Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

lich su nha nuoc va phap luat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.63 KB, 25 trang )

Câu 1, Pháp luật triều Nguyễn:
* Bộ luật Gia Long(Hoàng Việt luật lệ)
Bộ luật được chia thành 22 quyển với 398 điều, quy mô khá lớn
Bộ luật Gia Long là bộ luật tổng hợp, điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau. Bộ luật Gia Long thể hiện tư tưởng kết hợp đức trị với pháp
trị, bảo vệ cơ sở nền tảng của chế độ phong kiến, củng cố chế độ gia trưởng Nho
giáo.
Trong lĩnh vực hình sự, các nguyên tắc cơ bản gồm có: nguyên tắc luật định,
nguyên tắc so sánh luật và áp dụng tương tự, nguyên tắc áp dụng theo luật mới
nhất, nguyên tắc chiếu cố, nguyên tắc thưởng cho người tố cáo, phạt những người
che giấu tội phạm, nguyên tắc những người thân được che giấu tội cho nhau,
nguyên tắc áp dụng trách nhiệm dân sự liên đới, nguyên tắc luận tội theo tang vật,
nguyên tắc chuộc tội bằng tiền.
Các tội phạm được quy định trong luật gồm các nhóm tội: tội thập ác, đạo tặc,
nhân mạng, đấu khẩu, lăng mạ, hối lộ, trá ngụy, phạm gian, tạp phạm và các nhóm
tội khác. Nhóm tôi thập ác cũng được quy định giống như Quốc triều hình luật.
Hệ thống hình phạt gồm có Ngũ hình và các hình phạt khác. Ngũ hình gồm có
Xuy, Trượng, Đồ, Lưu, Tử.
Trong lĩnh vực dân sự, chế độ sở hữu gồm có sở hữu công (sở hữu của nhà nước và
sở hữu làng xã); sở hữu tư nhân ( sở hữu cá nhân và hộ gia đình).
Về thừa kế, đề cao trách nhiệm của người gia trưởng, thừa nhận quyền thừa kế của
con trai, con gái chỉ được thừa kế khi gia đình tuyệt tự, trong luật không có quy
định vè quyền thừa kế của người vợ. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cũng có
các điều kiện để tiến hành kết hôn, thủ tục kết hôn cũng có 2 giai đoạn chính là kết
hôn và thành hôn. Trong quan hệ gia đình, bộ luật đề cao vai trò của người chủ gia
đình, người vợ cả và con trưởng trong trật tự gia đình phong kiến.+
Trong lĩnh vực tố tụng, bộ luật quy định rõ thẩm quyền, trình tự xét xử, quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng, quá trình thi hành bản án và những trường
hợp được miễn giảm, ân xá.
Câu 2,* Bộ luật Hồng Đức (quốc triều hình luật=lê triều hình luật,



Là bộ luật hành văn hoàn chỉnh đầu tiên ở nước ta, được duy trì và sửa đổi, bổ
sung qua nhiều triêu đại. Bộ luật có 13 chương, 722 điều đã thể hiện trình độ lập
pháp rất cao của thời đại đó.
Bộ luật về hình thức là hình luật, nhưng thực chất nó lại là bộ luật tổng hợp của
nhiều kĩnh vực khác nhau.
Về nội dung, bộ luật nhằm bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự, đẳng cấp,
gia đình phụ hệ và ý thức hệ Nho giáo. Bộ luật có mô phỏng luật của phương Bắc
nhưng lại có nhiều nội dung mới, có tính tiến bộ về kế thừa một số tập quán cổ
truyền của dân tộc. Điểm tiến bộ, nổi bật của quốc triều hình luật là chú trọng đến
quyền lợi của người phụ nữ, thể hiện trong chế độ thừa kế tài sản và chế độ xử lý
ly hôn. Bên cạnh đó, quốc triều hình luật cũng quan tâm, bảo vệ dân thường, đặc
biệt những người nghèo khổ. Trong bộ luật có nhiều hình phạt đối với các quan lại,
người quyền quý ức hiếp, sách nhiễu dân đinh.
Trong lĩnh vực hình sự có nhiều nguyên tắc cơ bản như: nguyên tắc vô luật bất
hình, nguyên tắc chiếu cố, nguyên tắc chuộc tội bằng tiền, nguyên tắc chịu trách
nhiệm thay thế liên đới, nguyên tắc miễm giảm trách nhiệm hình sự, nguyên tắc
thưởng cho người có công tố giác, trừng phạt người che dấu, nguyên tắc những
người thân thuộc đước che giấu tội cho nhau...
Các tội đước quy định trong bộ luật rất cụ thể, tuy nhiên có thể chia thành nhóm
các tội thập ác(tội đặc biệt gây nguy hiểm cho xã hội, nó xâm phạm trực tiếp đế
vương quyền hay trật tự gia đình phong kiến) và nhóm các tội phạm khác.
Hệ thống hình phạt được áp dụng khi có hành vi phạm tội xảy ra gồm có nhóm
Ngũ hình với tư cách là nhóm hình phạt chính và nhóm các hình phạt bổ sung
khác. Ngũ hình gồm có Xuy, Trượng, Đồ, Lưu, Tử.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, thể hiện nguyên tắc hôn nhân áp đặt, không
được tự do hôn nhân, điều kiện kết hôn được quy định chặt chẽ, thủ tục kết hôn
gồm đính hôn và thành hôn.
Trong quan hệ gia đình, bảo vệ trật tự gia trưởng phong kiến, củng cố sự hòa
thuận, quy định trách nhiệm đối với nhau của các thành viên trong gia đình.



