốn vay
dài hạn mà còn bằng vốn vay ngắn và trung hạn. Điều đó dễ dẫn đến khủng hoảng tài
chính, và kết cục là sự suy thoái kinh tế.



Vay nợ nước ngoài lớn nhưng sử dụng vốn kém hiệu quả



Chỉ tập trung đầu tư một số ngành, nên khi những ngành này thất bại trong cạnh tranh quốc
tế, nền kinh tế đất nước sẽ sụp đổ nhanh chóng.
1.1.4.2. Tăng trưởng kinh tế nóng
Đó là sự tăng trưởng kinh tế cao nhưng phải trả giá quá lớn về nhiều mặt, như về
môi trường, dân số, cơ sở hạ tầng,… đồng thời đó là sự phát triển phiến diện về kinh tế,
không xuất phát từ tiềm năng của đất nước.
1.1.4.3. Tăng trưởng cân đối
- Đó là sự tăng trưởng kinh tế trong khi giữ nguyên cơ cấu sử dụng thu nhập
quốc dân.
- Tăng trưởng cân đối khác với tăng trưởng đều đặn. Tăng trưởng đều đặn nói đến việc
tăng trưởng đều đặn với nhịp độ không đổi, liên tục trong nhiều năm của GNP, và GDP.
1.1.4.4. Tăng trưởng tối ưu
Tăng trưởng tối ưu là vị trí nền kinh tế nằm trên đường cong sản lượng tiềm năng.
Tại đó mức thất nghiệp bằng với thất nghiệp tự nhiên.

5



1.1.5. Các biểu hiện điển hình về kinh tế trong sự tăng trưởng
1.1.5.1. Giá cả tăng do đó lạm phát tăng
Giá cả (P) tăng do một số nguyên nhân sau:
- Do mở rộng sản xuất kinh doanh ⇒ nhu cầu về tư liệu sản xuất tăng ⇒ giá cả
tăng
- Do giá cả hàng hóa đầu vào tăng nên giá thành, giá cả đầu ra phải tăng.
- Do sự kì vọng về lợi nhuận của các nhà đầu tư tăng ⇒ Chi tiêu khu vực tư nhân
(I) tăng ⇒ Tăng tổng cầu (AD⇑).
- Xuất khẩu tăng ⇒ Tổng cầu (AD⇑)
Tóm lại, AD⇑ dẫn đến P⇑.
1.1.5.2. Đầu tư tăng
I⇑⇒AD⇑.
1.1.5.3. Lãi suất ngân hàng tăng (i⇑)
I⇑ ⇒MD ⇑⇒i ⇑.
1.1.5.4. Sự chu chuyển của vốn tăng
1.1.5.5. Những biến động bất thường về mức độ chi tiêu, tích lũy và đầu tư
Khi nền kinh tế tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm sẽ tạo nên tâm lý lạc
quan, từ đó dẫn đến C>S, đầu tư ồ ạt,…

1.2. THÂM HỤT NGÂN SÁCH
1.2.1. Thâm hụt ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước) là tình trạng các
khoản chi của ngân sách Nhà nước lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm
hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là
thặng dư ngân sách.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm
hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
VD: Thâm hụt NSNN năm 2009 là 155 900 tỷ đồng, tỉ lệ thâm hụt so với GDP là 6.9

% (theo cách tính của Việt Nam).
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về NSNN hằng năm như sau:

6


Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm

Thu

Chi

A. Thu thường xuyên
(thuế, phí, lệ phí).

D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.

B. Thu về vốn (bán tài
sản nhà nước).

F. Cho vay thuần
(= cho vay mới – thu nợ

C. Bù đắp thâm hụt.
gốc).
– Viện trợ.
– Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới –
trả nợ gốc).


Trong đó: A + B +C = D + E + F. Công thức tính thâm hụt NSNN của một năm sẽ
như sau:
Thâm hụt NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng, NSNN không cần thiết phải cân bằng theo
tháng, theo năm. Vấn đề là phải quản lý các nguồn thu và chi sao cho ngân sách không bi
thâm hụt qua lớn và kéo dài. Tuy vậy, trong nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát
triển, các Chính phủ vẫn theo đuổi một chính sách tài khóa thận trọng, trong đó chi ngân
sách phải nằm trong khuôn khổ các nguồn thu ngân sách để tránh tình trạng thâm hụt.
1.2.2. Phân loại thâm hụt NSNN:
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu
và thâm hụt chu kỳ.

7




Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của
chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo
dục, quốc phòng,...



Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là
bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy
thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi
ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:






Thâm hụt ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Thâm hụt ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu
nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là thâm hụt ngân sách bị động do sự vận động theo chu kỳ của
nền kinh tế thị trường. Thâm hụt ngân sách chu kỳ được tính bằng hiệu số giữa ngân sách
thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau
giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.Việc
phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng
thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt
sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp
điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.

1.2.3. Nguyên nhân gây thâm hụt ngân sách nhà nước
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra thâm hụt NSNN:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh, hay nói cách khác
là do chu kỳ phát triển kinh tế. Khủng hoảng làm cho thu nhập của các doanh nghiệp co
lại, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng đóng góp cho ngân sách nhà nước. Do đó, nguồn thu
của Nhà nước cũng co lại, trong khi nhu cầu chi tiêu không đổi, hoặc thậm chí tăng lên, để
giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức thâm hụt NSNN
tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không
phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức thâm hụt NSNN. Mức thâm hụt do tác động
của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là thâm hụt chu kỳ.

