Tải bản đầy đủ (.docx) (139 trang)

Luận văn lịch sử cuộc đời nhà khoa học nguyễn văn nhân dưới góc độ văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 139 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ CON NGƢỜI VÀ LỰA CHỌN NGÀNH
Y

CỦA

NGUYỄN

VĂN

NHÂN....................................................................... 6 1.1. Bối cảnh Việt
Nam những năm thế kỷ XX .............................................. 6 1.2. Dòng họ, gia
đình Nguyễn Văn Nhân .................................................... 12 1.3. Đến với
ngành Y và những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách của Nguyễn Văn
Nhân............................................................................................................14
Chƣơng 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC,
KHÁM CHỮA BỆNH VÀ ĐÀO TẠO CỦA NGUYỄN VĂN NHÂN ..... 30
2.1. Các công trình nghiên cứu khoa học của Nguyễn Văn Nhân ................. 30
2.2 Nguyễn Văn Nhân trong công tác khám chữa bệnh, giảng dạy và đào
tạo.45 Chƣơng 3: BÀN LUẬN VỀ GIÁ TRỊ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
LỊCH

SỬ

CUỘC

ĐỜI

HỌC........................................................... 54 3.1


NHÀ
Giá trị

KHOA
lịch sử-văn

hóa ............................................................................ 54 3.2 Giá trị bảo tồn di
sản của nhà khoa học .................................................. 58 3.3 Giá trị giáo
dục....................................................................................... 64

KẾT

LUẬN................................................................................................. 68 TÀI
LIỆU

THAM

KHẢO.......................................................................... 70

PHỤC LỤC................................................................................................. 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Lịch sử luôn bắt đầu từ mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Lịch sử đất nước sẽ
được nhìn phong phú hơn, đa dạng hơn nếu bắt đầu từ mỗi cá nhân, mỗi gia
đình… Mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi dòng tộc nếu có điều kiện và biết cách
kể câu chuyện của mình thì sẽ góp phần làm cho lịch sử của đất nước phong
phú hơn, đa dạng hơn”[2, tr.33].
Nghiên cứu lịch sử cuộc đời là một trong những phương pháp tiếp cận

nhân học trên thế giới được sử dụng phổ biến. Ở Việt Nam cũng có rất
nhiều nhà nghiên cứu về những nhân vật khác nhau về các nhân vật lịch sử
như: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phan Bội Châu…
Trung tâm lưu trữ Quốc gia cũng đang lưu trữ các tài liệu về cuộc đời của một
số nhân vật. Đây là công việc hết sức quý giá trong việc gìn giữ, bảo tồn di sản
của đất nước.
Năm 2008, Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam được thành
lập với chức năng nghiên cứu, bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể thông qua tiểu sử, ký ức, tư liệu và hiện vật cá nhân của các
nhà khoa học Việt Nam. Trong việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời của nhà khoa
học, Trung tâm đã sử dụng cách tiếp cận - phương pháp nghiên cứu lịch sử
cuộc đời để kể các câu chuyện của nhà khoa học. Ngay từ những ngày đầu
thành lập, các nhà khoa học chuyên ngành y học đã được lựa chọn làm đối
tượng nghiên cứu trước, sau đó lan rộng ra các chuyên ngành khác.
Trong quá trình nghiên cứu về các nhà khoa học thuộc ngành y, tôi vô
cùng ấn tượng với GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân (1924-2013). Mặc dù ông
không phải là một vị giáo sư nổi tiếng như GS Tôn Thất Tùng hay GS Hồ
Đắc Di nhưng ông lại là hiện tượng hiếm thấy ở Việt Nam khi bảo vệ luận án
tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ khoa học) ở tuổi 67. Sinh tại Hội Vũ, Hoàn Kiếm, Hà
Nội, ông là nhà khoa học thuộc chuyên ngành phẫu thuật chỉnh hình, nguyên


1


là Chủ nhiệm Khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Trung ương Quân đội
108, được đào tạo ở Liên Xô cũ. Khi nghiên cứu, chúng tôi mới biết ông là
một trong những chuyên gia hàng đầu về Chấn thương chỉnh hình quân đội,
người lập ngân hàng xương đầu tiên ở Việt Nam, có nhiều sáng kiến, đóng
góp trong việc áp dụng các kỹ thuật mới trong phẫu thuật xương.