Trong lĩnh vự dân sự, khẳng định 2 chế độ sở hữu đối với ruộng đất là sở hữu nhà
nước (ruộng công) và sở hữu tư nhân (ruộng tư), các hợp đồng về ruộng đất phải
bằng văn bản do trưởng làng viết hoặc chứng kiến được gọi chung là văn khế.+
Quy định về thừa kế rất chặt chẽ, có điểm tiến bộ là ghi nhận phụ nữ cũng có
quyền thừa kế ngang với quyền của nam giới.
Trong lĩnh vực tố tụng, có quy đinh quyền khởi kiện của người dân, quy định thẩm
quyền xét xử theo cấp. Các quan lại là người hành pháp đồng thời là người xét
xử...
Câu 3, c/m tính tập quyền chuyên chế ở mức độ cao thời nguyễn.
Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền
trung ương giống như các triều đại trước đó. Đứng đầu Nhà nước là vua, nắm mọi
quyền hành trong tay. Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Thị thư
viện (đến thời Minh Mạng thì đổi thành Văn thư phòng và năm 1829 thì lại đổi là
Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại
thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật. Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ
trách các công việc của Hoàng gia.
Đặc biệt, để đề cao uy quyền nhà vua và ngăn chặn nạn quyền thần lấn át hoàng
đế, vua Gia Long đã đặt ra lệ Tứ bất: Trong triều không lập Tể tướng, thi đình
không lấy Trạng nguyên, trong cung không lập Hoàng hậu, không phong tước
vương cho người ngoài họ vua.
Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách
nhiệm chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước:
Bộ Lại: coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc...
Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc...
Bộ Lễ: coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử...
Bộ Binh: coi việc binh lính...
Bộ Hình: coi việc pháp luật...
Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự...

Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách
nhiệm thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ
trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc tử giám phụ trách giáo
dục, Thái y viện chịu trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang,... cùng với


một số Ti và Cục khác.
Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần
các quan cùng nhau bàn xét. Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình
mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành.
Hoàng đế tuy có quyền lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường.
Khi vua có làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua
và thường là vua phải nghe lời can ngăn của những người này.
Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về
quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị
mọi việc tại đia phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó
tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an
trong tổng.
Ngạch quan lại chia làm 2 ngành văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được xác
định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh
và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình thường quan võ phải dưới
quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy
quân lính của tỉnh nhà.
Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyền lợi,
cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao
hay thấp. Ngoài ra con cái các quan còn được hưởng lệ tập ấm.
Câu 4, Ngô - Đinh - Tiền Lê
Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê là thời kỳ đất nước gặp nhiều khó khăn sau một thời
gian dài chịu sự cai trị của chính quyền Trung Hoa.
Để bảo vệ chủ quyền còn non trẻ bên cạnh một nước lớn như Trung Hoa, việc xây

dựng mô hình chính quyền quân sự có tính tự vệ là một phản ứng tự nhiên và là sứ
mệnh có tính lịch sử.
Trong giai đoạn phôi thai của nhà nước phong kiến, khi cuộc đấu tranh vũ trang
giữa các lực lượng cát cứ và giữa chính quyền trung ương với các lực lượng cát cứ
địa phương diễn ra mạnh mẽ thì chính quyền mới phải giải cho được bài toán về
mối quan hệ giữa phân tán và tập quyền. Phân tán là bản chất của tính tiểu nông
vốn vẫn tiềm ẩn. Trong thời kỳ cai trị phong kiến phương Bắc tính tự trị địa
phương là rất cao, luôn trong thế bùng phát, nguy cơ phân tán quyền.
Về tổ chức chính quyền ở trung ương, Ngô Quyền đã đặt ra các chức quan văn,
quan võ , quy định các nghi lễ trong triều đình và màu sắc, trang phục của quan lại
các cấp.


Đến thời nhà Đinh, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế chọn Hoa Lư làm kinh đô và cũng là
căn cứ quân sự. Chính quyền lựa chọn việc đóng đô ở Hoa Lư là sự lựa chọn ưu
tiên cho mục tiêu an ninh, chống lại sự trỗi dậy của các thế lực cát cứ. Để bảo vệ
một chính quyền non trẻ vừa mới giành lại được, việc chọn Hoa Lư làm kinh đô là
một lựa chọn ưu tiên cho mục tiêu an ninh trong bối cảnh bấy giờ. Hoa Lư có địa
thế hiểm yếu, khả năng phòng thủ tốt, nhưng lại có bất lợi rất lớn là không thuận
lợi về vị trí địa lý cũng như điều kiện tự nhiên để phát triển thành trung tâm kinh
tế, văn hoá.
Năm 974 Đinh Tiên Hoàng tổ chức lại quân đội trong cả nước tổ chức quân đội
thành 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi
ngũ 10 người. Tổng chỉ huy quân đội là Thập đạo tướng quân điện tiền chỉ huy sứ
Lê Hoàn. Nếu đúng như vậy thì quân đội lúc đó lên đến 1 triệu người.
Có hai vấn đề đặt ra:
Thứ nhất, với số liệu trên cho ta thấy, tổng số quân đội thời kì này lên đến
1.000.000 người. Nhưng liệu sự thật có phải tổng số quân ở thời kì đó đã đạt được
con số khổng lồ như vậy trên tổng dân số Đại Việt mới có khoảng 3.000.000 dân?
Với tư liệu sử sách quá ít ỏi, chưa cho phép ta khẳng định một cách xác đáng,