8



- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Chính
phủ. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, tăng chi tiêu sẽ làm tăng mức
thâm hụt NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và chi tiêu của Nhà nước thì
mức thâm hụt NSNN sẽ giảm bớt. Mức thâm hụt do tác động của chính sách cơ cấu thu chi
gây ra được gọi là thâm hụt cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,…), tổng
hợp của thâm hụt chu kỳ và thâm hụt cơ cấu sẽ là thâm hụt NSNN.

PHẦN 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT NGÂN SÁCH
VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2016
2.1. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2001- 2016.
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2016.
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001- 2016 có thể được chia
thành ba giai đoạn chính: 2001-2005, 2006-2010, 2011-2015 tương ứng với các thời kỳ kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm.
2.1.1.1. Giai đoạn 2001-2005.
Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 đã gây ra tác động tiêu cực đến nền
kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng GDP thời kỳ 1992-1997 đang ở mức 8-9% đã giảm đáng kể
9


xuống còn 5,76% vào năm 1998 và 4,77% năm 1999. Nền kinh tế bắt đầu hồi phục vào
năm 2000 và lấy lại tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 6,79%. Sau năm bản lề này, tốc độ
tăng trưởng tăng đều đặn và mạnh mẽ trong suốt giai đoạn 2001-2005. Tăng trưởng kinh tế
cũng được hỗ trợ bởi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, được thể hiện bằng tỷ lệ lạm phát
ổn định dưới mức 10% trong cả 5 năm.
Bảng 2.1.1.1. Tình hình tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng GDP (%)


Tổng (triệu USD)

Đầu người (U

(theo giá so sánh 1999)
2001
6,89

GDP

GNI

GDP

32.68

32.065

416

2002

7,08

6

35.06

34.520


441

2003

7,34

4

39.55

39.161

492

2004

7,79

3

45.55

44.497

559

2005

8,44


1

57.64

51.841

700

8
Bình quân 5
7,51
--năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê (tính toán dựa trên tỷ giá thực trung bình hàng năm)

--

Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 8,44%, vượt qua con số
7,79% của năm 2004. Kết quả của năm 2005 đánh dấu tốc độ tăng trưởng cao nhất mà Việt
Nam đã đạt được kể từ năm 1997 và là tốc độ tăng trưởng cao thứ nhì trong số các nước
Đông Á giai đoạn 2001-2005. Tăng trưởng kinh tế đều đặn trong suốt giai đoạn 2001-2005
và mức tăng ấn tượng năm 2005 đã giúp Việt Nam hoàn thành chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng
bình quân 7,5%/năm đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005. Sự phát triển này khiến quy
mô của nền kinh tế năm 2005 lớn hơn 1,44 lần so với năm 2000.
2.1.1.2. Giai đoạn 2006-2010.
Tiếp theo giai đoạn 2001-2005, Việt Nam tiếp tục bước vào thời kỳ phát triển kinh tế
với nhiều dấu mốc quan trọng trong giai đoạn 2006-2010. Mặc dù giai đoạn này chứng
kiến nhiều bước đi mạnh mẽ của quốc gia trong hội nhập kinh tế và cải cách hệ thống,
cùng các thành tựu đáng kể trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội, Việt Nam
cũng phải đối mặt với những tác động đáng kể của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đối

với nền kinh tế.
Nền kinh tế tiếp tục nhịp tăng trưởng ở mức cao, đạt mức cao nhất năm 2007
(8,46%). Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nền kinh tế phát
triển chậm lại đáng kể trong năm sau đó và duy trì tốc độ tăng trưởng khiêm tốn này đến
cuối giai đoạn. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng trung bình cả giai đoạn là 7,01%, vẫn nằm
trong nhóm có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các nước đang phát triển và quy mô của
nền kinh tế tính theo GDP tăng gần gấp đôi trong vòng 5 năm. Đáng chú ý, là Việt Nam đã
10


ra khỏi nhóm các nước chậm phát triển có mức thu nhập thấp (LDC), bước vào nhóm các
nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp.
Bảng 2.1.1.2. Tình hình tăng trưởng kinh tế
Tổng (triệu USD)

Đầu người (USD)

Tăng trưởng GDP (%)
2006

8,23

GDP
66.340

2007

8,46

77.391


20

68.8

919

3

81

2008

6,31

97.452

02

86.6

1.1

7

1.0

2009

5,32


99.826

87

87.2

45

1.1

18

1.0

2010

6,78

110.686

07

97.4

60

1.2

27


1.1

Trung bình

7,01

04

GNI
59.4

GD
796

73

GN
71

14

Nguồn: TCTK (tính toán dựa trên tỷ giá thực trung bình hàng năm)
Trong giai đoạn này, nền kinh tế được cho là tăng trưởng nóng với tỷ lệ lạm phát
tăng cao. Với tỷ lệ lạm phát hai chữ số trong năm 2008, Chính phủ đã phải tiến hành các
bước đi thận trọng để giảm tỷ lệ lạm phát hai con số này.
Để ứng phó với tình trạng giá tiêu dùng tăng cao, năm 2008, Chính phủ ban hành
Quyết định 390/QĐ-TTg về việc Quản lý kế hoạch đầu tư xây dựng hạ tầng và chi tiêu
ngân sách, theo sau đó là Nghị quyết 10/2008/NQ-CP đề ra 8 nhóm giải pháp giúp giảm
lạm phát. Các nhóm hành động này chủ yếu nhắm đến chính sách thắt chặt về tài khóa và

