HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH THÙY
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH THÙY
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN MINH TRƯỞNG
2. PGS.TS. DOÃN THỊ CHÍN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Thùy
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
5
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan
5
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục làm
rõ trong luận án
24
Chương 2: HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
27
2.1. Một số khái niệm
27
2.2. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
32
Chương 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1986-2016 - KẾT QUẢ VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM
67
3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam
67
3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
xây dựng đường lối đối ngoại giai đoạn 1986 - 2016
73
3.3. Một số thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh (1986 - 2016)
93
Chương 4: TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ
CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
109
4.1. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới và những vấn
đề đặt ra đối với công tác ngoại giao
109
4.2. Tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình
hình mới
KẾT LUẬN
119
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất
Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ là Người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam mà còn sáng lập nền ngoại giao hiện đại. Hồ Chí Minh đã kế
thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo ngoại giao truyền thống để hình thành hệ thống
quan điểm, tư tưởng ngoại giao tiến bộ, phù hợp với các nguyên tắc quan hệ quốc tế
mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có hệ thống phương pháp ngoại giao hết sức
sáng tạo, độc đáo, bền vững góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền
ngoại giao hiện đại của Việt Nam trong hơn tám thập niên qua. Có thể khẳng định
rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
hoạt động ngoại giao ngày càng lớn mạnh cùng với những bước đường cách mạng
của cả dân tộc, đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi của đất nước. Cùng với sự
phát triển của đất nước, ngoại giao Việt Nam cũng đã không ngừng lớn mạnh,
trưởng thành, trở thành một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Kế thừa và phát huy những truyền thống cũng như thành tựu trên lĩnh vực
ngoại giao nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh để xây dựng đường lối và chỉ đạo thực
hiện hoạt động ngoại giao nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc
tế thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…Trong tình hình mới, công tác
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh nói riêng vẫn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả của việc vận dụng phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh còn một số tồn tại nhất định, đòi hỏi tiếp tục vận dụng tốt hơn trong
bối cảnh mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, với hai nhiệm vụ chiến lược xây
2
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tình hình quốc tế có nhiều biến động. Trên thế giới, trong
những năm tới tình hình quốc tế sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, mâu thuẫn giữa
các nước lớn ngày càng gay gắt, gây ra nhiều thách thức đối với các quốc gia, dân
tộc có chủ quyền, tình hình an ninh chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn
biến rất phức tạp khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp
lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến
tranh cục bộ, chiến tranh mạng… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cục diện
thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều
chỉnh chiến lược, vừa hợp tác vừa thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế
lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Vì thế, Việt Nam
đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều
thách thức đan xen. Tuy nhiên, hiện nay, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn được các
nước trên thế giới chủ yếu giải quyết bằng con đường đàm phán, hòa bình để đi tới
thống nhất.
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong những năm gần đây, vấn đề
tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực nói chung và
Trung Quốc đối với Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp, cùng với đó, các thế
lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình” hòng làm
mất ổn định chính trị, lật đổ chính quyền... Trước tình hình trên, vấn đề đặt ra hết
sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc và
ngoại giao đã và đang là một mặt trận quan trọng hàng đầu.
Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn, là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt
Nam huy động các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với nguồn lực nội sinh của dân
tộc tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay. Với những lý do đó, tác giả lựa chọn đề
tài: “Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay” làm luận án tiến sĩ của mình.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của luận án: Trên cơ sở những nội dung cơ bản của phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh để tiếp tục vận dụng vào xây dựng đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đáp ứng được yêu cầu mới của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2. Nhiệm vụ
- Luận giải các khái niệm cơ bản của đề tài.
- Nghiên cứu làm rõ nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối
ngoại trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016).
- Đánh giá về những thành tựu và kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện
đường lối chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh phân tích xu hướng, diễn
biến của thế giới và khu vực trong bối cảnh hiện nay, đánh giá những thành công và
những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh trong xây dựng và thực hiện đường lối chính sách và chỉ đạo hoạt động
ngoại giao để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; vận dụng phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu một số phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh: Dĩ bất biến ứng vạn biến, Biết thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù;
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao; Phương
pháp thực lực và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao tâm công; Kết hợp đấu tranh chính
trị, quân sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách
4
mạng; Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để giành thắng lợi. Đồng thời, nghiên cứu sự vận dụng của Đảng ta trong tiến
trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.
- Về thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh từ 1945-1969; sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình cách
mạng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận dụng
các phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và chuyên ngành sau: Kết hợp
phương pháp logic với phương pháp lịch sử; và các phương pháp khác như: Phân
tích, tổng hợp; thống kê, định lượng, định tính, so sánh, văn bản học, phân tích hành
vi, phỏng vấn,...
5. Đóng góp mới của Luận án
- Luận án làm rõ hơn hệ thống nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc
tiến hành các hoạt động ngoại giao nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
- Làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào
tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã
hội và nhân văn.