nghiêm túc về vấn đề này, nhưng phần nào cũng giúp ta nhận diện rằng đây là thời
kì quân đội được chú trọng xây dựng và phát triển cả về số lượng và chế độ luyện
tập.
Thứ hai, cả nước chia thành 10 đạo, trong 10 đạo ấy liệu có bao gồm những người
thường dân khác hay không? Tại sao 10 đạo lại tương ứng với 1 triệu người. Vậy
những người thường dân khác nằm trong bộ phận nào? hoà nhập hay tách riêng?
qui chế pháp lí gì riêng cho thường dân không? Tất cả vẫn là những câu hỏi chưa
có lời giải đáp, chỉ biết rằng bằng tư duy lí luận - lịch sử ta có thể khẳng định rằng
việc phân chia thành các đạo, 10 đạo tương ứng 1 triệu quân chứng tỏ tính chất của
nó không giản đơn là đơn vị hành chính mà thực chất đạo là một đơn vị tổ chức
quân sự.
Dưới Triều Đinh Tiên Hoàng, chưa xuất hiện thiết chế Lục Bộ. Đinh Tiên Hoàng
phong Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ, Lê Hoàn làm
Thập đạo tướng quân, Giang Cự Vong làm Nha hiệu.
Năm 1002 Lê Hoàn (Lê Đại Hành) đổi 10 Đạo thành Lộ, Phủ, Châu. Dưới triều
Tiền Lê, Lê Hoàn và các đời vua tiếp sau củng cố và tăng cường thêm quân đội
thường trực, đặt ngạch thân binh, tuyển lính túc vệ đóng quân ở kinh thành. Các
chức quan cao cấp chỉ huy quân đội được đặt ra như Thái Uý, Khu mật sứ. Ngoài
quân đội của nhà vua, còn có quân đội của các vương hầu, quý tộc chiêu mộ và
điều khiển ở điền trang, thái ấp mà vua có thể điều động khi cần thiết.
Trong triều đình Ngô - Đinh - Tiền Lê, các vị vua đã tiến hành phong tước, mà
trước hết là một số người trong hoàng tộc. Thời kỳ này trật tự lễ nghi trong triều
đình đã bước đầu được định hình.


Từ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước đến các biện pháp quản lý xã hội thời kỳ
này còn mang đậm tính chất quân sự.
Thực chất nhà nước thời kỳ này vẫn mang dáng dấp của một cái làng lớn, chủ yếu
giải quyết tính đại diện của nhà nước về quân sự. Làng xã với tính chất tự quản
mạnh vẫn thể hiện rõ nét tính độc lập của mình trong quan hệ với chính quyền

trung ương.
Mỗi nhà nước phải có bệ đỡ về tư tưởng, chính quyền thời này không muốn dập
khuôn theo mô hình Nho giáo, đã chọn Phật giáo nhằm tranh thủ nhân tâm. Điều
đáng tiếc là Phật giáo lại quá xa lạ với luật pháp có tính quân sự của nhà Đinh, vì
vậy đã tạo ra một sự phản kháng hết sức gay gắt trong thời gian này.
Câu 5, thời Lê- sơ
Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi
phục lại quốc hiệu Đại Việt, tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước mới.
Chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì
hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua,
Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc, đại tổng quản,
đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân
đội. Giúp việc vua có các quan đại thần. Ở triều đình có sáu bộ, ngoài ra còn có
một số cơ quan chuyên môn.
Ở địa phương, thời vua Lê Thái Tổ và Lê Nhân Tông, cả nước được chia làm 5
đạo.
Dưới đạo là phủ, huyện (miền núi gọi là châu), xã. Đến thời vua Lê Thánh Tông,
đổi chia 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên, thay chức An phủ sứ đứng đầu mỗi đạo
bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên.
Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã. Pháp luật: Bộ luật Hồng đức
Tính chất tập quyền quan liêu của nhà nước thời Lê sơ.
Trung ương:
_ Tính quan liêu thể hiện rõ nhất ở việc xóa bỏ các cơ quan trung gian và thành lập
ra các cơ quan mới: 6 bộ: 6 tự, 6 khoa, đảm trách những công việc cụ thể, thể hiện
tính chất chuyên môn hóa, trong đó vai trò giải quết các công việc hành chính của
Triều đình được chủ yếu giao cho 6 bộ.
_ Tách 6 bộ ( lịa, hộ, lễ, binh, công, hình) ra khỏi thượng thư sảnh để lập 6 cơ quan
riêng cai quản các mặt hoạt động của nhà nước, mỗi bộ có 1 thượng thư phụ trách,
chịu trách nhiệm trước nhà Vua.
_ Những công việc lặt vặt chuyên trách trong bộ thì giao cho các thanh lại ty, có

