Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận triết học Sự vận dụng mối quan hệ của cặp phạm trù Nguyên Nhân - Kết quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.66 KB, 21 trang )

Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Hạn hán, xâm ngập mặn nghiêm trọng ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đã
và đang là vấn đề được nhiều người đặc biệt quan tâm. Hiện nay tuy chưa phải là cao
điểm của mùa khô năm 2016, nhưng đến thời điểm này, hạn hán và mặn xâm nhập
đã làm thiệt hại hàng chục ngàn ha lúa tại khu vực Nam Bộ, nhiều nhất ở các tỉnh
Tiền Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau… và gây thiếu nước sinh hoạt cho
hàng ngàn hộ dân. Vấn đề mà các địa phương khu vực Nam Bộ quan tâm hiện nay là
do tác động của các hồ chứa thượng lưu, dòng chảy sông Mê Công về ĐBSCL khiến
tình hình hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL diễn biến phức tạp và để lại nhiều tác
hại nghiêm trọng. Ở nhiều vùng ven biển, nước mặn xâm nhập sâu và sớm hơn mọi
năm, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Nhiều khu vực nội đồng, đô thị… đang
đối mặt với nguy cơ thiếu nước ngọt cho sinh hoạt. Hậu quả của nó hiện rất lớn và
ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, cung cấp
nước sinh hoạt của vùng ĐBSCL. Do đó, em đã mạnh dạn nhận đề tài: “Sự vận
dụng mối quan hệ của cặp phạm trù Nguyên Nhân-Kết quả trong công tác Phòng
chống hạn và xâm ngập mặn ở ĐBSCL” nhằm đánh giá mức độ xâm nhập mặn các
Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.
2. Đối tượng nghiên cứu, Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Vì đây là đề tài lớn, khá quan trọng, vì vậy sẽ có rất nhiều vấn đề cần được
nghiên cứu kĩ. Tuy nhiên, do thời gian và vốn kiến thức có giới hạn, do vậy, trong đề
tài này em chỉ tập trung nghiên cứu hai vấn đề sau:
- Xác định tình hình hạn hán, xâm nhập mặn khu vực ĐBSCL vào cuối mùa
khô năm 2015-đầu năm 2016 và qua đó đánh giá những tác động của quá trình này


đối với đời sống, kinh tế của người dân trong khu vực.
- Dựa trên các tài liệu thu thập cũng như qua các kết quả phân tích và diễn
biến của quá trình xâm nhập mặn qua các năm để dự báo tình hình nhiễm mặn vào
các năm tới.
Theo dõi sơ đồ diễn biến xâm nhập mặn khu vực ĐBSCL theo không gian và
thời gian, qua đó đánh giá những ảnh hưởng của quá trình xâm nhập mặn đến đời
Trang 1
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

sống sinh hoạt và sản xuất của người dân khu dân cư trong khu vực ĐBSCL chịu tác
động. Qua đó có những đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế, giảm thiểu quá trình
xâm nhập mặn trên khu vực.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó có chú ý các phương pháp: logic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
Để thực hiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô, và
không thể thiếu nguồn tài liệu quý giá có liên quan đến đề tài: Tài liệu về địa chất địa chất thuỷ văn, đặc điểm địa lý tự nhiên khu vực nghiên cứu, chế độ thuỷ triều,
chất lượng nước, lưu lượng nước xả của các đập, hồ vùng đầu nguồn… tại các cơ
quan: Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam; Đài khí tượng thuỷ văn khu vực Nam
Bộ; Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ.
Dựa trên các tài liệu thu thập được, đồng thời kết hợp với các số liệu để nêu
lên những nhận xét, đánh giá, những giải pháp nhằm hạn chế quá trình xâm ngập
mặn ở Vùng ĐBSCL cũng như vấn đề bảo vệ môi trường để có những Đề xuất giải
pháp thích ứng đối với công tác Phòng chống hạn và xâm ngập mặn ở ĐBSCL.

Báo cáo được viết và xử lý số liệu dựa trên phần mềm Microsoft Word, có sử dụng
hình ảnh minh họa từ các tài liệu thu thập được.

Trang 2
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

B. NỘI DUNG
Chương 1. Lý luận chung về mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù Nguyên
Nhân – Kết quả:
1.1 Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác-Lênin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng hai phạm trù giữa cái Nguyên
nhân-là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó với Kết quả-là phạm trù
chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Qua đó phản ánh mối quan hệ hình thành của
các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
1.2 Mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù Nguyên Nhân – Kết quả:
1.2.1 Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết
quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
Song, phải chú ý rằng giữa nguyên nhân và kết quả không chỉ có mối quan hệ về thời
gian.
Ví như sấm luôn luôn “đến sau” chớp, nhưng chớp không phải là nguyên

nhân của sấm, mà là do sự phóng điện rất mạnh của các đám mây tích điện; tốc độ
lan truyền của ánh sáng lớn hơn tốc độ lan truyền của âm thanh nên ta thường thấy
chớp trước khi nghe tiếng sấm. v.v…
Những hiện tượng nối tiếp trên không nằm trong mối liên hệ nhân - quả với nhau,
mà chỉ đơn thuần là quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian.
Như vậy, khi xem xét mối liên hệ nhân - quả mà chỉ chú ý đến tính liên tục về
thời gian thôi thì chưa đủ. Cái quan trọng nhất, cũng đồng thời là cái phân biệt liên
hệ nhân - quả với liên hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian chính là ở chỗ: giữa nguyên
nhân và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó nguyên nhân sinh ra
kết quả.
Trang 3
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào? Thực tiễn cho thấy:
Thứ nhất: cùng một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, cùng một chủ trương cần kích thích lợi ích cá
nhân khi áp dụng vào trường hợp này có thể gây nên sự hăng hái của người lao động,
nhưng trong trường hợp khác lại có thể gây nên những hành vi tội lỗi.
Thứ hai: cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác
nhau tác động riêng lẻ, hay tác động cùng một lúc,
Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động
của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào hướng
tác động của nó. Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một
hướng thì chúng sẽ gây ra nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả.
Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác

nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn thành triệt tiêu các tác dụng của nhau.
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, có thể phân các nguyên nhân ra thành:
- Nguyên nhân chủ yếu là những nguyên nhân mà thiếu chúng thì kết quả sẽ
không xảy ra. Nguyên nhân thứ yếu là những nguyên nhân mà sự có mặt của chúng
chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt của hiện tượng.
- Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay giữa
những yếu tố của cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất
định. Nguyên nhân bên ngoài: là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất
khác nhau và gây ra những biến đổi thích hợp trong những kết cấu vật chất ấy.
Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng quyết định sự hình thành, tồn tại và phát
triển của các kết cấu vật chất. Còn nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác
dụng thông qua những nguyên nhân bên trong.
- Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập đối
với ý thức của con người, của các giai cấp, các chính đảng, v.v... Nguyên nhân chủ
quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức của con người trong
lĩnh vực hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng, v.v..., nhằm thúc
đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển... của các quá trình hiện thực
Trang 4
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

1.2.2 Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: hoặc
thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực) hoặc cản trở sự hoạt động

của nguyên nhân (hướng tiêu cực).
Cụ thể: Trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục.
Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết
quả của chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao
lại tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế và giáo dục
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở chỗ: một
sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối
quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Một hiện tượng nào đó với tính cách là kết
quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình lại trở thành nguyên nhân
sinh ra hiện tượng thứ ba... và quá trình cứ thế tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc,
tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào có thể
trở thành khâu bắt đầu hay khâu cuối cùng. Vì vậy, các chuỗi nhân - quả là “không
đầu”, “không đuôi”, và một hiện tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả
bao giờ cũng phải ở trong một quan hệ xác định, cụ thể.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có
sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng
không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân, nhiệm vụ của
nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội, tư duy để giải thich được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải
tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế
giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ đầu óc của con người, tách rời thế
giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một
hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi
hiện tượng đó xuất hiện.
Trang 5
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân



Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có
vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn,
chúng ta cần phải phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên
nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ
quan, nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động
của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân
cùng chiều hoạt động và hạn chế nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn,
chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đã đạt được để tạo điều kiện
thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.

Trang 6
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

Chương 2. Vận dụng mối quan hệ của cặp phạm trù Nhân - quả vào xem xét
thực trạng vấn đề xâm ngập mặn ở Vùng ĐBSCL
2.1 Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Vùng Đồng Bằng Sông
Cửu Long:
2.1.1. Vị trí địa lý:
Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) rộng lớn bao gồm các tỉnh Long

An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau, Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang với tổng diện tích tự nhiên
39.734 km2 chiếm 12,2 % diện tích tự nhiên của cả nước.
Nằm ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, liền kề với vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam nên vùng có mối quan hệ hai chiều rất chặt chẽ và quan trọng. Nằm
giáp với Campuchia và cùng chung sông Mê Kông là điều kiện giao lưu hợp tác với
các nước trên bán đảo. Nằm ở vùng tận cùng Tây Nam của Tổ quốc có bờ biển dài
73,2 km và nhiều đảo, quần đảo như Thổ Chu, Phú Quốc là vùng đặc quyền kinh tế
giáp biển Đông và vịnh Thái Lan.
Vùng ĐBSCL nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng
không quốc tế giữa Nam á và Đông Nam á cũng như với châu úc và các quần đảo
khác trong Thái Bình Dương. Vị trí này rất quan trọng trong giao lưu quốc tế.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của vùng ĐBSCL
2.1.2.1 Địa hình:
Vùng ĐBSCL của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích phù sa và
bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo
sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông
và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc
theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như
vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, Vùng tây nam sông
Hậu và bán đảo Cà Mau. Địa hình của vùng tương đối bằng phẳng, độ cao trung
bình là 3 - 5m, có khu vực chỉ cao 0,5 - 1m so với mặt nước biển.
Trang 7
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN


2.1.2.2 Khí hậu:
Nền khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo thể hiện rõ rệt. Nhiệt độ
trung bình hàng năm 24 – 27 0C, biên độ nhiệt trung bình năm 2 – 30 0C, chênh lệch
nhiệt độ ngày và đêm thấp, ít có bão hoặc nhiễu loạn thời tiết. Có hai mùa rõ rệt,
mùa mưa tập trung từ tháng 5 - 10, lượng mưa chiếm tới 99% tổng lượng mưa của cả
năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, hầu như không có mưa.
Có thể nói các yếu tố khí hậu của vùng thích hợp cho các sinh vật sinh trưởng
và phát triển, là tiền đề cho việc thâm canh, tăng vụ.
2.1.2.3 Đất đai:
Diện tích đất trong vùng bao gồm các nhóm đất sau:
+ Đất phù sa: Phân bố chủ yếu ở vùng ven và giữa hệ thống sống Tiền và
sông Hậu, diện tích 1,2 triệu ha chiếm 29,7% diện tích đất tự nhiên toàn vùng và
khoảng 1/3 diện tích đất phù sa của cả nước. Nhóm đất này có độ phì cao và cân đối,
thích hợp đối với nhiều loại cây trồng lúa, cây ăn quả, màu, cây công nghiệp ngắn
ngày.
+ Nhóm đất phèn: Phân bố ở vùng Đồng Tháp Mười và Hà Tiên, vùng trũng
trung tâm bản đảo Cà Mau với tổng diện tích 1,2 triệu ha chiếm 40% diện tích toàn
vùng. Đất có hàm lượng độc tố cao, tính chất cơ lý yếu, nứt nẻ nhanh.
+ Nhóm đất xám: Diện tích trên 134.000 ha chiếm 3,4% diện tích toàn vùng.
Phân bố chủ yếu dọc biên giới Campuchia, trên các bậc thềm phù sa cổ vùng Đồng
Tháp Mười. Đất nhẹ, tơi xốp, độ phì thấp, độc tố bình thường.
+ Nhìn chung đất đai ở đây rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, thích hợp
trồng lúa, dừa, mía, dứa, cây ăn quả.
2.1.2.4 Tài nguyên nước:
ĐBSCL lấy nước ngọt từ sông Mê Công và nước mưa. Cả hai nguồn này đều
đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước bình quân của sông Mê Công chảy
qua ĐBSCL hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù sa. Chính
lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên Đồng
bằng ngày nay.
ĐBSCL có hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ đan xen, nên rất thuận lợi cung