tiền tệ để giảm thâm hụt ngân sách cũng như giảm mức chỉ số giá tiêu dùng cao. Các
chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong giai đoạn này cũng giúp giảm những khó khăn
trong đời sống của người dân gây ra bởi giá cả tăng cao, đặc biệt với các nhóm yếu thế.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế trở nên phức tạp do cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu xảy ra vào năm 2008. Đến cuối năm 2008, Chính phủ đã công bố gói kích cầu kinh tế
nhằm thay đổi chính sách kinh tế, đề ra bốn gói giải pháp cấp bách để thực hiện vào năm
2009, trong đó có chính sách tài khóa bao gồm việc thúc đẩy đầu tư và giảm thuế đóng
vai trò cốt yếu.
Giai đoạn 2006-2010 ghi nhận một biến chuyển mang tính lịch sử khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào
ngày 01 tháng 11 năm 2007. Sự kiện này đánh dấu những nỗ lực không ngừng của quốc
gia trong việc mở rộng chính sách kinh tế đối ngoại, tăng cường và hoàn thiện thể chế,
luật pháp và nhiều cam kết khác trong việc theo đuổi một nền kinh tế định hướng thị
trường. Với dấu mốc này, Việt Nam đã có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu
và tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn, chuẩn bị cho một làn sóng đầu tư vốn nước
ngoài, và gia tăng hoạt động thương mại.
11


2.1.1.3. Giai đoạn 2011-2015 và năm 2016.
Mục tiêu ban đầu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm cho giai đoạn 20112015 là phát triển kinh tế “nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh”. Trong giai
đoạn 2011-2015, lạm phát xuất hiện ngay từ đầu, kéo theo suy giảm kinh tế trong năm
2012 là hệ quả từ các tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu. Do những khó khăn ở năm
đầu tiên, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2011-2015 đã được điều chỉnh là “kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo
an sinh xã hội”. Từ năm 2013 trở đi là giai đoạn chứng kiến nỗ lực phục hồi và ổn định
nền kinh tế, bao gồm các chương trình tái cấu trúc kinh tế.
Hậu quả của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của thời kỳ trước đó cùng với chính sách
tiền tệ và tài khóa nới lỏng trong 2009 - 2010 khiến nền kinh tế Việt Nam phải gánh chịu

lạm phát cao từ cuối năm 2010 và đạt đỉnh điểm vào năm 2011. Tỷ lệ lạm phát tăng từ
11,75% đến 18,13% trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm từ 6,78% xuống 5,89%.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về
kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô. Các chính sách thắt chặt đột ngột đã giúp hạ nhiệt
chỉ số giá nhưng lại đẩy một số lượng lớn các doanh nghiệp rơi vào khó khăn, đặc biệt là
những doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, và ngân hàng. Các khoản
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cao ở mức đáng báo động. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt
là doanh nghiệp nhỏ đã phải thu nhỏ quy mô hoặc dừng hoạt động.
Năm 2016 là năm đầu cả nước thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016-2020 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo, tăng trưởng
thương mại toàn cầu giảm mạnh, hoạt động của thị trường hàng hóa kém sôi động, giá cả
hàng hóa thế giới ở mức thấp đã ảnh hưởng đến kinh tế nước ta, nhất là hoạt động xuất
nhập khẩu và thu ngân sách Nhà nước. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ dấu
hiệu khởi sắc của năm 2015, kinh tế nước ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức bởi
diễn biến phức tạp của thời tiết, biến đổi khí hậu. Rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía Bắc,
tình trạng hạn hán tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và xâm nhập mặn nghiêm trọng
ở Đồng bằng sông Cửu Long, bão lũ và sự cố môi trường biển tại các tỉnh miền Trung
đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và đời sống nhân dân.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, địa phương tập
trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm
2016. Đồng thời, ban hành hàng loạt các Nghị quyết để chỉ đạo, giải quyết những vấn đề
cấp bách, khắc phục khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố ngày 28/12/2016 cho thấy, tổng sản
phẩm trong nước (GDP) năm 2016 ước tính tăng 6,21%. Mức tăng này thấp hơn 6,68%
của năm 2015 và không đạt mục tiêu đề ra là 6,7%. Tuy nhiên nếu xét trong bối cảnh tình
hình kinh tế thế giới năm 2016 không thuận, giá cả và thương mại toàn cầu giảm, trong
12



nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp thì việc đạt
được mức tăng trưởng như trên là cũng là một thành công, khẳng định tính đúng đắn, kịp
thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt
các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện.
Bảng 2.1.1.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2010 – 2016 (so sánh với năm trước, %)
Trung
bình