quan lang trung trông coi và quan viên ngoại lang giúp việc. Riêng bộ hộ và bộ


hình còn thêm chiếu ma sở có quan chiếu ma phụ trách việc ghi chép văn thư vào
sổ.
_Tuy nhiện, công việc của 6 bộ rắt nhiều, có nhiều công việc không thể đảm trách
hết được, do đó Vua Lê Thánh Tông lập ra 6 tự phụ trách công việc phụ của 6 bộ.
Điều đáng lưu ý là 6 tự ( Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự,
Hồng lô tự, Thường bảo tự) là cơ quan độc lập với 6 bộ và chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của nhà Vua.
_ Để đảm bảo 6 bộ hoạt động có hiệu quả, các quan lại có trách nhiệm hơn, thì nhà
Vua Lê Thánh Tông thành lập 6 khoa ( lại khoa, hộ khoa, lễ khoa, binh khoa, hình
khoa, công khoa) có chức năng giám sát tương ứng với 6 bộ. Quan phụ trách cao
nhất của mỗi khoa là quan Đô cấp sự trung với trật chánh nhất phẩm, dưới là quan
chấp sự trung trật chánh bát phẩm. Lục khoa không phải là cơ quan cấp dưới của
lục bộ mà là cơ quan giám sát lục bộ và báo cáo trực tiếp lên nhà Vua, cho nên mặc
dù quan phụ trách ở khoa tuy phẩm trật không lớn nhưng rất có thực quyền.
_ Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn khác được cải cách phù hợp với chức năng
nhiệm vụ tương ứng với một đối tượng và đảm trách từng công việc cụ thể hơn.
=>. Từ sự cải cách theo nguyên tắc quan liêu như đã nêu trên ta thấy có nhiều cơ
quan mới được thành lập, nhưng bộ máy nhà nước trung ương trở nên tinh gọn
hơn, hoạt động hiệu quả hơn, nhiều chức quan mới xuất hiện tuy phẩm trật khác
nhau nhưng thật quyền như nhau và có trách nhiệm hơn.
Đia phương:
_ Tính quan liêu thể hiện ở việc thành lập 13 đạo để thu hẹp bớt quyền của chính
quyền địa phương và xóa bỏ một số đơn vị trung gian. Chính trong việc tổ chức
mỗi đạo củng thể hiện tính quan liêu rỏ nét. Lê Thánh Tông đã cho cải tổ việc quản
lý địa phương bằng cách trao quyền phụ trách ở một đạo cho 3 cơ quan:
+) Thừa Ty: phụ trách công các công việc thuộc về lĩnh vực hành chính, tài chính,
dân sự.

+) Đô ty: phụ trách quân sự.
+) Hiến ty: có chức năng giám sát các công việc trong đạo để tâu lên vua.
_ Chức quan đứng đầu mỗi cơ quan đảm trách công việc phù hợp với chức năng và
trình độ của mình.
_ Để đảm bảo trách nhiệm của từng cá nhân, thì công tác thanh tra giám sát ở địa
phương củng được chú trọng. Vua lê thánh tông cho đặt giám sát ngự sử ở 13 đạo
làm nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ các hiến ty giám sát hoặc các hành vi sai trái của
quan lại các thừa tuyên, phủ, huyện. Đồng thời Lê Thánh Tông củng quy định rõ
chức trách của các quan giám sát ngự sử.


_ Ngoài ra, tính quan liêu còn thể hiện rất rõ ở cấp xã: chia tách và quy định rỏ
từng loại xã và người đứng đầu của từng xã .
+) Bỏ chế độ xã quan và đổi thành xã trưởng, phân định rõ số lượng xã trưởng cho
từng loại xã: đại xã thì dùng 5 người, trung xã thì 4 người, xã nhỏ hơn thì 2 người
và nhỏ dưới 60 hộ thì một người.
+) Quy định rõ về người làm xã trưởng: không cho phép những người là anh em
ruột, anh em con chú, bác, cô, gì, già làm xã trưởng.
+) Trong bộ máy chính quyền xã gồm các chức : xã trưởng, xã tư. Mỗi chức vụ có
một nhiệm vụ riêng biệt. Mỗi xã có thêm nhiều thôn nên có thêm chức trưởng thôn
để cừng xã trưởng giải quyết công việc .
 Nguyên tắc quan liêu ở địa phương mục đích là tránh tình trạng cát cứ địa
phương ảnh hưởng đến chính quyền trung ương.
Câu 6, Tổng kết nhà nước thời kì phong kiến.
- Đặc trưng cơ bản của nhà nước phong kiến:
+ hinh thức nhà nước là hình thức chính thể quân chủ tuyệt đối phổ biến ở
các nhà nước phương đông
+ cơ sở kinh tế là chế độ sỡ hữu nhà nước về ruộng đất dưới hai hình thức sỡ
hữu nhà nước và sỡ hữu làng xã, cơ sở tư tưởng là hệ tư tuongr nho giáo.
+ cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và chế độ quan chức đều mô phỏng

nhà nước phong kiến trung hoa mang đậm dấu ấn lịch sử của hơn 10 thế kỷ
bắc thuộc.
- Đặc trưng của pháp luật:
+ PL phong kiến Việt nam thể hiện tính giai cấp công khai, pháp luật đẳng
cấp và đặc quyền
+ PL mang tính dã man, tàn bạo ( trong bộ luat HĐ)
+ Pl bảo vệ quyền thống trị của nha nuoc phong kien tập quyền.
+ PL liên quan mật thiết với tôn giáo và đạo đức phong kiến
Câu 7, Thời Lý- Trần:
- Tổ chức Bộ MÁY NHÀ NC & Quan chế:
+ Quan chế của nhà nước Lý - Trần có quy củ, chặt chẽ hơn các triều đại
trước. Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng đầu
các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo(tam thái). Dưới đó
là chức thái úy , nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này
được gọi là tể tướng . Tiếp đến là các chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo,
thiếu úy (phụ trách cấm quân), nội điện đô trị sự, ngoại điện đô trị sự, kiểm
hiệu bình chuơng sự . Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà
vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên


trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư
sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.
+ Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban hành Hội điển , quy định các
phép tắc chính trị, tổ chức bộ máy quan lại. Từ đó, quy chế tổ chức hành
chính và quan lại được xác lập, thể hiện bước tiến bộ rõ rệt trong việc quản
lý xã hội, đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao được phong thực
phong, thực ấp. Chỉ con cháu những người có quan tước, được tập ấm, mới
được làm quan.
+ Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện
hơn thời Lý. Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng.