cấp nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, sông Mê Công là
Trang 8
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng năm dao động
từ 2.400 mm ở vùng phía Tây ĐBSCL đến 1.300 mm ở vùng trung tâm và 1.600 mm
ở vùng phía Đông. Về mùa lũ, thường xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây ngập
lụt.
- Chế độ thuỷ văn của ĐBSCL có 3 đặc điểm nổi bật:
+ Nước ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa, phù du, ấu trùng.
+ Nước mặn vào mùa khô ở vùng ven biển.
+Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn.
- ĐBSCL có trữ lượng nước ngầm không lớn. Sản lượng khai thác được đánh
giá ở mức 1 triệu m3/ngày đêm, chủ yếu phục vụ cấp nước sinh hoạt.
2.1.2.5 Tài nguyên đất
Tổng diện tích ĐBSCL khoảng 3,96 triệu ha, trong đó khoảng 2,60 triệu ha
được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản chiếm 65%. Trong
quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu đất
lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày
khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha, khoảng 8,2% diện tích
tự nhiên.
Vùng bãi triều có diện tích khoảng 480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có
khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ. Theo điều tra năm 1995 có 0,508
triệu ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng 211.800 ha và đất không rừng 296.400
ha. Tỷ lệ che phủ rừng chỉ còn 5%.

- Các nhóm đất chính ở ĐBSCL gồm:
+ Đất phù sa sông (1,2 triệu ha): Tập trung ở vùng trung tâm ĐBSCL. Chúng
có độ phì nhiêu tự nhiên cao và không có các yếu tố hạn chế nghiêm trọng nào.
Nhiều loại cây trồng có thể canh tác được trên nền đất này.
+ Đất phèn (1,6 triệu ha): Đặc trưng bởi độ axit cao, nồng độ độc tố nhôm
tiềm tàng cao và thiếu lân. Nhóm đất này cũng bao gồm cả các loại đất này cũng bao
gồm cả các loại đất phèn nhiễm mặn nặng và trung bình. Các loại đất phèn tập trung
tại Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên còn các loại đất phèn mặn tập trung tại
vùng trung tâm bán đảo Cà Mau.

Trang 9
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

+ Đất nhiễm mặn (0,75 triệu ha): Chịu ảnh hưởng của nước mặn trong mùa
khô. Các vùng đất này khó có thể được cung cấp nước ngọt. Hiện nay lúa được trồng
vào mùa mưa và ở một số khu vực người ta nuôi tôm trong mùa khô.
+ Các loại đất khác (0,35 triệu ha): Gồm đất than bùn (vùng rừng U Minh),
đất xám trên phù sa cổ (cực Bắc của ĐBSCL) và đất đồi núi (phía Tây-Bắc ĐBSCL).
Nhìn chung ở ĐBSCL rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp không có hạn chế lớn.
Do nền đất yếu cho nên để xây dựng công nghiệp, giao thông, bố trí dân cư, cần phải
gia cố, bồi đắp nâng nền, do đó cần đòi hỏi chi phí nhiều.
Chế độ nước ngầm khá phức tạp, phần lớn ở độ sâu 100 mét. Nếu khai thác quá
nhiều có thể làm nhiễm mặn trong vùng.
2.2 Thực trạng tình hình xâm ngập mặn và các yếu tố chi phối ở vùng
ĐBSCL:

2.2.1 Khái quát về độ mặn:
Độ mặn là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong việc phân tích và đánh
giá chất lượng nước. Độ mặn được xác định chủ yếu dựa trên sự hiện diện của clorur
và Sunfat. Chính hàm lượng của Clorur và Sunfat trong nước quyết định mức độ
nhiễm mặn trên sông.
Clorur là anion chính trong nước thiên nhiên và nước thải. Vị mặn của Clorur
thay đổi tuỳ theo hàm lượng và thành phần hoá học của nước. Thông thường, mẫu
nước chứa khoảng 250 mg Cl -/l người ta đã có thể nhận ra vị mặn của nước. Tuy
nhiên, khi mẫu nước có độ cứng cao, độ mặn của nước rất khó nhận biết được dù
trong nước đã chứa đến 1000 mgCl -/l. Hàm lượng Clorur cao sẽ gây tai hại rất lớn
cho con người. Clorur có thể có những nguồn cung cấp như sau:
- Nước mặn từ các biển hiện tại theo các cửa sông rồi đi vào các sông rạch
mang theo hàm lượng Clorur rất cao. Ở những khu vực ven biển, nước mưa cũng
chứa một lượng Clorur rất lớn. Vì vậy, nước mưa cũng là nguồn cung cấp Clorur cho
các sông rạch.
- Ngoài ra, Clo còn có nguồn gốc từ các loại chất thải, nước thải công nghiệp
cũng như sinh hoạt của người dân. Theo các số liệu thống kê, trong nước tiểu của
mỗi người trung bình trong một ngày có thể cung cấp khoảng 6g NaCl/ngày. Do vậy,
đây cũng là một trong những nguồn cung cung cấp Clorur thường xuyên cho các khu
vực tiếp nhận nước thải, chất thải.
Trang 10
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