2010

2011

2012 2013 2014 2015 2016

6,42

6,24

5,25

5,42

5,98

6,68

6,21

6,03


Nông nghiệp, Thủy sản và Lâm
nghiệp
Công nghiệp
và Xây dựng

3,39

4,23

2,92

2,63

3,44

2,41

1,36

2,91

7,17

7,60

7,39

5,08

6,42


9,64

7,57

7,27

Dịch vụ

7,19

7,47

6,71

6,42

6,16

6,33

6,98

6,75

Tổng

Nguồn: Niên giám thống kê, TCTK.
• Đánh giá chung
Trải qua ba giai đoạn phát triển, Việt Nam đã thể hiện nỗ lực quyết tâm trong cuộc

chiến chống đói nghèo và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong suốt hành trình 2001-2016,
mặc dù Việt Nam đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các yếu tố bên ngoài như Khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008, làm gián đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và làm chậm quá
trình giảm nghèo nhưng với những biện pháp và chính sách phù hợp, Việt Nam đã đạt
nhiều kết quả trong việc giải quyết các vấn đề và giảm tác động tiêu cực lên nền kinh tế.
Trong 15 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng và tăng trưởng
nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư nhân
và các dòng vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm cho hàng triệu công nhân, mở ra hàng
loạt cơ hội kinh doanh và thị trường quốc tế cho quốc gia.
Sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, được đánh dấu bởi sự kiện gia nhập
WTO trong năm 2007 và các hiệp định thương mại song phương và đa phương khác nhau
đã giúp duy trì tăng trưởng kinh tế trong suốt thời kỳ khó khăn. Cơ sở hạ tầng công cộng
đã được nâng cấp mới với một tốc độ đáng kể, đem đến mức độ tiếp cận tốt hơn với thông
tin và thị trường cho các hộ gia đình cũng như doanh nghiệp. Sự tăng trưởng và phát triển
ngoạn mục của công nghệ thông tin đã thúc đẩy sáng tạo và biến Việt Nam trở thành một
trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới trong lĩnh vực này. Từ một trong
những quốc gia nghèo nhất thế giới, Việt Nam đã trở thành một nước có thu nhập trung
bình thấp, đưa hàng triệu người ra khỏi đói nghèo trong chỉ một thập kỷ. Không thể phủ
nhận rằng Việt Nam thực sự là một điển hình thành công trong công cuộc giảm nghèo và
chuyển đổi kinh tế.

13


2.2. THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2016
Các thống kê cho thấy Việt Nam đã thâm hụt ngân sách liên tục trong 15 năm trở lại
đây với tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP luôn ở trên mức trên dưới 5%. Mức thâm hụt
này thuộc diện cao so với các nước trong khu vực.

Mức độ thâm hụt ngân sách thường được xác định bằng tỷ lệ thâm hụt trên GDP.

Tuy nhiên chỉ số này chỉ phản ánh chính xác tương đối. Các đo lường khác như thâm hụt
trên tổng thu ngân sách hoặc thâm hụt chia GNP sẽ có ý nghĩa hơn. Đặc biệt với trường
hợp Việt Nam khi gần một nửa GDP hiện do khối doanh nghiệp nước ngoài làm ra trong
khi nguồn thu từ khối này không chiếm tỷ lệ lớn (do vấn đề chuyển giá, ưu đãi đầu tư,…).
Đồng thời phải cân đối với số dư nợ công và vay nợ nước ngoài
Với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã và đang theo đuổi những
chính sách thâm hụt ngân sách có định hướng. Phân tích về thực trạng thâm hụt ngân sách
Việt Nam trong thời gian qua cũng đã chỉ ra một số vấn đề cần lưu ý dưới đây.
Mặc dù thu NSNN liên tục tăng, nhưng chi luôn vượt thu, điều này dẫn tới tình trạng
thâm hụt ngân sách triền miên và có mức độ ngày càng gia tăng. Thâm hụt ngân sách (theo
cách tính của Việt Nam) đã tăng từ mức trung bình là 4,9% GDP giai đoạn 2001 - 2005 lên
5,53% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Giai đoạn 2011 - 2015 tuy có giảm so với giai đoạn
trước, song vẫn ở mức cao (trung bình 4,85% GDP). Việc kéo dài tình trạng này sẽ làm
giảm niềm tin vào chính sách và tiềm ẩn nhiều rủi ro kinh tế vĩ mô.
Thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng của nợ công. Tuy nhiên, kể từ
năm 2010, để hạn chế gia tăng của nợ công, vấn đề giảm thâm hụt ngân sách đã bắt đầu
được quan tâm xử lý. Đây là năm đầu tiên trong nhiều năm thâm hụt thực tế ở mức 5,5%
14


GDP, thấp hơn so với mức 6,2% GDP Quốc hội cho phép. Từ năm 2011, nguyên tắc sử
dụng số tăng thu ngân sách hàng năm để xử lý thâm hụt đã được đưa vào nghị quyết của
Quốc hội. Mức thâm hụt ngân sách năm 2011 là 4,4%, thấp hơn so với mức 5,3% GDP
Quốc hội thông qua. Đây có thể coi là thành công bước đầu trong việc giảm dần thâm hụt
ngân sách hiện nay.
Nhìn chung, giai đoạn này chi ngân sách có xu hướng tăng cao và luôn vượt thu ngân
sách. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP từ năm 2003 đến nay đang có xu thế đi lên.
Nguyên nhân một phần là do chính sách tăng chi ngân sách để thực hiện các gói kích cầu
nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2009 - 2010. Kết quả là bội chi NSNN
năm 2009 đã tăng tới mức cao nhất là 6,9% GDP. Một nguyên nhân khác là do yêu cầu

đảm bảo nguồn lực thực hiện các chủ trương của Nhà nước trong việc tăng chi cho công
tác an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo trong những năm gần đây.
Trong những năm 2011-2015, tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam luôn nằm ở ngưỡng
trên dưới 5.5% GDP và có xu hướng không ổn định. Đây vẫn là một tỉ lệ cao.
Tình hình bội chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: tỷ đồng