Các vua sớm truyền ngôi cho con trai trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng
với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng là Thái thượng hoàng . Chế độ
Thái thượng hoàng thời Trần có tác dụng ngăn chặn tình trạng các đại thần
chuyên quyền, cướp ngôi khi vua còn ít tuổi. Trong triều đình, đứng đầu các
quan vẫn là ba chức thái (sư phó, bảo) chỉ có điểm khác thời Lý ở chỗ nhà
Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong thêm (như
thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý
(tướng quốc) đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự . Giúp việc cho tể
tướng (tướng quốc) thời Trần đặt thêm các chứchành khiển nằm trong cơ
quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả các chức thượng thư (đứng
đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các chức vụ nói trên,
các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu
mỗi bộ là một viên thượng thư . Ban đầu mới có thượng thư hành khiển,
thượng thư hữu bật (2 bộ), từ cuối thế kỷ XIV (1388-1398), đời Quang Thái
mới có thêm thượng thư các bộ binh, hình... Dưới thượng thư có thị lang,
lang trung giúp việc. Bên võ có các chức vụ phiêu kỵ tướng quân, đại
tướng, đô tướng, tướng quân , lúc có chiến tranh, đặt thêm chức tiết chế
tổng chỉ huy toàn quân.
+ Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ
chức chặt chẽ hơn như: các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục);
các đài (Ngự sử đài với các chức tả hữu gián nghị đại phu, thị ngự sử, giám
sát ngự sử v.v.); các viện (Khu mật viện với các chức tri mật viện sự, khu
mật tham chính, thiêm tri mật viện sự, giám sự, v.v.), hàn lâm viện (với các
chức hàn lâm học sĩ phụng chỉ, hàn lâm viện học sĩ..), Quốc sử viện, Thâm
hình viện; giám (Quốc tử giám),v.v..
+ Nhìn chung, bộ máy quan lại ở trung ương thời Lý - Trần cấu trúc theo ba
cấp: trung ương, cấp hành chính trung gian, cấp hành chính cơ sở, nhưng
ngày càng có hệ thống, đầy đủ hơn từ thời Lý đến thời Trần. Ở các địa
phương, nhà Lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê làm 24 lộ , đặt thêm một số
đạo vàtrại, châu . Một số châu, trại đổi làm phủ , các vùng xa gọi

là châu (như châu Vĩnh An, Đằng Châu, châu Lâm Tây, v.v.). Dưới lộ
có huyện, hương.
+ Ở Kinh đô, nhà Lý giao cho một hoàng tử hay thân vương trông coi gọi
là kinh sư lưu thủ . Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng


-

quản để trông coi. Ở các châu biên giới đặt chức châu mục đứng đầu. Đứng
đầu phủ có chức tri phủ, tri phủ sự, phán phủ sự phụ trách.
+ Nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ (từ năm 1242): Lộ Thiên Trường (gồm
Xuân Trường, Mỹ Lộc thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay), Long Hưng (Tiên
Hưng, Thái Bình) Quốc Oai (Hà Tây), Bắc Giang (nay là Bắc Giang), Hải
Đông (Quảng Ninh), Trường Yên (Hà Nam), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng
(Hải Dương), Khoái (Hưng Yên), Thanh Hoá, Hoàng Giang (Hà Nam), Lạng
Giang (Lạng Sơn). Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là an
phủ sử , ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán,
thiên phán, tào, vận lệnh uý v.v.. Các châu do chuyển vận sứ, thông
phán quản lý, ở huyện dolệnh uý, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã quan được phổ
biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã . Các viên xã quan
được tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm, từ ngũ phẩm
trở lên làm đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống giữ chức tiểu tư xã (xã nhỏ).
Dưới đại, tiểu tư xã có các chức xã trưởng, xã giám giúp việc sổ sách.
+ Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức phụ trách về dòng họ nhà vua gọi
là tông chính phủ . Năm 1230, nhà Trần cho ban hành bộ sách Thông chế
gồm 20 quyển, lại cho soạn sách Quốc triều thường lễ , ghi chép công việc
của triều đình. Việc cai quản đất nước dưới thời Trần theo quy chế rõ ràng,
có bước tiến bộ, phát triển hơn thời Lý. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban
phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ
riêng.

+ Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất
cả các chức vụ quan trọng trong triều cũng đều giao cho vương hầu quý tộc
nhà Trần nắm giữ. Bởi vậy nhà Trần nắm khá chắc toàn bộ công việc chủ
chốt trong triều, quyền lực tập trung trong tay nhà nước trung ương; chế độ
quân chủ trung ương tập quyền được củng cố thêm một bước.
+ Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ
nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời Trần. Cũng có thể nói nhà nước
thời Lý - Trần là nhà nước quân chủ quý tộc .
Pháp luật:
+ Về mặt pháp chế, thời Lý - Trần có bước tiến bộ hơn thời Khúc, Ngô Đinh - Lê ở chỗ nhà nước tăng cường hoạt động lập pháp, ban hành các luật
lệ đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam thời trung đại.
+ Năm 1040, Lý Thái Tông xuống chiếu từ nay về sau phàm nhân dân trong
nước, ai có việc kiện tụng thì giao cho thái tử xét xử trước khi trình lên vua
quyết định. Năm 1042, nhà Lý biên soạn và cho ban hành bộ luật Hình thư,
đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước quân chủ Việt Nam. Bộ Hình
thư ra đời thay thế cho các quy chế, luật lệ, chiếu chỉ trước đó. Nhu cầu và
tác dụng của Hình thư được phản ánh trong nhận xét của nhà sử học Ngô Sĩ
Liên như sau: "Trước kia, trong nước, việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ
việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy
làm thương xót, sai sửa định luật lệnh, châm chước cho, thích dụng với thời
bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản làm sách hình luật của một