- Đối với các vùng ven biển, cấu tạo địa chất là những cồn cát lớn, bùn, phù
sa lấp đầy ở dạng mềm chứa đựng nhiều thấu kính cát có khả năng mao dẫn, tạo điều

kiện cho nước biển xâm nhập vào đất liền.
- Còn tại những nơi có nguồn gốc là vùng sình lầy ven biển, trong quá trình
khai hoang lấn biển biến thành vùng ngọt hoá để trồng lúa hoặc rau màu, đất và keo
sét của những vùng này còn chứa một hàm lượng muối nhất định. Khi đắp đê, vùng
sình lấy này sẽ bị tù hoá, chuyển từ môi trường có mặn tiềm sinh thành môi trường
bị oxy hoá . Vì vậy, lượng muối vẫn còn tồn tại chuyển sang bốc hơi lên bề mặt. Như
vậy, không chỉ có đất ở khu vực này bị nhiễm mặn mà nguồn nước nơi đây cũng sẽ
chứa một lượng muối nhất định.
Tuy nhiên, tuỳ theo từng vùng cụ thể mà sự xâm nhập mặn có thể do một
nhóm hoặc tất cả các nguyên nhân trên.
2.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến độ mặn:
Sự xâm nhập mặn của nước biển vào các sông rạch được giải thích là do vào
mùa khô, nước sông cạn kiệt khiến nước biển theo các sông, kênh rạch dẫn tràn vào
gây mặn. Hiện tượng tự nhiên này xảy ra hàng năm và do đó có thể dự báo trước.
Diễn biến xâm nhập mặn của các sông rạch của Đồng Bằng Sông Cữu Long phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: nước dâng, gió mùa, thuỷ triều, lượng mưa tại chổ và
đặc biệt là yếu tố điều tiết lượng nước ở các hồ chứa thượng nguồn. Mùa mưa 2015
đến muộn và kết thúc sớm nên dòng chảy bị thiếu hụt, mực nước sông Me Kong
xuống thấp nhất 90 năm qua. Xâm nhập mặn đã xuất hiện sớm hơn cùng kỳ gần 2
tháng, làm chết hàng trăm nghìn ha lúa.
2.2.2.1 Yếu tố điều tiết lưu lượng nguồn nước thượng lưu Mê Công:
Năm 2015 do ảnh hưởng của hiện tượng El-Nino nên mùa mưa đến trễ nhưng
lại kết thúc sớm, tổng lượng mưa trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm
từ 20- 50%. Hiện nay bước vào thời kỳ giữa mùa khô nên dòng chảy thượng lưu
chảy về đồng bằng sông Cửu Long đang xuống thấp (mức lịch sử) và ở mức rất thấp
so với liệt tài liệu trung bình nhiều năm từ 1980 đến nay.
Hai yếu tố thượng lưu ảnh hưởng quan trọng đến nguồn nước, xâm nhập mặn ở
ĐBSCL là lượng trữ trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratie (điểm bắt
đầu của vùng đồng bằng châu thổ Mê Kông thuộc Campuchia và Việt Nam). Diễn
biến mực nước ở cả hai nguồn trên đều ở mức thấp.

Trang 11
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

2.2.2.2 Yếu tố thủy triều:
Khu vực ĐBSCL chịu tác động mạnh của hai chế độ thủy triều khác nhau ở
biển Đông và biển Tây. Ven biển Đông, từ Long An đến Mũi Cà Mau, là bán nhật
triều không đều, biên độ khoảng 3-4m. Ven biển Tây, từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên,
là nhật triều không đều, biên độ 0,8-1,2m. Trong những ngày triều cường nếu xuất
hiện gió (nhất là gió chướng phía biển Đông) sẽ làm gia tăng phạm vi xâm nhập mặn
trên dòng chính và kênh rạch nội đồng. Theo kết quả dự báo triều mùa khô năm 2015
– 2016, thủy triều chưa có yếu tố gì đặc biệt, chỉ ở mức bình thường như mọi năm,
đỉnh triều rơi vào đầu tháng. Mùa gió chướng (ở Biển Đông) bắt đầu hoạt động ngay
từ đầu mùa khô, đây là yếu tố làm gia tăng xâm nhập mặn vào hệ thống sông kênh,
rạch ĐBSCL.
Với điều kiện khí tượng nêu trên, nguồn nước ngọt trên Đồng bằng sẽ rất
khan hiếm; thêm vào đó, nhiệt độ cao sẽ làm gia tăng bốc hơi, xâm nhập mặn và làm
gia tăng nhu cầu nước cho cây trồng.
2.2.2.3. Khí tượng trên đồng bằng:
Theo nhận định của Đài KTTV Nam Bộ, năm 2015 do ảnh hưởng hiện tượng
EL Nino và dự kiến vẫn còn ở mức mạnh, kéo dài đến hết vụ Đông Xuân (dự kiến
đến tháng 4 năm 2016) nên nền nhiệt độ dự báo trong các tháng mùa khô 2016 trên
đồng bằng có xu thế cao hơn TBNN từ 0,5 – 1,50C, nhiệt độ cao nhất ở mức 33 –
370C. Với điều kiện khí tượng nêu trên, nguồn nước ngọt trên Đồng bằng sẽ rất khan
hiếm; thêm vào đó, nhiệt độ cao sẽ làm gia tăng bốc hơi, xâm nhập mặn và làm gia
tăng nhu cầu nước cho cây trồng.