- Ứng dụng giảng dạy chuyên đề cho đối tượng đại học và sau đại học
chuyên ngành Hồ Chí Minh học của Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 4 chương, 9 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Từ những năm 90 đến nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
và nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng ở nước ta được đẩy mạnh
và đã đạt được những thành tựu to lớn. Thực tiễn cho thấy, vấn đề ngoại giao được
khá nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu một cách
cẩn thận, nghiêm túc. Thực hiện nghiên cứu đề tài về Vận dụng phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tác giả
tiếp cận với các công trình khoa học tiêu biểu sau đây:
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng, phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
Trong đề tài "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh" của Nguyễn Đình Bin (chủ
nhiệm) [15], các tác giả đã phân tích các nội dung: Bối cảnh ra đời, nguồn gốc, quá
trình phát triển, nội dung cơ bản của đối ngoại Hồ Chí Minh, phương pháp, phong
cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn sách "50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam" [73] là công trình đã tập hợp các báo cáo, tham luận của các nhà
nghiên cứu, các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, các nhà hoạt động thực tiễn tổng kết
về công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh; sự nhìn nhận, đánh giá về tình hình thế giới và xu thế phát triển
trong quan hệ quốc tế; những quan điểm chỉ đạo về đường lối, chiến lược, sách lược
ngoại giao của Đảng, của Hồ Chí Minh đã góp phần làm nên thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng; nhiều bài viết đã giúp người đọc có cái nhìn khái quát về nền
ngoại giao Việt Nam qua 50 năm hoạt động, phát triển.
Đề tài "Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ
Chí Minh trong tình hình mới" do Trần Minh Trưởng (chủ nhiệm) [178] bao gồm 4
chương: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh;
6
Nội dung tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có nghệ thuật:
Thực hiện phương châm ngoại giao thêm bạn bớt thù, phân hóa kẻ thù, Ngoại giao
phải có thực lực, Ngoại giao phải “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”…; Đảng Cộng sản
Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng và nghệ thuật ngoại giao thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế. Nhóm tác giả đề tài phân tích ngoại giao Việt Nam thời kỳ
1975-1985, nêu những vấn đề quốc tế tác động trực tiếp đến ngoại giao Việt Nam
thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay), từ đó phân tích đường lối, chính sách ngoại giao
của Việt Nam thời kỳ đổi mới - Thành tựu, hạn chế và bài học; Tiếp tục vận dụng
sáng tạo và phát triển tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình
mới. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu về tư tưởng nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh cả về cơ sở lý luận, thực trạng và sự vận dụng, là tài liệu tác giả có thể
tham khảo, kế thừa khi nghiên cứu viết luận án.
Cuốn "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế" của Phan
Ngọc Liên [108] là công trình nghiên cứu về các hoạt động quốc tế của Hồ Chí
Minh, từ khi ra đi tìm đường cứu nước, tham gia thành lập và chỉ đạo hoạt động ở
một số tổ chức cách mạng quốc tế, đến những hoạt động đối ngoại và ngoại giao
của Người trên cương vị nguyên thủ quốc gia. Thông qua các sự kiện, khẳng định
Hồ Chí Minh đã có đóng góp to lớn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế; những hoạt động của Hồ Chí Minh đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào cách mạng thế giới; tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của phong trào
cách mạng thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Tác giả đã bước đầu khái quát
một số nội dung mang tính lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế.
Cuốn sách "Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), tập 1, Ngoại
giao Việt Nam 1945-1975" của tác giả Lưu Văn Lợi [113]. Cuốn sách làm sống lại
những ngày đầu kháng chiến và độc lập của dân tộc ta, được thấy rõ hơn những khó
khăn của 2 cuộc kháng chiến trường kỳ. Tác giả đã chọn lọc đúng những thời điểm
quan trọng nhất trong 30 năm đầu đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta từ 1945-1975.
Đánh giá về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tác giả Lưu Văn
Lợi khẳng định:
7
Trong cuộc đấu tranh cả trên ba mặt trận quân sự, chính trị, đấu tranh
ngoại giao của ta là tiến công chiến lược nhằm xây dựng và củng cố hậu
phương quốc tế của nhân dân ta, thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ về tinh thần, chính trị và vật chất của các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta,
lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, hỗ trợ cho các mặt đấu tranh
trong nước, góp phần từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng có
lợi cho ta [113, tr.393].
Như vậy, cuốn sách đã có sự khái quát một số phương pháp ngoại giao được
vận dụng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách
chưa đi sâu nghiên cứu các phương pháp đó mà chỉ mới dừng lại nêu ra sau khi
phân tích các sự kiện lịch sử của hai cuộc kháng chiến.
Trong cuốn "Hồ Chí Minh: Nhà trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện
đại" của Nguyễn Phúc Luân [117] đã làm rõ một số quan niệm của Hồ Chí Minh về
bạn thù, về sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài, về chính sách đối ngoại, phương
pháp dự báo thời cuộc...