Năm

Tổng thu cân đối
NSNN

Tổng chi cân đối
NSNN

Thâm hụt NSNN

Tỷ lệ bội chi
NSNN so với
GDP

2011

962.982

1.034.244

112.034

4,4%


2012

1.038.451

1.170.924

173.815

5,36%

2013

1.084.064

1.277.710

236.769

6,6%

2014

782.700

1.006.700

224.000

5,3%


2015

911.100

1.147.100

226.000

5,0%

2016

1,014,500

1,273,200

254.000

4,95%

(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài chính)
Năm 2011 được xem là năm nhà nước thay đổi công tác điều hành, ngay từ đầu năm
Chính phủ đã ban hành và triển khai quyết liệt Nghị quyết 11 nên kết quả thu ngân sách
năm 2011 vượt kế hoạch 21,3%. Về chi, theo báo cáo của Chính phủ, tổng số chi 1.034.244
tỷ đồng. Nhờ tăng thu NSNN nên đã giảm bội chi từ 5,3% GDP theo Nghị quyết của Quốc
hội xuống còn 4,4%, đây là một động thái tích cực. Tuy nhiên, mặc dù giảm bội chi song
15



các khoản chi ứng trước, nợ tạm ứng, thiếu hụt nguồn hoàn thuế đã làm cho kết quả giảm
bội chi không có nhiều ý nghĩa về tài khoá.
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 theo báo cáo quyết toán là 173.815 tỷ
đồng (5,36% GDP). Theo đó, tổng thu NSNN năm 2012 là 1.038.451 tỷ đồng, tăng 1,9% so
với dự toán, Tổng chi NSNN năm 2012 là 1.170.924 tỷ đồng, tăng 8,3% so với dự toán. Chi
thường xuyên vẫn còn lãng phí, chi sai chế độ quy định, không đúng mục đích đang có dấu
hiệu gia tăng tại các địa phương. Nguyên nhân do sự không ổn định của nền kinh tế thế
giới, những bất ổn về chính trị xung đột khu vực, tranh chấp lãnh thổ gây nhiều khó khăn
cho sự phát triển. Các chính sách và biện pháp bảo hộ mậu dịch hàng rào thuế quan và phi
thuế quan gia tăng. Ở trong nước, bên cạnh các giải pháp, chính sách về kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô đã bước đầu phát huy hiệu quả. Bội chi NSNN giảm dần, xuất khẩu
tăng nhanh cũng góp phần làm giảm nhập siêu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và
tăng dự trữ ngoại hối, tuy nhiên, kinh tế vĩ mô ở nước ta chưa thực sự ổn định, lạm phát và
lãi suất đang còn ở mức cao, hoạt động đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa vẫn gặp nhiều khó khăn...
Mức bội chi ngân sách năm 2013 là 236.769 tỷ đồng, bằng 6,6% tổng sản phẩm trong
nước (GDP). Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 1.084.064 tỷ đồng, bao gồm cả số
thu chuyển nguồn từ năm 2012 sang năm 2013, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2012,
thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương và thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định
của Luật ngân sách nhà nước. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 1.277.710 tỷ đồng,
bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2013 sang năm 2014. Mức bội chi rất lớn. Nguyên
nhân là do thế giới có sự suy giảm nguồn vốn FDI, suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn diễn ra.
Ở trong nước, bên cạnh việc cơ bản đã kiềm chế được lạm phát, chính sách hỗ trợ sản xuất
kinh doanh đã bắt đầu phát huy tác dụng, lãi suất hạ nhiệt thì chính sự thiếu ổn định về cán
cân vĩ mô, sức cầu nền kinh tế còn yếu đã gây ra tình trạng bội chi NSNN. Thêm vào đó là
tình trạng tồn kho, đặc biệt là tồn kho bất động sản và vật liệu xây dựng lớn, dự toán xây
dựng cao so với khả năng thực thiện đã gây ra tình trạng bội chi vỡ kế hoạch vào năm
2013. Ngoài ra, năm 2013 chính phủ thực hiện các chính sách miễn giảm thuế để tháo gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp nên cũng góp phần làm giảm số thu NSNN.
Năm 2014 dự toán bội chi ngân sách do Bộ Tài chính đưa ra là 224.000 tỷ đồng. Tổng

thu cân đối ngân sách năm 2014 là 782.700 tỷ đồng. Mức chi dự toán được đưa ra là
1,006,700 tỷ đồng. Dự toán bội chi ước đạt 5.3%GDP. Nguyên nhân một phần do kinh tế
toàn cầu đã bước vào giai đoạn ổn định hơn dù tốc độ tăng trưởng vẫn còn thấp. Thị trường
tài chính bớt rủi ro hơn mặc dù vẫn tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế
đang phát triển do việc các nền kinh tế phát triển sẽ rút bỏ dần các biện pháp nới lỏng định
lượng. Tình hình lạm phát nhìn chung vẫn được kiểm soát do giá cả hàng hóa quốc tế đang
có xu hướng giảm. Đối với trong nước: Bên cạnh sự phục hồi của nền kinh tế, các chính
16


sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh thúc đẩy tổng cầu trong năm 2013 đã phát
huy tác dụng và tiếp tục có ảnh hưởng tích cực trong năm 2014. Quá trình hội nhập quốc tế
sâu rộng hơn với việc tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do: EPA, TPP, EU.
Tuy nhiên, năm 2014 cũng là năm tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao do tác động độ trễ của
những chính sách tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh năm 2013, dòng vốn được lưu
thông trở lại.
Năm 2015, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) khoảng 911,100 tỷ đồng, chi NSNN
khoảng 1,147,100 tỷ đồng và theo đó bội chi NSNN vào khoảng 226 nghìn tỷ đồng, tương
đương 5% GDP. Có thể nói, theo giới hạn mà Quốc hội đề ra, bội chi NSNN tối đa được
phép là 5% GDP/năm. Nhưng trên thực tế rất khó để thực hiện đúng được quy định đó.Vấn
đề thực sự là với nền tài khóa quốc gia như hiện nay, nếu bội chi ngân sách cứ luôn vượt
quá 5% GDP trong một thời gian dài sẽ nguy hiểm. Điều này có khiến cho thị trường hiểu
rằng đang không có sự thống nhất giữa chủ trương và thực thi chính sách của Chính phủ,
làm giảm niềm tin của thị trường, gây sức ép rất lớn lên việc điều hành kinh tế vĩ mô.
Năm 2016, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) dự tính sẽ vào khoảng 1,014,500 tỷ
đồng, chi NSNN khoảng 1,273,200 tỷ đồng và theo đó bội chi NSNN vào khoảng 254
nghìn tỷ đồng, tương đương 4.95% GDP
Hiện nay có thể thấy rằng, việc thống kê về thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện có
nhiều nguồn khác nhau. Trong Quyết toán NSNN hàng năm của Bộ Tài chính cũng đưa ra
hai con số về mức độ thâm hụt ngân sách. Đó là: Thâm hụt ngân sách không bao gồm cả

chi trả nợ gốc và Thâm hụt ngân sách bao gồm chi trả nợ gốc. Việt Nam hiện đang có
những cách hạch toán riêng không theo thông lệ quốc tế.
Theo thông lệ quốc tế, những khoản vay phát sinh khi được xem là nghĩa vụ nợ của
Chính phủ thì phải được tính vào cân đối ngân sách. Theo đó, thâm hụt NSNN được tính
cả khoản chi từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ (TPCP) và các khoản vay về cho vay lại,
không bao gồm chi trả nợ gốc (có tính chi trả lãi). Tuy nhiên, nhiều khoản chi ngân sách từ
nguồn TPCP cho các dự án giáo dục, thủy lợi, y tế … và khoản vay về cho vay lại được để
ở ngoại bảng và không được tính đầy đủ vào trong thâm hụt ngân sách như thông lệ quốc
tế. Ngoài ra, trong việc xác định các khoản thu, thì một số khoản thu vẫn để ngoài cân đối
ngân sách như thu từ nguồn học phí, viện phí. Đồng thời, khi cân đối NSNN thì có nhiều
khoản thu không bền vững như thu từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và chuyển quyền sử
dụng đất; thu từ khai thác dầu thô và các tài nguyên khác. Các khoản thu này đang có xu
hướng ngày càng giảm dần về quy mô tuyệt đối cũng như tỷ trọng trong tổng thu và viện
trợ do nguồn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn. Việc tính các khoản thu không bền vững
này vào trong cân đối NSNN sẽ có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của tình trạng thâm
hụt từ những con số báo cáo. Theo cách tính và công bố của Bộ Tài chính thì tỷ lệ thâm hụt
17


ngân sách theo cách tính Việt Nam giai đoạn 2005 - 2008 cao hơn so với số liệu tính toán
thực tế theo đúng thông lệ quốc tế (bao gồm TPCP, các khoản vay về cho vay lại, không
gồm chi trả nợ gốc). Tuy nhiên từ năm 2009 đến năm 2011, số liệu thâm hụt ngân sách
theo cách tính của Việt Nam được công bố lại thấp hơn so với cách tính theo thông lệ quốc
tế. Nguyên nhân là do sự tăng mạnh của TPCP và các khoản vay về cho vay lại so với giai
đoạn 2005 - 2008. Có thể thấy, sự thiếu nhất quán trong cách hạch toán tài khóa khiến cho
những con số thống kê không phản ánh chính xác về thực trạng của Việt Nam, từ đó gây
nhiễu loạn thông tin và khiến việc so sánh với quốc tế, đánh giá và điều hành chính sách
gặp khó khăn.
2.3. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế
Nhìn chung, trong giai đoạn 2001 – 2016, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở mức

khoảng 5% GDP. Đây là một mức cao. Riêng trong hai năm 2009, 2010, mức thâm hụt
ngân sách tăng lên rất cao (gần 7% và 6%), do chương trình kích thích kinh tế của Chính
phủ sau khủng hoảng kinh tế 2008 – 2009 (Cụ thể theo như biểu đồ dưới đây).

Trong khi đó, tốc độ phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2016 có sự thay
đổi khá lớn qua các năm. Trong đó, tốc độ phát triển ổn định theo hướng đi lên trong giai
đoạn 2001 – 2007, sụt giảm nhanh trong hai năm 2008, 2009 (6,31% và 5,32%), sau đó
tăng lên trong hai năm 2010, 2011 (6,78% và 6,24%), suy giảm trong các năm 2012, 2013,
và ổn định theo hướng tăng lên trở lại trong giai đoạn 2014 – 2016.