Việc sử dụng nước là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng xâm
nhập mặn. Tại ĐBSCL nước sử dụng đa dạng cho các ngành sản xuất nhưng nước sử
dụng nhiều nhất vẫn là cho trồng lúa.
Theo tính toán thủy triều từ nay đến cuối tháng 5.2016, vùng ĐBSCL còn
chịu tác động 2 đợt triều cường mạnh, trong đó đáng kể nhất là đợt triều cường từ
ngày 11-13.3.2016 kết hợp với đợt gió mùa đông bắc, đỉnh triều vùng cửa sông có
khả năng xấp xỉ và cao hơn đợt triều cường ngày 7-10.2.2016 vừa qua.
Như vậy, dòng chảy từ thượng lưu về vùng đồng bằng sông Cửu Long mùa
khô 2016 dự kiến ở mức thấp, khả năng xâm nhập mặn vùng cửa sông Nam Bộ tiếp
Trang 12
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

tục sâu hơn và cao hơn cùng kỳ của mùa khô năm 2015. Đặc biệt từ ngày 1113.3.2016, do ảnh hưởng của triều cường kết hợp với đợt gió mùa đông bắc độ mặn
tăng cao và vào sâu trong nội đồng, đây là đợt xâm nhập mặn cao (tương đương với
đợt mặn đầu tháng 2.2016), ranh mặn 4g/l trên sông Vàm Cỏ xâm nhập sâu từ 100 120km tính từ cửa sông; trên sông Tiền, sông Hậu xâmnhập sâu nhất khoảng 6065km.
Đến giữa tháng 4.2016 độ mặn giảm dần và đến trung tuần tháng 4.2016 thiên
tai xâm nhập mặn ở vùng ĐBSCL cơ bản sẽ giảm. Trong khi đó lượng mưa vẫn ở
tình trạng thiếu hụt và đồng thời với sự xuất hiện nắng nóng nên đến tháng 5.2016,
thiên tai hạn hán mới suy giảm ở Nam Bộ

Như vậy, độ mặn trong những tháng mùa khô 2015 tăng rất nhiều so với độ
mặn cực đại trong những năm qua. Hiện trạng này ít nhiều ảnh hưởng đến thời vụ
lúa Đông Xuân vừa mới gieo trồng trong khu vực.
2.2.3. Những hiệu quả đáng kể của quá trình đẩy mặn từ các hồ chứa:
Theo các kết quả phân tích cũng như từ những thông tin Viện Khoa Học Thủy Lợi

Miền Nam và Đài KTTV Nam Bộ cung cấp cho thấy sự điều tiết của các hồ chứa ở
thượng nguồn đã đạt được những hiệu quả đáng kể.
2.2.3.1 Chế độ nước trong Biển Hồ (Tonle Sap)
Mực nước giữa mùa khô năm 2015-2016, tại trạm Prek Kdam (gần Biển Hồ)
đến ngày 15/2/2016. Từ biểu đồ cho thấy diễn biến mực nước Biển Hồ ở trạng thái
cực thấp (trung bình khoảng 1,96m) so với chuỗi số liệu trung bình nhiều năm thời
kỳ 1980-2013 và thấp hơn cùng kỳ năm 2014-2015 trung bình khoảng 1,07m. Do đó
có thể dự đoán dòng chảy từ Biển Hồ về đồng bằng trong mùa khô 2015-2016 rất
hạn chế.
2.2.3.2 Dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công
Năm nay, dòng chảy đầu mùa khô về Đồng bằng sông Cửu Long nhỏ nhưng
có xu thế tăng từ tháng 1, đặc biệt đầu tháng 2/2016 dòng chảy thượng lưu về đồng
bằng có sự gia tăng đột biến trong thời gian ngắn khoảng 1 tuần

Trang 13
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

Như vậy ta thấy, dòng chảy từ thượng lưu về đồng bằng nước ta trong năm
thủy văn nói 3 chung và mùa khô 2015-2016 nói riêng dự kiến ở mức thấp lịch sử.
Tuy dòng chảy thượng lưu về đồng bằng trong đầu tháng 2 có gia tăng đột biến
nhưng không duy trì (chỉ xuất hiện trong khoảng 1 tuần); Do vậy, xâm nhập mặn
trên đồng bằng từ cuối tháng 2 đến hết mùa khô có khả năng duy trì ở mức cao và
hết sức nghiêm trọng như đã dự báo trước đây.
Từ những kết quả trên, ta nhận thấy độ mặn tỷ lệ nghịch với lượng mưa. Khí
hậu càng khô hạn, sông càng kiệt nước, nước mặn càng đi sâu vào nội đồng. Tuỳ

theo mùa mưa đến sớm hay muộn mà độ mặn trên các sông rạch cao hay thấp và
xâm nhập mặn mùa khô hoàn toàn chấm dứt hay không tuỳ thuộc vào lượng mưa tại
chỗ.
Theo các tài liệu khảo sát tin Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam mưa ít,
hạn hán xảy ra gay gắt là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nước mặn xâm nhập
sâu vào các sông rạch trên địa bàn ĐBSCL. Thông thường vào các năm trước, ở thời
điểm độ mặn cao nhất, ranh mặn 4 ‰ ( mức độ không thể sản xuất được)
2.2.3.3 Vấn đề thiếu hụt nguồn nước ngọt và những hệ lụy cơ bản mà nó gây
ra:
Như chúng ta đã thấy tài nguyên nước có xu hướng suy thoái do tác động của
con người và biến đổi khí hậu toàn cầu. Về mùa khô ở ĐBSCL hầu như không có
mưa, nguồn nước chủ yếu do sông Mê Kông cung cấp, bình quân lưu lượng kiệt của
sông Mê Kông chảy về ĐBSCL khoảng 2000 m 3/s. Trong giai đoạn tới, 5 nước trong
lưu vực sông MêKông sẽ đẩy mạnh phát triển kinh tế. Đây là những nước có nền sản
xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên nhu cầu dùng nước rất nhiều, bên cạnh đó thảm
thực vật phía thượng nguồn đang bị suy giảm nghiêm trọng. Ước tính lưu lượng chảy
về ĐBSCL lúc đó chỉ còn khoảng 1000 m3/s, nguy cơ hạn hán sẽ rất nghiêm trọng.
Điều này hoàn toàn phù hợp với dự báo của Tổ chức Quỹ bảo vệ thiên nhiên
Thế giới (WWF). Theo đánh giá của tổ chức này, trong số 5 dòng sông đang bị cạn
kiệt ở châu Á, ngoài các sông Dương Tử, Salween, Ganges và Indus, có cả sông Mê
Kông đi qua Việt Nam. Khu vực ĐBSCL có diện tích 39.313 km 2, chiếm hơn 79%
diện tích của tam giác châu Mê Kông. Qua đó dễ dàng hình dung trong trường hợp
sông Mê Kông bị cạn kiệt sẽ là thảm họa cho cả khu vực.