triều đại để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi
hành. Dân đều lấy làm tiện".
+ Các triều vua Lý về sau tiếp tục ban hành những luật lệ bổ sung về hành
chính, hình sự, dân sự.
+ Pháp luật thời Lý nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà nước trung ương tập
quyền, của giai cấp thống trị, trước hết là của nhà vua. Củng cố chế độ đẳng
cấp, hạn chế sự bành trướng thế lực của bọn quan liêu quý tộc, bảo vệ nguồn

bóc lột của nhà nước. Đối với tội thập ác, đặc biệt tội chống đối lại nhà Lý
thì bị hình phạt rất nặng, tàn khốc như bị xẻo thịt, róc xương ở chợ, bị tùng
xẻo, chặt chân, tay. Pháp chế thời Lý cũng có những mặt tích cực như coi
trọng việc bảo vệ và phát triển sức sản xuất của dân tộc, quan tâm đến đời
sống của con người, thể hiện tinh thần nhân ái trong pháp trị, tiêu biểu nhất
là dưới triều đại Lý Thánh Tông (l054-l072) "Thánh Tông thành thực thương
dân, khoan rộng việc hình. Cứ theo đạo ấy mà làm, thói dở đâu còn che lấp,
dân tình đâu còn không thông, thiên hạ đâu còn lo chẳng thịnh trị".
+ Đến thời Trần, pháp luật từng bước được đổi mới. Hoạt động pháp chế
được tăng cường. Gốc nhân ái của pháp luật vẫn được giữ gìn, nhưng tinh
thần pháp trị ngày càng được đề cao.
+ Năm 1225, nhà Trần thay thế nhà Lý cai quản đất nước. Năm 1230, Trần
Thái Tôn đã cho soạn Quốc triều hình luật . Năm 1341, Trần Dụ Tông sai
Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn Hình thư . Tên Hình luật và
Hình thư đã nói rõ tính chất của các bộ luật đó. Việc xừ án, thi hành án cũng
được chú ý.
+ Luật của nhà Trần về nội dung cũng giống luật của nhà Lý, bảo vệ địa vị
và quyền lợi kinh tế của vua quan, quý tộc, củng cố quyền lực của nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền, đặc biệt của nhà vua. Đối với tội thập ác,
đặc biệt tội phản nghịch, phản quốc bị xử rất nặng. "Hình phạt nhà Trần rất
tàn khốc, kẻ ăn trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người
(sự chủ) được thoả ý (xử trị) hoặc cho voi giầy chết".
+ Có thể nói, nếu nhà Lý mở đầu cho thời kỳ pháp luật thành văn và đưa
pháp luật chính thức đi vào cuộc sống, thì nhà Trần đã kế thừa di sản tích
cực đó, nâng cao hơn một bước để thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đất
nước, có tác dụng góp phần bảo vệ thành công nền độc lập, thống nhất quốc
gia. Nét đặc sắc của pháp luật thời Lý - Trần là tinh thần pháp chế ngày càng
được đề cao nhưng cái gốc của đạo trị nước là nhân và đức vẫn được chú
trọng trong thực thi pháp luật, mặc dù tính giai cấp và đẳng cấp trong pháp
luật vẫn rất đậm nét.

c/m tâp quyen thân dân:
Thứ nhất , trên bình diện tư tưởng, triết lý thân dân là một dòng chảy liên tục và có
hệ thống trong tư tưởng chính trị thời Lý – Trần. Chúng ta biết rằng, ở Đại Việt
thời Lý, tư tưởng dân bản, thân dân được thể hiện khá đâm nét trong đời sống xã
hội. Trong hoàn cảnh mà sự phân tầng xã hội còn khá mờ nhạt, các vua Lý đều nói
tới người dân qua những cách diễn đạt khác nhau như “thuận lòng dân” (Lý Thái


Tổ), “yêu dân như con” (Lý Thánh Tông). Quan hệ vua quan – thần dân còn khá
gần gũi. Sử sách ghi lại rằng năm 1012, vua Lý Thái Tổ cho xây cung Long Đức ở
ngoài thành cho Hoàng thái tử Khai Thiên Vương Phật Mã ở, “ý cho thái tử hiểu
hết mọi việc của dân”. Nhà vua cũng thi hành chính sách thân dân: năm 1013 định
lại các lệ thuế, từ thuế ruộng đất ao hồ đến thuế bãi dâu, các thuế sản vật …và
nhiều năm xá thuế cho nhân dân, được chính sử đánh giá là “khoan thứ nhân từ, tử
tế, hòa nhã, có lượng đế vương”. Năm 1040, vua Lý Thái Tông dạy cung nữ dệt
gấm vóc, cho công chúa cùng cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Dân chúng
kinh thành Thăng Long trong những ngày hội (như hội đền Quảng Chiếu) đã được
vào tận Đoan Môn của Cấm Thành tham dự; họ cũng được phép tới thềm điện
Long Trì đánh chuông kêu cầu oan ức. Vào dịp đầu năm, vua Lý Anh Tông đã ra
tận ruộng để cày ruộng tịch điền cùng với nhân dân. Trong bài Lộ bố văn khi chinh
phạt Tống, Lý Thường Kiệt đã trịnh trọng tuyên bố một nguyên tắc dân bản: “Trời
sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục, đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Còn
thiền tăng Viên Thông thì nêu lên nội dung cụ thể của quan điểm thân dân là:
“Muốn yên dân thì phải tôn trọng những người dưới”. Như vậy, ngay từ thời Lý,
việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được
xem là công việc hệ trọng nhất của việc trị nước.
Trong thời Trần, dòng tư tưởng thân dân, trọng dân vẫn được tiếp tục. Các vua đều
tự coi mình cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng. Vua
Trần Thái Tông khi đang đêm bỏ kinh thành lên núi Yên Tử xuất gia tu hành đã
khẳng định: “Trẫm muốn ra ngoài chơi để được nghe tiếng nói của dân, xem xét

lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”. Điều này nói lên rằng, các vua
thời Trần đã có những quan hệ khá gần gũi với dân chúng, chứ không chỉ ngồi yên
vị ở ngai vàng như những triều đại sau này. Sử cũ chép rằng, các vua thường xuyên
đi xuống các làng mạc địa phương thăm hỏi việc đắp đê, gặt lúa, đánh cá, dự các lễ
hội đấu vật, đua thuyền hoặc du hành đi chơi phố. Một sự kiện để lại dấu ấn đậm
nét của tinh thần thân dân là việc Thượng hoàng Trần Thánh Tông mời các bô lão
trong nước đến dự Hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến về việc đánh giặc Nguyên
Mông. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoài Vănthì đây thực sự là một “quốc dân đại
hội”1 của Đại Việt thời trung đại.
Mặt khác, trong thời kỳ này, nhân dân được xem như là cơ sở để tiến hành những
cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập. Bởi vậy, Trần Hưng Đạo cho rằng phải khoan thư
sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, coi đó là thượng sách để giữ nước. Điều này có
ý nghĩa biểu thị sự quan tâm của nhà nước đối với sản xuất và đời sống của nhân
dân để xây dựng một nền thái bình thịnh trị lâu dài.
Sự hiện diện một cách rõ rệt và có hệ thống của triết lý thân dân trong lĩnh vực tư
tưởng của giai cấp cầm quyền chính là cơ sở để nhà nước Lý - Trần tiến hành hàng
loạt các chính sách nhằm hiện thực hóa triết lý đó trong đời sống xã hội, mang lại
sức mạnh to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.


Thứ hai, Phật giáo là một cơ sở quan trọng cấu thành mô hình nhà nước quân chủ
thân dân nói chung, thời Lý - Trần nói riêng. Nhà nước quân chủ Việt Nam lúc mới
ra đời là một nhà nước cai trị bằng bạo lực. Nhưng nếu chỉ có quân sự và bạo lực
thì sẽ không thu phục được lòng dân, bị nhân dân oán thán. Bởi vậy, các vị vua Lý,
Trần đã tìm đến Phật giáo để thiết lập một thế cân bằng mới có lợi cho việc cai trị
của mình. Chúng ta biết rằng lịch sử tư tưởng Việt Nam đã ghi nhận sự tồn tại lâu
dài của hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Trong thời Lý - Trần, “tam giáo đồng
nguyên” là sự cùng tồn tại hòa bình và ảnh hưởng lẫn nhau (bổ sung cho nhau và
đấu tranh với nhau) của ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho. Mặc dù cuối thời Trần, Nho
giáo đã thắng thế nhưng trong suốt 4 thế kỷ trị vì của hai triều đại này, Phật giáo

luôn là tôn giáo chiếm vị trí độc tôn. Với tư cách là “quốc giáo”, Phật giáo đã có
vai trò quan trọng và có ảnh hưởng chi phối đến tư tưởng chính trị của các vua thời
Lý và nửa đầu thời Trần. Đặc biệt, vua Lý Thái Tổ - vị vua sáng lập ra vương triều
Lý - vốn xuất thân từ Phật giáo và nhờ thế lực của Phật giáo mà lên ngôi vua nên
rất tôn sùng đạo Phật và lấy tôn giáo này làm chỗ dựa tinh thần cho vương triều.
Vai trò của Phật giáo trong nhà nước quân chủ thân dân thể hiện ở các khía cạnh
sau:
* Tạo ra sự cân bằng tư tưởng trong xã hội:
Xét một cách khái quát, cả ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho đều mang tính chất nhân
văn, lấy việc giải thoát con người, đem lại hạnh phúc cho con người là mục đích
cuối cùng. Phật giáo còn nhấn mạnh tư tưởng nhân từ bác ái và tinh thần “hiếu
sinh” (tôn trọng cuộc sống). Trong thời đại mà Phật giáo phát triển thịnh đạt nhất
trong xã hội, các triều đại Lý - Trần đều thấm nhuần dòng tư tưởng chủ đạo trên và
áp dụng vào thực tiễn trị nước mà cụ thể là chính sách thân dân và tư tưởng nhân
văn khai phóng. Theo đó, chủ trương của nhà nước không nên can thiệp, hoặc can
thiệp càng ít càng tốt vào cuộc sống tự tại của người dân, để họ tự lo liệu giải
quyết. Bởi vậy, đã tạo nên dòng gắn kết, sự cân bằng giữa thói ứng xử bạo lực của
nhà nước quân chủ với tư tưởng dân chủ của làng xã. Có thể khẳng định rằng Phật
giáo chính là nhịp cầu tâm linh tin cậy nối nhà nước với làng xã, với dân chúng,
giúp an dân, xây dựng cục diện thái bình trong xã hội.
* Tạo ra một trung tâm về giáo dục ngay tại các nhà chùa Phật giáo:
Kể từ khi bước vào kỷ nguyên độc lập, những người trí thức đầu tiên chính là tầng
lớp sư sãi. Họ không dừng lại ở cương vị là người tu hành thoát tục, mà còn tham
gia cả vào những hoạt động nội trị và ngoại giao, trong đó có hoạt động giáo dục.
Mặc dù đến thời Lý, nền giáo dục Nho học đã xuất hiện trên đất nước ta nhưng các
trường học Nho giáo chưa đóng vai trò quan trọng mà nhà chùa mới là nơi dạy
học, truyền bá văn hóa và đào tạo tầng lớp trí thức. Cùng với việc các vua Lý, Trần
và những quý tộc, quan chức cao cấp khác bỏ tiền của xây dựng chùa chiền ở khắp
nơi, nhà chùa đã “trở thành một thế lực kinh tế, chính trị, văn hóa lớn trong xã
hội”. Bởi vậy, tư tưởng Phật giáo lại càng có điều kiện lan tỏa và thấm sâu vào đời