Cũng như với nhiều nhà khoa học khác, việc đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân là một công việc hết
sức cần thiết để thông qua đó có thể hiểu được bối cảnh lịch sử; những đóng
góp của GS Nhân đối với ngành Chấn thương chỉnh hình nói riêng và ngành
Y học nói chung; bên cạnh đó cũng thấy được phẩm chất của một thầy thuốc
với trái tim nhân hậu, luôn hết lòng vì người bệnh và say mê nghiên cứu khoa
học. Đây chính là lý do tôi quyết định lựa chọn đề tài “Lịch sử cuộc đời nhà
khoa học Nguyễn Văn Nhân dưới góc độ văn hóa” làm luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Văn hóa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam đã có nhiều ấn phẩm xuất bản nói về câu chuyện cuộc đời
của các nhà khoa học. Các ấn phẩm đó có thể là từ các hồi ký như: Nhớ nghĩ
chiều hôm của GS Đào Duy Anh, Hồi ký thời kỳ thanh thiếu niên của GS
Đặng Thai Mai, Đường vào khoa học của tôi của GS Tôn Thất Tùng; các
cuốn sách giới thiệu chân dung, hoạt động, những đóng góp của nhà khoa học
như Giáo sư Nguyễn Xiển - Cuộc đời và sự nghiệp, Đặng Văn Ngữ - Một trí
tuệ Việt Nam, Tạ Quang Bửu - Nhà khoa học tài năng, uyên bác... Trung tâm
Di sản các nhà khoa học Việt Nam xuất bản sách tập hợp các bài viết của các
nghiên cứu viên trong quá trình nghiên cứu lịch sử cuộc đời của các nhà khoa
học: Di sản ký ức của nhà khoa học(tập 1,2,3,4,5,6,7), Những câu chuyện
hiện vật (tập 1,2,3).

2


Tuy nhiên, chưa có một công trình hay một ấn phẩm nào thể hiện một
cách sâu sắc và toàn diện về lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn
Nhân. Câu chuyện về cuộc đời ông được một số tác giả đề cập trong các sách,
tạp chí, trang báo điện tử. Trong cuốn Những tấm gương thầy thuốc Việt
Nam, NXB Y học, 2009 trang 560 giới thiệu những thông tin cơ bản của GS

Nhân, đồng thời có hai bài viết: Vị giáo sư già và sứ mệnh “Nâng niu
bàn chân Việt” ở trang 561-564 và Thầy thuốc nhân dân Nguyễn Văn
Nhân ở trang 564-568 giới thiệu ứng dụng bộ dụng cụ kết xương bên ngoài
của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân trên những bệnh nhân mổ bàn chân
khoèo, kéo dài chi... do ông trực tiếp mổ. “Đôi bàn tay vàng cùng với
những dụng cụ chỉnh hình sáng chế của ông đã giúp nhiều bệnh nhân thoát
khỏi cảnh tật nguyền với chi phí không quá cao”. Tác giả Hương Giang có
bài viết Lặng lẽ giúp cho con người đứng thẳng... đưa ra nhận xét: Đề tài
“bàn chân khoèo” của ông không những có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội mà
còn có ý nghĩa về mặt kinh tế, đó là cơ hội cho những người tật nguyền nghèo
khó”.
Các tài liệu nói về GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân như: Tạp chí Chỉnh
hình, Maitrise Orthopédique, Pháp, 1996 đăng bài phỏng vấn Nguyễn Văn
Nhân. Ngay ở lời tựa của bài phỏng vấn có giới thiệu “Giáo sư Nguyễn Văn
Nhân là một trong những người tiên phong và là trưởng kíp trong ngành phẫu
thuật chỉnh hình và chấn thương ở Việt Nam. Từng chứng kiến những cuộc
chiến tranh trải dài trên đất nước mình, ông đã cống hiến chuyên ngành của
mình để điều trị những nạn nhân và những người bị tai nạn”. Trong bài phỏng
vấn, GS Nhân kể về quá trình học tập, công tác, nghiên cứu của mình. Cuốn
sách Di sản ký ức của nhà khoa học (tập 2, 3, 4); Câu chuyện hiện vật (tập 1,
2) của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, đăng các bài viết liên
quan đến quá trình học tập, công tác, nghiên cứu, cũng như các tài liệu của
GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân như: Tình đồng đội và niềm tin son sắt (Hoàng


3


Thị Liêm), Hơn 40 năm theo dõi một bệnh nhân (Hoàng Thị Liêm, Lê Thị Hoài
Thu), Món quà kỷ niệm của một bênh nhân (Nguyễn Thị Thành)... Báo Quảng