18


Nguồn: Tổng hợp từ TCTK
Số liệu ở các mục trên cho thấy, thâm hụt ngân sách nhà nước (thể hiện sự gia tăng
chi tiêu của Chính phủ) có tác động nhất định đến tăng trưởng kinh tế. Nếu thâm hụt ngân
sách tăng (thể hiện Chính phủ gia tăng chi tiêu) thì tốc độ phát triển tăng, nếu thâm hụt
ngân sách giảm (Chính chủ giảm chi tiêu) thì tốc độ phát triển cũng giảm. Điều này thể
hiển rõ nhất trong giai đoạn từ năm 2008 – 2013. Theo đó, thâm hụt ngân sách tăng cao
trong các năm 2009 và 2010 thì tốc độ tăng trưởng cũng tăng lên cao trong các năm 2010 –
2011 mặc dù giai đoạn này là giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sau đó, do lạm phát
tăng cao trong các năm 2009, 2010, Chính phủ đã thắt chặt chi tiêu trong các năm 2010,
2011 thì tốc độ kinh tế giảm theo trong các năm 2012 – 2013.
Số liệu cũng cho thấy trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hoặc kinh tế suy giảm,
thâm hụt ngân sách có xu hướng tăng lên, phù hợp với lý thuyết về thâm hụt ngân sách do
chu kỳ kinh doanh. Trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, Chính phủ có xu hướng tăng
đầu tư thông qua tăng chi tiêu ngân sách để kích thích kinh tế. Trong khi nguồn thu giảm
xuống do khó khăn kinh tế, chi tiêu Chính phủ tăng càng làm cho thâm hụt ngân sách tăng
cao. Biểu hiện rõ ràng nhất ở Việt Nam là trong hai năm 2009 và 2010, kinh tế tăng trưởng
thấp, chi tiêu chính phủ tăng đẩy thâm hụt ngân sách tăng lên rất cao.

Tuy nhiên, tốc độ phát triển không phụ thuộc hoàn toàn vào việc tăng hay giảm chi
tiêu của Chính phủ (thâm hụt ngân sách) mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Như trong
giai đoạn 2001 – 2007, thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức ổn định khoảng 5% GDP, tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tương ứng vẫn ở mức cao
và có xu hướng tăng qua từng năm. Các yếu tố từ ổn định kinh tế vĩ mô, mức cung tiền, cải
cách thủ tục hành chính, chống tham nhũng, cải cách doanh nghiệp nhà nước, hỗ trợ phát
triển kinh tế tư nhân… đều có tác động nhất định tới tăng trưởng kinh tế. Mức tăng trưởng
kinh tế cao rõ ràng phải là sự tổng hợp của nhiều yếu tố, mặc dù chi tiêu của Chính phủ
cũng đóng góp một phần quan trọng.
19


PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
3.1. KẾT LUẬN
Mục tiêu của việc nghiên cứu là để chúng ta thấy được thực trạng của thâm hụt ngân
sách,vấn đề nợ công ở nước ta và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách nhà nước với tăng
trưởng kinh tế.
Qua phân tích ở trên, ta thấy có rất nhiều nguyên nhân tác động đến thâm hụt ngân
sách, cũng như tác động đến tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, có một mối quan hệ khá
rõ ràng giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong giai đoạn kinh tế
suy giảm (tức tốc độ tăng trưởng thấp) thì thâm hụt ngân sách thường tăng và ngược lại
nếu kinh tế tăng trưởng tốt thì thâm hụt ngân sách cũng có khả năng giảm do nguồn thu
tăng.
Mặc dù vậy, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam luôn ở mức cao do chính sách thúc đẩy
kinh tế của Chính phủ. Tình trạng này kéo dài làm cho tình trạng ngân sách của nhà nước
gặp khó khăn nghiêm trọng. Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam còn bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân khác như: thất thoát đầu tư công nghiêm trọng, bộ máy cồng kềnh nên
chi thường xuyên cho bộ máy rất cao, tình trạng tham nhũng và thất thoát ngân sách là
nghiêm trọng…
Do đó, để kinh tế phát triển lành mạnh, việc kiểm soát thâm hụt ngân sách là rất quan

trọng. Việc này đòi hỏi phải có những giải pháp căn cơ và lâu dài mới có thể xử lý được.

20


3.2. GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THÂM HỤT
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Trên cơ sở phân tích và nhận định của Nhóm, Nhóm chúng tôi đề xuất một số
nhóm giải pháp nhằm lành mạnh hóa quản lý ngân sách và hạn chế thâm hụt ngân sách như
sau:
Thứ nhất phương pháp tính, hạch toán ngân sách phải được thực hiện công khai,
minh bach theo chuẩn mực quốc tế. Hiện nay nhiều khoản chi ngân sách từ nguồn trái
phiếu Chính phủ tài trợ cho các lĩnh vực như y tế, giáo dục, các khoản cho vay, cho vay lại
của Chính phủ nằm ngoài bảng cân đối ngân sách không tính đầy đủ vào thâm hụt ngân
sách và nợ công theo thông lệ quốc tế. Nhiều khoản chi vào dự án lớn dài hạn được phân
bổ vào quyết toán ngân sách nhiều năm thay vì được tính vào cả năm trái phiếu được phát
hành để vay nợ...Ngoài ra sự không thống nhất trong hạch toán chi ngân sách khiến cho
con số thông kê không chính xác, gây nhiễu loạn thông tin đối với các chủ thể kinh tế, gây
trở ngại cho việc đánh giá, so sánh, quản lý rủi ro nợ công giữa Việt Nam và quốc gia
khác. Vì vậy cần phải có phương pháp tính đúng, đầy đủ ngân sách theo tiêu chuẩn quốc tế
nhằm phản ánh chính xác tình trạng tài khóa, làm cơ sở cho việc sử dụng chính sách kinh
tế vĩ mô hợp lý giảm bội chi và kiểm soát lạm phát.
Thứ hai: Cắt giảm các khoản chi tiêu công chưa cần thiết và chưa hiệu quả bằng đặt
ra các tiêu chuẩn, tiêu chí để cắt bỏ, tạm hoãn thi công đối với các công trình đầu tư kém
hiệu quả, chưa thi công. Tuy nhiên việc đánh giá hiệu quả chi tiêu cho các công trình xây
dựng phải được đánh giá một cách toàn diện, khoa học và công tâm tránh hiện tượng cắt
giảm đồng loạt gây nên những hậu quả đáng tiếc. Ngoài ra các khoản chi tiêu thường
xuyên cũng cần được tra soát, cắt giảm những khoản chi tiêu không hợp lý, gây nên sự tốn
kém lãng phí không cần thiết như việc sử dụng xe công trong các cơ quan hành chính nhà
nước… Cần phải tổ chức và cơ cấu lại bộ máy chính quyền nhà nước, hiện nay bộ máy nhà