Về bạn thù, tác giả nêu lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí
Minh đã nhắc lại: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai
là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” [137, tr.453]. “Thêm bạn bớt thù”
trở thành nhiệm vụ trung tâm của hoạt động đối ngoại, cơ sở của đường lối quốc tế,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tác giả phân tích, trong quá trình
chỉ đạo và trực tiếp tham gia vào thực hiện nhiệm vụ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại những kinh nghiệm, bài học về trí tuệ và sách lược đáng chú ý như sau: Về
nhận thức và sách lược đối với kẻ thù trong những giai đoạn cách mạng; vấn đề
“thêm bầu bạn” mở rộng đội ngũ đồng minh, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
quốc tế to lớn đã trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi cuả sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng “thêm bầu bạn”,
tranh thủ lực lượng bên ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua sự vận dụng trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam, nổi lên những vấn đề cơ bản cần chú ý: Một là: Thể
hiện sự nhất quán về quan điểm: chỉ trên cơ sở tự lực tự cường, không ngừng củng
8
cố khối đại đoàn kết dân tộc bên trong, mới tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ, sự
hợp tác rộng rãi của các lực lượng khác nhau bên ngoài…; Hai là: Thể hiện định
hướng nói trên vào thực tiễn quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khôn khéo tùy từng thời điểm cụ thể, giương cao ngọn cờ
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…; Ba là: Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người mở ra trang sử mới cho mối quan hệ đoàn kết hữu nghị và giúp đỡ
lẫn nhau giữa các dân tộc anh em, láng giềng, đặc biệt là giữa các dân tộc Đông
Dương…; Bốn là: Luôn luôn sáng suốt phân biệt giữa các tầng lớp nhân dân lao
động, tiến bộ ở các nước thù địch với thế lực thực dân, đế quốc xâm lược; Năm là:
Kết hợp ngoại giao nhà nước với vận động tranh thủ sự đồng tình, đi đến ủng hộ
ngày càng mạnh mẽ của nhân dân ở nhiều nước khác nhau trên thế giới cùng
chung hoặc khác nhau về ý thức hệ đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta.
Như vậy, theo tác giả, quan điểm của Hồ Chí Minh về “thêm bạn”, tức là chúng ta
mở rộng quan hệ với tất cả các lực lượng cách mạng trên thế giới để tranh thủ sự
ủng hộ, tăng cường sức mạnh của dân tộc, “thêm bạn” tức là ta cũng hạn chế bớt
được “thù”.
Cuốn "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao" của Vũ Khoan [93]
đã nêu lên những sự kiện kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước lãnh đạo cách
mạng tới khi cách mạng Tháng Tám thành công và thời kỳ sau cách mạng Tháng
Tám tới khi Người qua đời vào năm 1969. Qua hoạt động ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh rút ra được những tư tưởng, bài học, phương pháp ngoại giao mà Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng trong thực tiễn, đem lại những
thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu,
tham khảo.
Lời tựa của cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh"
của Bộ Ngoại giao [13] có nêu: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
vừa kỷ niệm 55 năm ngày thành lập. Nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh đã đi
cùng dân tộc trong suốt những chặng đường đáng ghi nhớ của lịch sử cách mạng
Việt Nam. Ngoại giao phản ánh thời đại, mang hơi thở của thời đại, góp phần làm
nên và đóng dấu ấn thời đại. Năm mươi lăm năm qua là thời gian xây dựng và phát
triển và trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam cách mạng và hiện đại.
9
Trong đó, phần 2 của cuốn sách có bài tham luận: “Tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề cập những nội dung lớn của tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
và một số nội dung hết sức cô đọng như độc lập tự chủ, tự lực tự cường; tư tưởng
hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân văn của dân tộc là
một tư tưởng lớn của ngoại giao Hồ Chí Minh; “Thêm bạn, bớt thù” là một chủ
trương quan trọng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” là tư duy biện chứng, là phương châm, biện pháp xem xét và giải quyết
những vấn đề chiến lược; Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam xem ngoại
giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Chiến
lược ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược chung của cách mạng, bản thân nó
lại có nội dung tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc.
Tác giả Vũ Dương Huân trong chuyên đề: “Tư tưởng và phong cách ngoại
giao Hồ Chí Minh” khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi lạc, một
danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng lớn trong thời đại của chúng ta. Tác giả nêu:
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ trong tư tưởng chung.
Nói đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là nói ngắn gọn. Đúng ra là tư tưởng Hồ
Chí Minh về quốc tế, chính sách đối ngoại và ngoại giao. Đặc biệt, trong bài viết,
tác giả có nêu lên một số phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có
phương pháp: Thứ nhất, kiên trì nguyên tắc, linh hoạt sách lược, nhân nhượng có
nguyên tắc (nói cách khác là tư tưởng Dĩ bất biến ứng vạn biến); thứ hai, triệt để lợi
dụng trong hàng ngũ kẻ thù, phân hóa và cô lập chúng đến cao độ; thứ ba, kết hợp
trong nước và ngoài nước, phối hợp các lĩnh vực, trước hết là giữa chính trị, quân sự
và ngoại giao, tạo sức mạnh cho đấu tranh ngoại giao; thứ tư, giành thắng lợi từng
bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn với tư tưởng tiến công cách mạng; thứ năm,
dự đoán và dự báo các sự kiện quốc tế và đất nước ta; thứ sáu, nắm bắt thời cơ.
Mặc dù các bài viết trong cuốn sách đã nêu được một số phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh nhưng chưa đi sâu phân tích một cách sâu sắc các phương pháp
đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên có thể thấy cuốn sách là nguồn
tài liệu qúy để tác giả nghiên cứu, tham khảo.