Bình - Cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Bình, số
127, ngày 22-10-1998 có bài phỏng vấn GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân "Một
giờ và một đời" của tác giả Tâm Phùng. Cuốn Giáo sư Việt Nam cũng có một
trang viết khái quát thông tin cá nhân,quá trình công tác, hướng nghiên
cứu, quá trình giảng dạy và đào tạo cũng như khen thưởng của GS Nhân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu thông tin về lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn
Nhân gắn liền bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế, thông
qua việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử cuộc đời.
- Bước đầu đưa ra những nhận định về giá trị của việc nghiên cứu lịch
sử cuộc đời nhà khoa học trong việc bảo tồn di sản của nhà khoa học.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhà khoa học
Nguyễn Văn Nhân.
- Phạm vi nghiên cứu: Lịch sử cuộc đời nhà khoa học Nguyễn Văn
Nhân từ năm 1924 đến năm 2013.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu nhân học về lịch
sử cuộc đời một con người. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng:
Phương pháp sử học: Đặt lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Văn
Nhân gắn liền với bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế.
Phương pháp quan sát tham gia, phỏng vấn trực tiếp GS.TSKH Nhân
khi ông còn sống và các đối tượng liên quan như đồng nghiệp, học trò, bệnh
nhân. Nguồn tư liệu này có được là do sử dụng tư liệu lưu trữ tại Trung tâm Di
sản các


4



nhà khoa học Việt Nam và tác giả luận văn cũng thực hiện phỏng vấn khi công
tác tại Trung tâm.
Phương pháp phân tích, tổng hợp các thông tin thu được từ việc phỏng
vấn; phân tích tổng hợp các văn bản tài liệu bản thảo, thư từ, sách, tạp chí,
luận văn... của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân hiện đang được lưu trữ tại Trung
tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua các câu chuyện về lịch sử cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn
Văn Nhân, phần nào thấy được bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam và
quốc tế giai đoạn ông sinh sống, học tập, công tác; những câu chuyện về nỗ
lực học tập, sáng tạo của nhà khoa học trong thời kỳ khoa học kỹ thuật còn
chưa phát triển; góp phần tìm hiểu lịch sử của chuyên khoa Chấn thương
chình hình nói chung và ngành Y nói riêng. Qua đó thấy được giá trị của
việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời trong việc bảo tồn di sản của các nhà khoa
học.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Khái lược về con người và lựa chọn ngành Y của Nguyễn
Văn Nhân
Chương 2: Hoạt động và những đóng góp của Nguyễn Văn Nhân
Chương 3: Bàn luận về giá trị của việc nghiên cứu lịch sử cuộc đời nhà
khoa học


5


Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ CON NGƢỜI VÀ LỰA CHỌN NGÀNH Y
CỦA NGUYỄN VĂN NHÂN

1.1. Bối cảnh Việt Nam những năm thế kỷ XX
1.1.1. Về chính trị
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là dấu mốc
quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo
cuộc chiến của nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi, để chuẩn bị cho cách
mạng tháng Tám sau này, điển hình là phong trào cách mạng 1930-1931 với
đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh dân chủ 1936-1939, và
cuộc vận động chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Tháng 8-1945, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công,
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945.
Đầu năm 1946, nhân dân ta lần đầu tiên được thực hiện quyền làm chủ
của mình, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới được tổ
chức thành công, với hơn 98% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu. Tuy nhiên, vì
chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp đã
phá bỏ trắng trợn hiệp định mà chúng đã ký với ta. Mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng lên cao, từ đó Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang đi khắp cả nước,
động viên toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến lâu dài để tự giải phóng cho ta:
"Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng
nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta
thêm một lần nữa. Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
1

chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Sau khi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng
chiến ra đời, toàn thể dân tộc ta đã bước vào một cuộc chiến trường kỳ đấu
tranh chống thực dân Pháp xâm lược.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, tập IV, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011, tr. 480.



6


Cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) chống lại sự xâm lược trở lại của
Pháp của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định
Geneve về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị
chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm
giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc
tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà
Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà với sự quản lý của chính
quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã
bằng mọi cách ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người
kháng chiến cũ. Tuy nhiên, Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản
được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, phong trào đấu
tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước đã bùng nổ mạnh mẽ và ngày Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20-12-1960.
Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc
biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến
miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ ngày 5-8-1964 bắt đầu ném
bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và
giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc.
Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà
bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân
năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân
dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ
trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đập tan Chính

quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25-4-1976,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội

7


chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc. Năm
1

1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc .
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối Đổi
mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan trọng trong quá
trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đường lối Đổi mới đã tiếp
tục được Đảng khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội sau đó. Trong
hơn 20 năm qua, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành
nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, nhiều chủng loại hàng hóa được xuất
khẩu và nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến; kinh tế đạt tăng
trưởng cao vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu tiên
của thế kỷ XXI, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao,
chính sách xã hội được chú trọng hơn hệ thống pháp luật ngày càng được
hoàn thiện, quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp dần đi vào nề nếp, an ninh
quốc phòng được giữ vững, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào
chiều sâu.
1.1.2. Về kinh tế
Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu
thế kỷ XX, kinh tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân
ta phải sống trong cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90%
dân số mù chữ.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa. Chính quyền Cách mạng ra đời chưa có thời gian củng cố, đã phải đương
đầu với hàng loạt khó khăn thách thức của “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại
xâm”. Đảng và Nhà nước ta đã bắt tay ngay vào giải quyết những khó khăn
cấp bách của đời sống nhân dân, tăng cường thực lực cách mạng trên tất cả
các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội...
1

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.167.


8


Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp bội ước nổ
súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng nghìn quân lên Đà
Nẵng (20-11-1946). Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng
và Chính phủ, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng
rất anh hùng. Cùng với nhiệm vụ thực hiện cuộc kháng chiến chống
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chúng ta đã thực hiện chuyển nền
kinh tế tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ,
1

độc lập phục vụ nhu cầu kháng chiến kiến quốc .
Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nông thôn và sản xuất nông
nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích
cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về
ruộng đất, giảm tô, giảm tức. Năm 1949, sắc lệnh giảm tô, giảm tức được
ban hành, đồng thời tạm cấp ruộng đất thu được của thực dân Pháp và địa
chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm chia cho nông dân nghèo. Nhờ đó,
trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương

thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, tốc độ tăng
giá trị sản lượng nông nghiệp ở miền Bắc trong 9 năm kháng chiến đạt
10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản
xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở
rộng.Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kiệt quệ vì sự bóc lột lâu dài
của đế quốc và phong kiến, dân tộc ta đã đứng lên kháng chiến 9 năm gian
khổ chống thực dân Pháp, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước
ta đứng trước một tình hình mới, cách mạng Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền
Nam tiếp


1

Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (cb), Đại cương Lịch sử Việt Nam từ thời nguyên
thủy đến năm 2000, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011.

9


tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng độc lập dân tộc trong cả
1

nước .
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (1954), sản xuất công nghiệp
từng bước được khôi phục và phát triển. Trong 3 năm khôi phục kinh tế
(1955-1957) và tiếp theo là kế hoạch 5 năm 1961-1965 với đường lối công

nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng.
Từ năm 1965 đến 1975, tuy miền Bắc phải đương đầu với cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nhưng sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì
và phát triển. Công nghiệp miền Bắc thời kỳ này đã có bước phát triển khá.
Từ những cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ bé, chủ yếu là khai thác nguyên
liệu và sửa chữa nhỏ nay đã bắt đầu sản xuất một phần tư liệu sản xuất và
phần lớn những vật phẩm tiêu dùng của nhân dân.
Có thể nói, miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát từ
một nền kinh tế hết sức nghèo nàn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền Bắc không những làm tròn sứ mệnh là
hậu phương lớn đối với miền Nam ruột thịt, đánh thắng cuộc chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, mà còn giành được những thắng lợi to lớn trong công
cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa và nâng cao đời
sống nhân dân.
Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và anh hùng, cách mạng miền
Nam từng bước lớn mạnh và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Với cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại
hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất tổ quốc.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất,
cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.


1

Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (cb), Đại cương Lịch sử Việt Nam từ thời nguyên
thủy đến năm 2000, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011.


10


Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng
với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc
dân còn trầm trọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã
hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định; đời sống của
nhân dân lao động còn khó khăn. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh
đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá V (6-1986) đã
đánh giá tình hình sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9-1985) và khẳng định
chính thức đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Đại hội VI của Đảng tháng 12-1986 đã quyết định thực hiện đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối
đổi mới của Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản
xuất và dịch vụ.
Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được
những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và
Nhà nước ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã
thành công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và
khuyến khích họ tự mình phấn đấu cải thiện cuộc sống.
1.1.3. Văn hóa, xã hội
Trước cách mạng tháng Tám nước ta là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, nên di sản mà thực dân Pháp để lại cho chúng ta là vô cùng to lớn. Thực
dân Pháp đã thực hiện một nền giáo dục nô dịch, trên 90% dân số mù
chữ. Trung bình 1 vạn dân chỉ có 115 học sinh vỡ lòng, 210 học sinh tiểu học,
2 học sinh chuyên nghiệp và đại học. Cơ sở y tế thiếu thốn và chủ yếu phục
vụ cho quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay sai phản động. Cả nước chỉ có
213 bác sĩ, 335 y sĩ, 264 nữ hộ sinh, bình quân 1 vạn dân mới có 0,23 bác sĩ và
y sĩ.