Trang 14
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học


CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

Vấn đề thiếu hụt nguồn nước ngọt sẽ tác động hết sức tiêu cực đến mọi mặt
đời sống kinh tế xã hội. Riêng đối với ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
việc thiếu nguồn nước sẽ gây ra những khó khăn tổn thất lớn ở những vấn đề chính
như sau:
+ Thiếu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn quả và dân sinh
+ Thiếu nguồn nước ngọt phục vụ cho nuôi thủy sản
+ Theo dự báo trong những năm tới, mực nước biển sẽ ngày một dâng cao,
khả năng xâm nhập mặn sẽ rất lớn. Lưu lượng nước thượng nguồn về bị giảm sút sẽ
không đủ lưu lượng đẩy mặn, nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa, thực tế có
những năm ở một số sông mặn xâm nhập sâu đến gần 90 km như ở Mộc Hoá Long
An gây khó khăn lớn tới sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của người dân.
2.2.4 Nguyên nhân xâm nhập mặn tăng cao ở ĐBSCL:
2.2.4.1 Nguyên nhân:
Một trong những trở ngại thiên nhiên chính của Đồng bằng sông Cửu Long là
hiện tượng xâm nhập mặn vào mùa khô, ảnh hưởng không chỉ đến sản xuất nông
nghiệp mà còn cấp nước sinh hoạt và đời sống cho hàng triệu người dân ven biển.
Trong điều kiện phát triển cả ở thượng lưu và nội tại ĐBSCL hiện nay, cộng với tác
động của biến đổi khí hậu-nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng trở nên phức
tạp hơn, khó giải quyết hơn, nên rất cần xem xét kỹ nguyên nhân để tìm ra một giải
pháp cơ bản cho vấn đề này. Hàng năm, mặn thường xuất hiện trên vùng các cửa
sông ĐBSCL từ khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 5 năm sau, với đỉnh điểm là
cuối tháng 4 và đầu tháng 5. Ranh giới xâm nhập mặn cao nhất trung bình nhiều năm
(ở mức 4 g/l) các sông ở ĐBSCL như sau :
- Trên sông Vàm Cỏ, mặn dưới Xuân Khánh chừng 5-6 km trên sông Vàm Cỏ
Đông, cách biển khoảng 70 km và khoảng đầu kênh Lagrange (Tuyên Nhơn) trên
sông Vàm Cỏ Tây, cách biển khoảng 75 km.
- Trên sông Tiền, mặn vượt qua thành phố Mỹ Tho chừng 2-3 km, gần cửa
kênh Nguyễn Tấn Thành, cách biển 57 km.

- Trên sông Hàm Luông, mặn vượt qua sông Mỹ Hóa (Bến Tre), cách biển 56
km.
- Trên sông Cổ Chiên, mặn vượt qua ranh giới huyện Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh
Long), cách biển 59 km.
Trang 15
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

- Trên sông Hậu, mặn vào đến đầu kênh Số Một (Kế Sách-Sóc Trăng), cách
biển 50 km.
- Ở vùng Bán đảo Cà Mau, mặn vượt qua Mỹ Tú, Ngã Năm, Cầu Đúc, Bến
Nhất, kênh Nước Mặn.
- Ở vùng Tứ giác Long Xuyên, mặn qua kênh Rạch Giá-Hà Tiên 5-10 km tùy
từng nơi.
- Những năm khô hạn, ranh mặn có thể lên cao hơn trung bình 3-5 km, như
năm 1993, 1998, 2004, 2010... So với ranh mặn 4 g/l, ranh mặn 1 g/l vào sâu thêm
5-10 km tùy từng sông.
2.2.4.2 Các yếu tố:
Kết quả của nhiều nghiên cứu xâm nhập mặn vùng ĐBSCL từ 1980 đến nay
cho thấy chiều dài xâm nhập mặn vào cửa sông phụ thuộc chặt chẽ bởi 6 yếu tố:
- Yếu tố thứ nhất: Dòng chảy kiệt thượng nguồn được xem xét là lưu lượng
trung bình 30 ngày liên tiếp trong suốt mùa khô. Theo tài liệu đo đạc tại Tân Châu và
Châu Đốc (2 trạm cơ bản trên sông Tiền và sông Hậu tại vị trí sông Mekong vào
Việt Nam) từ 1990 đến nay cho thấy, do tác động của hệ thống hồ chứa thủy điện
trên dòng chính và dòng nhánh thượng lưu Mekong, dòng chảy kiệt có xu thế tăng so
với trước đây khoảng 10-20%. Lưu lượng tháng 4 (là tháng thấp nhất) từ 2.3002.400 m3/s trước năm 2000 nay tăng lên 2.600-2.800 m3/s.