10
Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do
(1945 - 1975)" của Nguyễn Phúc Luân [118] đã nghiên cứu những chủ trương,
chính sách ngoại giao lớn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ lịch sử 1945 1975. Đây cũng là công trình nghiên cứu có tính chất tổng kết kinh nghiệm và lịch
sử đấu tranh của nền ngoại giao nước nhà trong thời kỳ thực hiện nhiệm vụ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong đấu tranh ngoại giao thời kỳ giữ vững và củng cố Nhà nước cách
mạng non trẻ (8/1945-12/1946), Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã xác định nhiệm vụ cách mạng, chủ trương đối ngoại và những biện pháp ngoại
giao đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuốn sách nêu: “Thấm
nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì
phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”, ta đã
đề ra nhiều biện pháp sách lược quan trọng và coi việc thêm bạn, bớt thù là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của đường lối quốc tế trong cách mạng Tháng
Tám” [118, tr.37].
Tác giả nhận định: Chính sách ngoại giao đầu tiên của Nhà nước Việt Nam
độc lập đã biết vận dụng khôn khéo các chủ trương “Hòa để tiến”, Hiệp định sơ bộ
6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có tính
phương pháp luận về nhận định xu thế thời cuộc, về kẻ thù, về đánh giá và lựa chọn
khả năng phát triển của cách mạng nước ta, về phương pháp thêm bạn bớt thù, lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù...
Trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta cũng
vận dụng các phương pháp ngoại giao vào đấu tranh, phối hợp với mặt trận chính trị
và quân sự. Tác giả khái quát: “Chuyển biến thắng lợi trên chiến trường từ Tết Mậu
Thân và hệ quả tích cực mà mặt trận ngoại giao đem lại cùng với lập trường và
nghệ thuật đàm phán đúng đắn linh hoạt, sáng tạo của ta trở thành những nhân tố
hàng đầu thúc đẩy sự hình thành khuôn khổ đàm phán ở Pari và đưa cuộc đàm phán
đó đến thắng lợi” [118, tr.299]. Như vậy, tác giả cuốn sách đã nhấn mạnh vai trò
của phương pháp đàm phán đã đưa đến ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đó là một thắng lợi ngoại giao quan trọng, to
lớn và ý nghĩa nhiều mặt.
11
Cuốn "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao" của Vũ
Dương Huân [78] gồm một số bài nghiên cứu của nhiều tác giả đã và đang tham
gia công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động trên Mặt trận đối ngoại của Bộ
Ngoại giao. Các bài viết được chia thành 4 phần: Phần 1: Khái quát chung về
ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 2: Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại
giao; Phần 3: Một số vấn đề về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 4: Phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Phần 4 của cuốn sách có đề cập đến hai phương
pháp ngoại giao:
Phương pháp thứ nhất là, Hồ Chí Minh và vấn đề lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù
trong đấu tranh ngoại giao của tác giả Vũ Dương Huân. Tác giả khẳng định: “Lợi
dụng mâu thuẫn kẻ thù một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hổ Chí Minh.
Những luận điểm về mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương
đã được các nhà kinh điển đề cập và Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo và
phát triển trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” [78, tr.146]. Tác giả
nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi dụng mâu thuẫn trong từng giai đoạn của cách
mạng. Tác giả kết luận vấn đề bằng nhận xét của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: “mẫu
mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch
và về nhân nhượng có nguyên tắc” [31, tr.31].
Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam 1945-2000" của Nguyễn Đình Bin [10] là
công trình viết về ngoại giao khá toàn diện. Các tác giả đã phác họa những nét
chính của hoạt động ngoại giao Việt Nam trong 55 năm, từ 1945 đến 2000, một thời
kỳ đầy những biến động và biết bao thay đổi ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Cuốn "Ngoại giao Hồ Chí Minh - Lấy chí nhân thay cường bạo" của Nguyễn
Phúc Luân [119] được trình bày thành 3 phần chính: 1. Vai trò lịch sử của Hồ Chí
Minh trong quan hệ quốc tế; 2. Ngoại giao trong tâm thức Hồ Chí Minh; 3. Một số
luận lý ngoại giao Hồ Chí Minh cần nghiên cứu và ứng dụng.
Đặc biệt, trong cuốn sách, tác giả đưa ra những khái lược về thời, thời cơ;
những dự báo lớn của Hồ Chí Minh về những bước quanh của quan hệ quốc tế và
thời cơ cách mạng chuyển mình; khả năng cách mạng Việt Nam bùng nổ và giành
thắng lợi trong thế kỷ XX; phương pháp nhận thức các khả năng và tiếp cận với vấn
12
đề thời cơ trong hoạt động đối ngoại. Tác giả khẳng định việc phát hiện và nắm
vững thời cơ có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi. Cuốn sách là tài liệu để tác
giả tham khảo khi nghiên cứu phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về thời cơ.
Cuốn sách "Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pari về Việt Nam" của
Bộ Ngoại giao [16] là công trình tập hợp những bài viết, bình luận của một số nhà
ngoại giao lão thành đã từng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia Hội nghị Pari. Cuốn
sách đề cập cuộc đàm phán Paris và Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam là đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước và là thành công lớn nhất trong lịch sử ngoại giao của dân tộc thời đại Hồ
Chí Minh, để lại những bài học thực tiễn vô giá về đấu tranh ngoại giao.