11


Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục-chống giặc dốt
được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại
xâm, giặc đói. Từ 1946 đến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
cũng nâng lên. Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, Quỹ tiêu dùng của nhân dân
tính bình quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia
đình công nhân viên chức tăng 48,5%; của gia đình xã viên hợp tác xã nông
nghiệp tăng 73,8%. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Đảng và Nhà nước ta
đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng nền kinh tế, văn hóa giáo dục, và đã
đạt được nhiều thành tựu.
Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên
biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000
nước ta đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học.
Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ
thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình
dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế
phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là
6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%; đến
năm 2004 còn 26,7%. Chỉ số về sức khoẻ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ.
Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước
có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam.
1.2. Dòng họ, gia đình Nguyễn Văn Nhân
GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân sinh ngày 12-8-1924 tại Hội Vũ,
Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thân phụ ông là cụ Nguyễn Văn Hạnh sinh năm

1899 tại đường Nam Bộ, Hà Nội. Năm 1915, cụ Hạnh học lớp y tá nhà binh 7
tháng tại Nhà thương đồn thuỷ (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108),
ra trường


12


bị điều sang Pháp rồi Tân Đảo, đến năm 1922 mới về nước và làm việc ở nhà
thương Chũ - Phú Thọ - Việt Trì - Hưng Hoá - Đồn Vàng, cho đến 1937 mới
trở lại Bệnh viện Phủ Doãn làm việc cho đến kháng chiến toàn quốc.
Tháng 12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cụ Hạnh theo đoàn giải phẫu
lưu động của GS Tôn Thất Tùng ra Vân Đình (Hà Đông) cho đến cuối năm
1947 về Ban Y tế Phú Thọ phụ trách Trạm y tế nông cụ kháng chiến rồi sang
trường Trung học quốc dân miền núi đến 1951 nghỉ mất sức. Tháng 7-1955,
cụ lại ra làm việc phụ trách y tế ở Ty Giao thông Lạng Sơn đến ngày mất (206-1968).
Thân mẫu của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân là cụ Hoàng Thị Chín, quê
ở Thượng Thuỵ, Ước Lễ, Thanh Oai, Hà Tây. Cụ Chín có con trai là Nguyễn
Đình Quế, sau một thời gian chồng cũ mất, cụ Chín lấy cụ Nguyễn Văn Hạnh.
Cuộc đời cụ cũng giống như bao phụ nữ thành thị ngày trước: Lấy chồng-sinh
con-nuôi dạy con cái-quản lý nhà cửa, nghĩa là cuộc đời của một bà nội trợ.
Do công việc của cụ Hạnh đi đây đó khắp nơi nên cụ Chín phải theo chồng
đến những vùng cụ Hạnh phải chuyển đến. Sau khi cụ Hạnh mất, cụ Chín về
Hà Nội sống cùng với con trai Nguyễn Văn Nhân, nhưng chỉ một thời gian
ngắn thì đổ bệnh, phải vào nằm tại Viện Quân y 108. Lúc này, Hà Nội hết sức
căng thẳng vì Mỹ đe doạ ném bom nên BS Nguyễn Văn Nhân phải vào hẳn
trong Viện để “trực chiến”. Tháng 11-1968, tình hình bệnh của cụ càng xấu
đi, lúc tỉnh lúc mê, BS Nguyễn Văn Nhân lại nhận được lệnh chuẩn bị đi B.
BS Nhân vào chiến trường được 10 ngày thì cụ bà mất.
Có thể thấy truyền thống gia đình cũng có người theo ngành y, đây là

một trong những yếu tố quyết định đến việc lựa chọn ngành Y của Nguyễn
Văn Nhân. GS Nhân kể: “Sơ học tiểu học tôi học ở trường Tiểu học Đồn
Vàng, châu Thanh Sơn, Phú Thọ do khi đó thân phụ ông bị cử biệt phái lên
Phú Thọ làm Bệnh xá trưởng ở khu Đồn Vàng. Tôi đi theo bố nên học ở
những chỗ khỉ ho cò gáy ấy. Và cũng vì bố tôi đi làm ở các nơi như thế và


13


×