- Yếu tố thứ hai: Khả năng trữ nước cuối mùa lũ là lượng nước lũ được các
vùng ngập lũ chính của ĐBSCL là Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên giữ lại
vào cuối lũ, vào tháng 11, 12 hàng năm. Lượng trữ này phụ thuộc vào tình trạng lũ
trong năm, đặc biệt là độ lớn của lũ và thời gian xuất hiện sớm hay muộn. Lũ lớn
làm ngập một vùng rộng lớn và lũ muộn sẽ tăng khả năng trữ nước trong đồng ruộng
ngay trước mùa khô. Trong khoảng 20 năm gần đây, lũ ĐBSCL có xu thế thấp dần
do cả yếu tố tự nhiên và đặc biệt là sự điều tiết của các hồ chứa thượng lưu.
- Yếu tố thứ ba: Diễn biến mực nước ven biển những năm trước đây gần như
rất ít thay đổi, hàng năm chủ yếu theo quy luật cao vào khoảng tháng 12, tháng 1 và
thấp dần đến tháng 7, tháng 8. Gần đây, do tác động của nước biển dâng, mực nước
triều trung bình ven biển ĐBSCL có xu thế cao hơn trước 10-12 cm, trong đó mực
nước đỉnh triều cường còn cao hơn nữa, từ 20-25 cm.

Trang 16
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

- Yếu tố thứ tư: Sử dụng nước ở vùng ĐBSCL chủ yếu phục vụ sản xuất
nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Với diện tích khoảng 1,5 triệu ha bao gồm lúa
Đông-Xuân muộn (xạ vào khoảng tháng 1-tháng 2) và Hè-Thu sớm (xạ khoảng
tháng 4-tháng 5), cộng với khoảng 800.000 ha nuôi trồng thủy sản (670.000 ha nước
mặn/lợ và 130.000 ha nước ngọt), lượng nước tưới và cấp cho ao nuôi là rất lớn.
- Yếu tố thứ năm: Hình dạng lòng sông vùng cửa quyết định nêm mặn xâm
nhập vào sông. Nếu vùng cửa sông nông và hẹp, thì mặn năm sau khó xâm nhập vào
sâu hơn. Những năm gần đây, do lũ ĐBSCL thấp, lượng phù sa ít, nên các cửa sông
bị bào xói sâu hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho mặn lên cao.

- Yếu tố thứ sáu: Diễn biến mưa đầu mùa mưa. “Gió chướng” cũng là một
trong những nguyên nhân đẩy mặn lên cao hơn, song hiện tượng này chỉ mang tính
“tình thế” nên chỉ được xem xét trong từng trường hợp cụ thể. Mưa đầu mùa đóng
vai trò quan trọng trong cơ cấu mùa vụ, đặc biệt là vụ Hè-Thu sớm. Thông thường,
mùa mưa vùng ĐBSCL xuất hiện từ giữa tháng 5. Tuy nhiên, ở một số năm, ngay từ
cuối tháng 4, thậm chí sớm hơn, đã có mưa. Lượng mưa tuy không lớn nhưng cũng
đủ để người dân có thể gieo xạ vụ Hè-Thu. Lượng mưa đầu mùa mưa này tham gia
vào quá trình xâm nhập mặn bởi 2 khía cạnh: Giảm lượng nước lấy tưới từ sông và
tăng lượng dòng chảy trong sông. Do mưa đầu mùa không lớn nên chủ yếu mưa làm
giảm lượng lấy tưới từ sông. Với giảm lấy nước từ sông, dòng chảy trong sông tăng
lên, mặn cũng sẽ không xâm nhập sâu hơn.
Từ 6 nguyên nhân trên cho thấy, dù rằng dòng chảy kiệt từ thượng lưu
Mekong về có tăng hơn so với trước đây, song lượng tăng này đã không đủ lớn so
với sự triết giảm nguồn nước đầu mùa kiệt do giảm khả năng trữ lũ, lượng nước sử
dụng tại ĐBSCL nhiều hơn, mực nước triều cường cao hơn và vùng cửa sông thông
thoáng hơn để giữ ranh mặn như trước đây. Tổng hợp các nguyên nhân trên, mặn có
xu thế ngày càng xâm nhập sâu và gây hậu quả nặng nề hơn là điều dễ hiểu.
Các phân tích trên đây ứng với trường hợp diễn biến dòng chảy thượng lưu ở
mức trung bình và hệ thống hồ chứa hoạt động ở mức bình thường. Khi gặp những
năm khô hạn ảnh hưởng trên diện rộng đến toàn lưu vực (như năm 2010), dòng chảy
kiệt xuống hạ lưu không những không tăng mà còn thấp hơn cả trung bình nhiều
năm, chắc chắn sẽ làm ranh mặn lên rất cao

Trang 17
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN


Chương 3. Những giải pháp nhằm hạn chế quá trình xâm ngập mặn ở ĐBSCL:
Giải pháp cho vấn đề hạn và xâm nhiễm mặn cây trồng và vật nuôi ở vùng ĐBSCL,
các chiến lược ứng phó như: tăng cường quan trắc, dự báo sớm tình hình hạn, mặn;
triển khai hoàn chỉnh các công trình thủy lợi (kênh, hồ trữ nước, cống đập, trạm
bơm); chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây trồng cạn ít tiêu thụ nước hoặc
nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn ở những vùng bị hạn hán nặng; tưới nước tiết
kiệm; truyền thông nguy cơ hạn, mặn kịp thời đến cộng đồng.
Thực hiện các biện pháp đồng bộ hạn chế ngộ độc mặn cho cây trồng và phòng
chống, cải tạo đất bị xâm nhập mặn như: rà soát, thay đổi chính sách; điều chỉnh lịch
thời vụ; chọn cây, con chống chịu hạn, mặn; áp dụng phương pháp tưới tiết kiệm;
xác định đúng thời điểm tưới nước; và tăng cường tích trữ, giảm thiểu thất thoát
nguồn nước... Cụ thể như sau:
3.1 Giải pháp trước mắt:
Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập
mặn cho vùng ĐBSCL. Đẩy mạnh điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng nước mặt,
nước ngầm và khả năng sụt lún, xói lở, sạt lở trong bối cảnh biến đổi khí hậu và phát
triển kinh tế-xã hội. Rà soát, đánh giá, bổ sung các quy hoạch phát triển, đặc biệt là
quy hoạch đê sông, đê biển, hồ chứa cho vùng. Xây dựng mạng lưới giám sát biến
đổi khí hậu và nước biển dâng; xác định các kịch bản phát triển riêng cho toàn vùng
trên cơ sở cập nhật chi tiết các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng, các tác
động do phát triển thủy điện trên dòng chính sông Mê Công.
Đi cùng với trồng, phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển nhằm từng bước tạo
đai rừng chắn sóng, chống sạt lở bờ biển, tăng cường khả năng hấp thụ khí CO2, bảo
vệ và phục hồi hệ sinh thái ven biển, tạo sinh kế bền vững cho người dân bản địa.
Phải nâng cấp, gia cố, xây mới các hồ nước ngọt, phục vụ sinh hoạt và sản xuất của
người dân trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng. Nhất là nâng cấp, gia