Tại Hội nghị Paris, khả năng đàm phán của phái đoàn Việt Nam được nâng
lên thành nghệ thuật. Và những yếu tố cơ bản tạo nên nghệ thuật đàm phán đó là:
Chúng ta đã xác định và kiên trì phương pháp “vừa đánh, vừa đàm” trong suốt quá
trình đàm phán; Đàm phán phục vụ đấu tranh quân sự, chính trị với mục tiêu hàng
đầu là tấn công, kiềm chế địch, tranh thủ sự ủng hộ và đồng tình của bạn bè và dư
luận quốc tế; Xác định phương châm giành thắng lợi từng bước, tiến đến giành
thắng lợi cuối cùng…Những bài viết có giá trị, những bài học bổ ích được rút ra
trong cuốn sách không những là tài liệu thiết thực trong lĩnh vực đối ngoại mà còn
là một tư liệu quý để tác giả nghiên cứu khi đề cập đến đánh và đàm trong ngoại
giao Hồ Chí Minh.
Cuốn "Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1954-1969" của
Trần Minh Trưởng [176] trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quá trình vận
động trong quan hệ quốc tế từ sau Hiệp định Giơnevơ đã hệ thống lại những hoạt
động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến
năm 1969; làm nổi bật vai trò và những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
ngoại giao trong công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, củng cố tình đoàn kết trong phong trào Cộng sản và công
nhân quốc tế. Bằng nguồn tư liệu phong phú, tin cậy, cuốn sách đã cho thấy tư duy
lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
việc phân tích, nhận định, đánh giá, xử lý các tình huống, sự kiện trong quan hệ
quốc tế phức tạp, đa chiều của thời kỳ đầy biến cố và sôi động.
13
Trong cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng
trong thời kỳ đổi mới" của Đinh Xuân Lý [124] đã khái quát bối cảnh ra đời, quá
trình phát triển, nguồn gốc, nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Bên
cạnh đó, cuốn sách cũng giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu
cho công tác đối ngoại hiện nay, từ đó xây dựng chủ trương, chính sách đối ngoại
và sự chỉ đạo hoạt động đối ngoại phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trong cuốn "Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè quốc tế" của Đỗ Hoàng Linh,
Phạm Hoàng Điệp [111] đã ghi lại những phát biểu, suy nghĩ và cảm tưởng của các
nhà lãnh đạo, bạn bè trên thế giới về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà lãnh đạo kiệt xuất
của Việt Nam, người bạn lớn của nhân dân thế giới.
Cuốn "Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh" của Võ Văn
Sung [159] là một công trình công phu, ghi lại một số dấu ấn sâu đậm trong lĩnh
vực đối ngoại và phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh, phân tích những nét
độc đáo của ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh…Tác giả cuốn sách đặt ra
vấn đề nếu có thể cần phải từng bước làm sáng tỏ sự độc đáo nổi bật của nền
ngoại giao Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong chương
II của cuốn sách nêu: Cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng, phương pháp
cách mạng là một vế có ý nghĩa hết sức quyết định trong ba vế đảm bảo thắng lợi
của cách mạng, đó là: Đường lối cách mạng, quyết tâm cách mạng và phương
pháp cách mạng. Đương nhiên, đường lối đúng đắn và quyết tâm cao là rất cơ bản
nhưng diễn biến cách mạng Việt Nam cho thấy phương pháp cách mạng lại có ý
nghĩa quyết định nhất. Nhờ phương pháp cách mạng của nước ta theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh chính là cách đảm bảo cho
chính nghĩa được tất thắng qua hai cuộc kháng chiến. Tuy đề cập đến phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, nhưng cuốn sách mới chỉ nói về phương pháp “Dĩ
bất biến ứng vạn biến”, tạo sức mạnh tổng hợp và phương pháp “Vừa đánh, vừa
đàm”. Trong phần kết luận, tác giả khái quát trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh
có nhiều nội dung nhưng yếu tố cốt lõi, vấn đề xuyên suốt qua mọi vấn đề là
“ngoại giao phải tự tấm lòng”. Vì nói cho cùng, quan hệ quốc tế đúng nghĩa của
14
nó phù hợp với nguyện vọng sâu xa của mọi người mà thể hiện quan trọng nhất là
hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Cuốn "Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước Châu
Á, (1954-1969)" của Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch [98] là tập hợp các
sự kiện hoạt động đối ngoại và ngoại giao của Hồ Chí Minh đối với các nước khu
vực châu Á. Qua đó khẳng định những cống hiến to lớn của Người trong việc thiết
lập cây cầu hữu nghị, đoàn kết giữa Việt Nam với các dân tộc châu Á vì hòa bình
và tiến bộ xã hội, cùng phát triển.