nước của chúng ta còn quá cồng kềnh gây nên gánh nặng ngân sách cho nhà nước, phải
thực hiện tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy nhà nước.
Thứ ba, cần phải có chính sách thuế hợp lý, việc tăng thuế để bù đắp ngân sách
thường không được sự đồng tình ủng hộ của người dân, doanh nghiệp.Việc tăng thuế sẽ
không khuyến khích doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, việc sản xuất kinh doanh chỉ bù lỗ
hoặc lãi ít; và không khuyến khích tiêu dùng cá nhân hộ gia đình; làm giảm tổng cầu và
tăng trưởng kinh tế. Việc tăng thuế chỉ là giải pháp mang tính cấp bách tạm thời, về lâu dài
sẽ gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế, kích cầu đầu tư. Gánh nặng thuế cao sẽ làm
cho hệ thống thuế hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng trốn thuế, phân bổ nguồn lực
bị bóp méo.
Thứ tư, thực hiện nghiêm túc Luật và chính sách chống tham nhũng, lợi ích nhóm,
tham ô, tham nhũng chính là một nguyên nhân gây nên việc đầu tư cho các công trình đầu
tư công kém hiệu quả, thậm chí nhiều công trình ngàn tỷ đắp chiếu hoặc không cần thiết
21


phải xây dựng, để dành xây dựng những công trình khác sẽ hiệu quả hơn; gây nên sự lãng
phí,tốn kém cho ngân sách nhà nước. Chính phủ cần phải xem xét và làm triệt để vấn đề
này.

3.3. GIẢI PHÁP DUY TRÌ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ngoài nhóm giải pháp trực tiếp kiểm soát chi tiêu, hạn chế thâm hụt ngân sách như
trên, việc đẩy mạnh và duy trì tăng trưởng kinh tế cũng giúp Chính phủ tăng nguồn thu,
gián tiếp góp phần giảm tình trạng thâm hụt ngân sách, cụ thể như sau:
1) Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu ổn định kinh tế
vĩ mô, kềm chế lạm phát làm tiền đề tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Qua phân tích
mối quan hệ giữa kinh tế và lạm phát ta thấy khi lạm phát tăng cao làm ảnh hưởng tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế ( giai đoạn trước năm 1992 và giai đoạn từ năm 2007 đến nay).
Trong khi đó, nền kinh tế duy trì tỷ lệ lạm phát thấp giống như “thứ dầu bôi trơn” kích cầu
tăng trưởng kinh tế. Tránh tăng trưởng nóng, bất chấp tất cả để tăng trưởng, tăng trưởng

phải tính đến vấn đề môi trường, an sinh xã hội.
2) Cần quyết tâm xây dựng một chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động phục vụ
nhân dân và doanh nghiệp. Có nhiều chính sách thông thoáng cho doanh nghiệp, cải thiện
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, cải cách doanh nghiệp nhà
nước, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân. Theo đó, tập trung cải cách thủ tục hành chính và
cải cách thể chế, nhất là thể chế kinh tế nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường đầy đủ
theo thông lệ quốc tế..
3)Tiến hành cải cách một cách triệt để bộ máy hành chính công, tiến hành cải cách
hành chính, không để hiện tượng “ Người thì kéo đi, người thì kéo lại”. Các chính sách
được đề ra thường có hiện tượng đầu voi đuôi chuột, thực hiện không hiệu quả; các chính
sách kinh tế không phù hợp với thực tiễn; chính sách gây trở ngại trong việc phát triển và
đầu tư, cần phải được sửa đổi và bổ sung sao cho phù hợp.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình bài giảng elearning Kinh tế vĩ mô, TS. Phan Thế Công, Giảng viên trường Đại
học Thương mại.
- Giáo trình Lý thuyết tài chính, PSG. TS. Dương Đăng Chính, NXB tài chính, trang 70, 71
- Giáo trình Kinh tế vĩ mô, Nguyễn Văn Ngọc, NXB ĐH Kinh tế quốc dân, trang 511, 512
- Lý Thuyết tài chính tiền tệ, Mishkin
- Trang web của Bộ Tài chính www.mof.gov.vn
- Trang web của Tổng cục thông kê www.
- Bài viết Kinh tế Việt Nam 10 năm dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
link: />- Bài viêt Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam so sánh với các nước trong khu vực - lý luận
và thực tiễn link:
/>- Bài viết Tăng trưởng kinh tế trên wikipedia link:
/>%BF
- Bài viết Thâm hụt ngân sách trên wikipedia link:

/>%C3%A1ch

23



×