Trang 18
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân



Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

cố, xây mới các đoạn đê sông, đê biển xung yếu ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng,
tài sản của người dân trong vùng.
3.2 Giải pháp lâu dài:
Cần bố trí lại cơ cấu cây trồng phù hợp; đa dạng hóa và phát triển các cây
trồng có khả năng thích ứng với tình hình hạn hán và xâm nhập mặn; nghiên cứu
chọn tạo các giống cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực có khả năng chịu
hạn, mặn tốt. Cải tạo hạ tầng kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tập quán sản xuất
và sinh hoạt của cư dân ven biển để thích nghi với mực nước biển dâng…
Trong đó có một số hoạt động dự án tiêu biểu như nâng cao nhận thức cho
cán bộ, người dân về biến đổi khí hậu; đánh giá tác động, chi tiết kịch bản biến đổi
khí hậu và đề xuất giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu. Xây dựng mô hình điểm ngăn
mặn cục bộ; xây dựng các tuyến đê; hỗ trợ đường ống cấp nước cho các hộ gia đình;
trồng và chăm sóc, bảo vệ rừng ngập mặn ven biển; hệ thống canh tác thích hợp trên
đất nhiễm mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu, với tổng kinh phí thực hiện khoảng
152,5 tỉ đồng đã mang lại nhiều thuận lợi cho cộng đồng dân cư, có thể được nhân
rộng ra các địa phương khác.
Tuy vậy, những công trình thí điểm chỉ giải quyết được ở phạm vi, quy mô
nhỏ, trong khi các công trình trọng điểm ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được đầu
tư như hệ thống đê biển, hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, chống sạt lở, công trình cấp
nước ven biển…Do đó tỉnh mong muốn Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ,
ngành chức năng tiếp tục hỗ trợ không chỉ riêng cho Bến Tre mà còn cho các tỉnh
thuộc vùng ĐBSCL, triển khai thực hiện một số dự án trọng điểm để ứng phó với
biến đổi khí hậu, nước biển dâng…
Mặt khác, việc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng ven biển phải đảm bảo ổn

định lâu dài. Cần có những cơ chế chính sách hợp lý cho những người tham gia bảo
vệ rừng cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân về tầm quan trọng của rừng ngập mặn.

Trang 19
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

C. KẾT LUẬN
Đồng Bằng Sông Cửu Long có vai trò vô cùng quan trọng đối với an ninh
lương thực quốc gia. Dân số và kinh tế cùng ven biển ĐBSCL lại chiếm một vị trí
trọng yếu cho quá trình phát triển của cả đồng bằng. Do vậy, bất kỳ một tác động bất
lợi nào làm mất ổn định cho vùng này, mà điển hình hơn cả là xâm nhập mặn ngày
càng sâu, sẽ phải được xem xét và kiểm soát. Hiện nay, vấn đề hạn mặn đã và đang
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt và canh tác của người dân trong vùng và
trở thành vấn đề quan tâm của nhiều cấp, ngành hiện nay. Đề tài đã đi sâu phân tích
thực trạng trên cơ sở đánh giá những nguyên nhân tác động đến sản xuất và đời
sống, trên cơ sở đó, với số liệu phong phú kết luận đã được rút ra:
Một là nhận thức đúng về sự nghiêm trọng của tình trạng hạn hán và xâm
nhập mặn, xem phòng chống thiên tai là ưu tiên hàng đầu để có sự chỉ đạo quyết liệt.
Các địa phương cần tập trung chăm lo đời sống cho nhân dân với phương châm
không để người dân thiếu đói, không có nước sinh hoạt và không để bùng phát dịch
bệnh do hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài;
Hai là tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp phòng chống hạn, xâm nhập
mặn như nạo vét kênh mương, theo dõi diễn biến nguồn nước xâm nhập mặn, vận
hành các công trình thủy lợi ngăn mặn, tranh thủ các thời điểm thuận lợi để lấy và

trữ nước ngọt, đắp đập tạm thời để ngăn mặn, giữ nước ngọt trong vùng.
Ba là cần có các biện pháp nghiên cứu bài bản lâu dài các biện pháp thích
nghi, phù hợp với biến đổi khí hậu để có những biện pháp công trình và phi công
trình một cách chủ động.
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Phương, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học
Cần thơ cũng đã nhận xét: “Ứng phó với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL phải được đặt
trong mối quan hệ liên vùng. Không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Vì thế phải tiến
Trang 20
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân


Tiểu luận Triết học sau Đại học

CBHD: TS.ĐINH NGỌC QUYÊN

hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ
động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm”.

Trang 21
HVTH: Nguyễn Thụy Ngọc Hân



×