Cuốn sách "Ngoại giao và công tác ngoại giao" của Vũ Dương Huân [86]
gồm 15 chương giới thiệu một cách có hệ thống các nội dung của ngoại giao như:
Nhận thức chung về ngoại giao và công tác ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao,
tiếp xúc ngoại giao, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá, lễ tân ngoại giao, ngoại
giao đa phương... Chương I, cuốn sách đề cập đến nhận thức chung về ngoại giao
và công tác ngoại giao, trong đó nêu khái niệm ngoại giao, phân loại ngoại giao, vài
nét về sự phát triển của ngoại giao…Cuốn sách là tài liệu tham khảo giúp tác giả đi
vào làm rõ các khái niệm về ngoại giao và một số khái niệm liên quan.
Trong cuốn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Nguyễn Hùng Hậu [67], các tác
giả nghiên cứu phương pháp này dưới góc độ triết học và khẳng định: “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến” là nội dung cơ bản của phương pháp biện chứng cách mạng được Hồ
Chí Minh quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cái bất
biến lớn trong tư tưởng của Người là “Không có gì quý hơn độc lập tự do” [139,
tr.131], độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuốn sách là tài liệu bổ ích để
tác giả tham khảo khi đi vào phân tích phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn "Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm" của Nguyễn Khắc
Huỳnh [90] gồm một số bài viết, bài nghiên cứu đã được chọn lọc của tác giả trong
thời gian gần đây và một số bài tham luận tại các cuộc Hội thảo trong nước và ngoài
nước nhân dịp các sự kiện ngoại giao lớn như 55 năm ký Hiệp định Giơnevơ, 35
năm ký Hiệp định Pari về Việt Nam... Tác giả tập trung trình bày và làm rõ thêm
một số vấn đề, sự kiện lớn trong quan hệ quốc tế, đường lối, chính sách đối ngoại
15
của Đảng và Nhà nước ta. Trong bài Tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh,
tác giả trình bày đặc điểm hình thành tư tưởng - nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí
Minh; mấy vấn đề tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; mấy vấn đề về nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn sách "Những quan điểm nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của
Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong tình hình mới" là công trình nghiên
cứu khá sâu về lĩnh vực quan hệ quốc tế của Trần Minh Trưởng [177]. Cuốn sách
nêu bật những quan điểm và nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế nhằm khẳng
định chủ quyền quốc gia, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, theo nguyên tắc tôn
trọng lẫn nhau, cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới. Những
quan điểm, nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh được vận
dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp bảo
vệ, xây dựng đất nước; đồng thời trở thành cơ sở nền tảng trong quan hệ đối ngoại,
góp phần cùng với nhiều quốc gia yêu chuộng hòa bình, tiến bộ xây dựng nên
“Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” trên thế giới.
Cuốn sách "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh" của Trần Thị Minh Tuyết
[181]. Tác giả mở đầu cuốn sách:
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà chính trị lỗi
lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà ngoại giao thiên
tài của dân tộc Việt Nam. Do ngoại giao luôn là một hoạt động trọng yếu
của đất nước nên để lãnh đạo hoạt động văn hóa chính trị ở tầm cao này,
Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống tư tưởng ngoại giao toàn diện và sâu
sắc [181, tr.10].
Cuốn sách đề cập đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tác giả đi vào
phân tích khái niệm ngoại giao, tư tưởng ngoại giao, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh. Từ đó phân tích cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được tác giả triển khai 4 nội
dung cơ bản, trong đó tác giả có đề cập đến tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” và “dĩ
bất biến ứng vạn biến”, về ngoại giao tâm công. Bám sát vào các sự kiện lịch sử
diễn ra trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, tác giả phân tích làm nổi bật lên tư
16
tưởng “thêm bạn, bớt thù” và “dĩ bất biến ứng vạn biến” với tư cách coi đó là vừa
là phương pháp vừa là nghệ thuật trong ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác
giả đi vào vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay với
hai nội dung: Tổng kết đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, từ đó xác định nhiệm vụ và thách thức đặt ra cho ngoại giao Việt
Nam, vạch ra phương hướng vận dụng tư tưởng ngoại giao Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Những nội dung trong cuốn sách là nguồn tài liệu để tác giả tham
khảo, nghiên cứu.
Luận án "Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước
(1965-1973)" của Phạm Hồng Chương [27]. Luận án phân tích và luận giải về chủ
trương, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng ta trên mặt trận đấu tranh ngoại
giao chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: “vừa đánh, vừa
đàm” đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật, thông qua ngoại giao, kết thúc chiến tranh
bằng đàm phán hòa bình. Ngoại giao trở thành phương tiện, vũ khí sắc bén tấn công
kẻ thù; phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, góp phần làm nên
chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta.
"Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ 1945-1946" của Nguyễn Thị
Kim Dung [33] phân tích, luận giải về đường lối đối ngoại của Đảng; tư tưởng,
nghệ thuật chỉ đạo, chiến lược, sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “lợi
dụng mâu thuẫn kẻ thù”; “thêm bạn bớt thù”; “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”... góp
phần giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng, trong những năm đầu
mới thành lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
“Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pari về Việt Nam (19681973)” của Lương Viết Sang [157] đã đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
của Đảng chỉ đạo cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam ở Hội nghị Pari đã giành
thắng lợi, góp phần vào chiến thắng của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
"Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954” của
Đặng Văn Thái [160]. Luận án phân tích bối cảnh lịch sử năm 1945 và đường lối,
17
chính sách đối ngoại của Đảng kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, hoạt động đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1954.
Những luận án, luận văn đó đã đóng góp một phần quan trọng để làm rõ
những quan điểm của Hồ Chí Minh về đối ngoại, hoạt động ngoại giao và sự vận
dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đây đồng thời cũng là nguồn tài liệu để tác
giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận án.
Một số bài báo, tạp chí liên quan đến ngoại giao:
"Hồ Chí Minh với "Dĩ bất biến, ứng vạn biến"" của Phạm Hồng Chương,
Phùng Đức Thắng [28]. Hai tác giả viết: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” câu nói ấy là
tổng quan phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh mà Người đã thực hiện trong suốt
cuộc đời cách mạng của mình và cũng là một bài học kinh nghiệm quý giá của cách
mạng Việt Nam. Trong bối cảnh lúc đó điều bất biến ở đây chính là vấn đề dân
tộc… Còn vạn biến là hàng loạt chủ trương sách lược đấu tranh trong những tình
huống cụ thể. Và qua thực tế hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các luận điểm
của Người cho thấy, muốn đạt tới cái bất biến trong mục tiêu cần phải ứng vạn biến
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
""Thêm bạn, bớt thù" - nguyên tắc chiến lược trong tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh" của Trần Thị Minh Tuyết [180]. Tác giả viết: Thực tiễn chứng minh, sự
đúng - sai trong việc tập hợp lực lượng luôn là một nhân tố quyết định sự thành bại của cuộc đấu tranh. Với mục đích tập hợp lực lượng rộng rãi, cô lập kẻ thù, tạo
nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm ra phương
pháp xác định bạn - thù chính xác và sử dụng linh hoạt các phương cách đạt trình độ
nghệ thuật. Theo tác giả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng linh hoạt, hiệu quả các
phương pháp, chủ trương khác nhau, trong đó chủ trương “thêm bạn, bớt thù” trong
đấu tranh cách mạng vẫn là một viên ngọc lấp lánh trong di sản tư tưởng của Người.
Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính của dân
tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, phải coi đó là
một nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị. Bài
báo là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả khi đi vào nghiên cứu phương pháp
“thêm bạn, bớt thù” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
18
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách, tạp chí khác nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến ngoại giao, phương pháp ngoại giao.
1.1.2. Những công trình liên quan đến vận dụng phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay
Cuốn "Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn"
của Nguyễn Phú Trọng [174] là công trình tổng kết thực tiễn một số lĩnh vực chủ
yếu qua hai mươi năm đổi mới, trong đó có lĩnh vực ngoại giao, làm rõ những thành
tựu và hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn
và bổ sung phát triển đường lối đổi mới ở Việt Nam. Về vấn đề nâng cao năng lực
và sức chiến đấu của Đảng, tác giả khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng.
Trong cuốn "Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương theo đường lối đổi mới của Đảng" của Đinh Xuân Lý [123] đã đề cập quá
trình Việt Nam thiết lập, mở rộng quan hệ với các nước, hội nhập khu vực Châu Á Thái Bình Dương theo đường lối, chủ trương đổi mới đối ngoại của Đảng. Đồng
thời, từ thực tiễn quá trình hội nhập khu vực rút ra một vài kinh nghiệm có ý nghĩa
tham khảo cho công tác đối ngoại trong thời gian tới.
Cuốn "Việt Nam - Thế giới và hội nhập" của Vũ Dương Ninh [150] nhấn
mạnh đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam qua 60 năm chiến đấu và xây dựng, về
quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đồng thời, cuốn sách là công trình nghiên cứu về lịch
sử cận - hiện đại và lịch sử quan hệ quốc tế.
Trong cuốn "Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội
nhập quốc tế" của Bộ Ngoại giao, Ban Nghiên cứu lịch sử ngoại giao [21], các tác
giả đã nghiên cứu và khái quát được một số vấn đề về tư tưởng đối ngoại, phương
pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh; Về việc vận dụng tư tưởng
đối ngoại, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời
kỳ 1945-1975 và thời kỳ mới. Đề tài cũng đưa ra một số kiến nghị về tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Mặc dù có
nhiều đóng góp, nhưng nhìn chung, kết quả nghiên cứu còn mang tính khái lược,
19
chưa có chiều sâu, chưa thật sự bao quát trên tất cả các nội dung tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay" của tác giả Đặng Văn Thái [162] đã phân tích,
luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, nêu rõ sự vận dụng vào công
cuộc đổi mới đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ
hiện nay...
Trong cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại
giao Việt Nam", tập 1 của Vũ Dương Huân [83] đã nêu tư tưởng đối ngoại, phương
pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác giả phân
tích những thay đổi lớn của tình hình thế giới, những nét mới của ngoại giao Việt
Nam. Tác giả đưa ra những yêu cầu đang đặt ra cho ngoại giao Việt Nam. Từ đó,
theo tác giả để giải quyết các vấn đề trên cần có những luận giải mới tư tưởng đối
ngoại, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Tác
giả mới dừng lại ở nêu phương hướng giải quyết mà chưa đi vào vận dụng tư tưởng
đối ngoại, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.
Cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại giao
Việt Nam", tập 2, của tác giả Vũ Dương Huân [84]. Trong phần 1 và phần 2 của
cuốn sách, tác giả phân tích khá sâu sắc chính sách đối ngoại Việt Nam trước đổi
mới và chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế. Tác giả khẳng định sau khi triển khai đường lối đối ngoại đổi mới, chúng ta
đã thu được nhiều thành tựu to lớn về đối ngoại. Tuy nhiên trong công tác ngoại
giao còn có những tồn tại. Từ đó tác giả nêu những bài học kinh nghiệm rút ra về
ngoại giao trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại.
Cuốn "Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020" của Phạm Bình
Minh [140] là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài KX.04.03/06-16: “Xu thế
phát triển của cục diện thế giới đến năm 2020 và định hướng chiến lược đối ngoại
của Việt Nam”. Nội dung cuốn sách tập trung trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về
đối ngoại; lợi ích quốc gia, dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt Nam; trường
phái ngoại giao Việt Nam, về độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; về xác lập lòng tin
20
trong quan hệ quốc tế và định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020; đề
ra một số biện pháp nhằm nâng cao vị thế Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế; hiệu
quả hội nhập quốc tế; vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế mà Việt Nam
tham gia.
"Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới" của Phạm
Bình Minh [141] (chủ biên) là cuốn sách tập hợp các công trình của các nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực đối ngoại nhằm luận giải nội hàm các chủ trương, định hướng
quan trọng của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những
phát hiện mới trong tư duy đối ngoại của Đảng ta qua những văn kiện của Đại hội
XI, ngoài ra các tác giả còn đưa ra các cách tiếp cận và phương pháp triển khai mới
để đạt được các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất
nước… Trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động đối ngoại trên một số lĩnh vực, các
tác giả cũng đề xuất một số phương hướng, nhiệm vụ cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả công tác đối ngoại, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết XI của Đảng.
Những tư liệu trong cuốn sách là nguồn tài liệu để tác giả nghiên cứu làm rõ sự vận
dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng trong thời kỳ mới.
Nội dung cuốn "Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới" của
Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế [62] trình bày về đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng trong 25 năm (từ 1986). Cuốn sách bao gồm 4 nội dung chính: Cơ sở
hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng; Những nội dung chủ yếu trong chính
sách đối ngoại; Quá trình triển khai chính sách đối ngoại; Kết quả, bài học kinh
nghiệm trong hoạt động đối ngoại. Đây là nguồn tài liệu để tác giả tiếp cận, tham
khảo, kế thừa, đi vào giải quyết phần thực trạng vận dụng phương pháp ngoại giao
của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Trong cuốn "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay" của
Nguyễn Hoàng Giáp [63] đã đề cập tới những vấn đề có tính thời sự của nền chính
trị quốc tế hiện nay như xu thế toàn cầu hóa, mối quan hệ giữa các nước lớn, chống
chủ nghĩa khủng bố, trật tự thế giới mới…Cuốn sách cho thấy một bức tranh đa
dạng về nền chính trị của từng nước nói riêng cũng như cả thế giới nói chung. Đồng
thời, trong cuốn sách các tác giả cũng đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm đổi
21
mới và tăng cường chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu
sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đối ngoại và ngoại giao
trong giai đoạn hiện nay.
Trong cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của
Đảng, Nhà nước Việt Nam" của Phạm Thành Dung, Nguyễn Thị Thúy Hà và Phạm
Thanh Hà [34], các tác giả đi vào nghiên cứu nhiều nội dung khác nhau, trong đó đi
sâu phân tích đặc điểm và xu hướng phát triển của thế giới, tình hình trong nước.
Việc phân tích những đặc điểm này có giá trị sâu sắc, là căn cứ, cơ sở để Đảng và
Nhà nước định đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự do, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế trong giai đoạn mới.
Cuốn "Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)" của Vũ Dương
Ninh [153] là cuốn sách trình bày những nét cơ bản về đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước qua từng giai đoạn, bối cảnh quốc tế và trong nước
dẫn đến các sự kiện, diễn biến trong quan hệ đối ngoại để từ đó rút ra những nhận
định chung và những bài học kinh nghiệm. Do cuốn sách chỉ tập trung vào những
vấn đề đối ngoại nên những vấn đề khác như quân sự, kinh tế, văn hóa… chỉ được
đề cập những nét lớn để phác họa bối cảnh chung của lịch sử trong từng giai đoạn.
Cuốn sách giúp tác giả có được cái nhìn tổng quát về tình hình thế giới và trong
nước, từ đó đi vào nghiên cứu, bước đầu mạnh dạn đưa ra những định hướng vận
dụng phương pháp ngoại giao trong thời kỳ mới.
Cuốn sách "Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay" của Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế và Mai Hoài Anh [64], thuộc đề
án: Nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công cuộc đổi mới
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đề án luận giải về mối quan hệ biện chứng của
hai mặt đối lập là độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các tác giả đã tập trung phân tích và trình bày quan điểm
về việc xử lý hài hòa mối quan hệ đó trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Việt
Nam không thể tách rời cộng đồng quốc tế, nhưng đồng thời vẫn kiên định đường
lối độc lập tự chủ.