sống, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa với hình tượng Bồ Tát - một hình tượng của từ
bi, hỉ xả để cho quần chúng cầu được ước thấy và thỏa nguyện những khát vọng về
mặt tinh thần. Phật giáo thời Lý - Trần đã phát triển mạnh mẽ trong sự gắn bó với
lợi ích của người dân và có khi là với vận mạng của dân tộc.
* Tạo ra truyền thống tôn giáo tham gia vào chính sự:
Trong mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý - Trần, việc cai trị không thực sự
chuyên nghiệp như mô hình nhà nước quân chủ quan liêu sau này. Điều này thể
hiện ở việc dùng sư sãi, tôn thất nắm chính quyền, đào tạo quan lại cai trị không
bài bản. Đặc biệt là ở việc dùng sư sãi trong bộ máy cai trị. Ở thời Lý – Trần, tầng
lớp trí thức là sư sãi giữ vị trí quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước
với vai trò là cố vấn chính trị cao cấp của nhà vua, là chính trị gia bên cạnh các
tướng lĩnh của triều đình. Sư Vạn Hạnh có vai trò to lớn trong việc thành lập
vương triều Lý; sư Đà Bảo được Lý Thái Tổ mời đến kinh đô tham gia chính sự.
Những nhà sư có tài năng và uy tín lớn như sư Viên Thông, sư Thông Biện còn
được phong làm quốc sư, có đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước.
Như vậy, thời kỳ quân chủ Việt Nam lúc mới bắt đầu tuy rất bạo lực nhưng đã có
cơ sở để thân dân do sự xuất hiện của yếu tố Phật giáo (chủ yếu là Phật giáo Đại
thừa). Phật giáo đã có vai trò quan trọng đối với nền chính trị quân chủ Lý - Trần,
góp phần tạo nên một cục diện thái bình thịnh trị trong mấy trăm năm tồn tại của
hai triều đại này.
Tuy nhiên, Phật giáo không bao giờ có thể dùng để điều hành một quốc gia cũng
như hoạch định các đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại, sắp đặt cấp bậc tôn ti
trật tự trong xã hội nên đến cuối đời Trần, Nho giáo đã thắng thế và trở thành một
ý thức hệ thống trị xã hội. Sự thắng thế của Nho giáo là một trong những cột mốc
đánh dấu sự ra đời của mô hình nhà nước quân chủ quan liêu, thay thế cho mô hình
nhà nước quân chủ thân dân lúc này đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của mình trên vũ
đài chính trị.
Thứ ba, về mặt tổ chức cai trị, tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần thể hiện

ở chỗ đã tìm ra một thế thỏa thuận giữa cộng đồng làng xã với nhà nước quân chủ.
Chúng ta biết rằng trong lịch sử, làng Việt Nam luôn có xu hướng biến thành cộng
đồng tự trị, tự quản; còn nhà nước luôn có xu hướng can thiệp sâu vào làng. Tuy
nhiên, nhà nước Lý – Trần vẫn duy trì một thiết chế chính quyền tự trị, tự quản
trong các làng xã, ít có sự can thiệp của nhà nước (quyền lực của nhà nước đến
cổng làng, sau cổng làng là làng xã tự trị). Mối quan hệ làng - nước nhờ đó được
dung hòa.
Quan điểm tự do chủ nghĩa chủ trương nhà nước can thiệp càng ít càng tốt vào đời
sống của dân chúng cũng được nhà nước Lý – Trần áp dụng vào lĩnh vực kinh tế.


Nhà Lý tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà
nước không thu thuế theo từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể
lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế
các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực sự là chủ của dân chứ không
phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô làng xã.
Nhà Trần có chế độ thái ấp, điền trang là một hình thức sở hữu đặc biệt của tầng
lớp quý tộc quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Theo sử sách ghi lại thì thái ấp là
ruộng do nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Trên danh nghĩa,
ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của
người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về
đất đai và một phần về cư dân trên đó, như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các
đội quân vương hầu gia đồng. Thời trần, có những thái ấp của Trần Liễu (Đông
Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát
Chân ở Kẻ Mơ (Hà Nội)… Do tính chất hạn chế về quyền chiếm dụng ruộng đất
nên thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính
quyền trung ương.
Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp
quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận
ruộng đất thuộc sở hữu phong kiến lớn, tư nhân. Các điền trang được nhắc đến

trong lịch sử là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Quốc Khang
(Diễn Châu, Nghệ An)…Chế độ điền trang phát triển mạnh mẽ, hàm chứa nhiều
yếu tố và xu thế cát cứ.
Tuy nhiên, trong suốt hàng trăm năm tồn tại của mình, chế độ thái ấp, điền trang đã
có những tác động lớn về mặt chính trị. Nó góp phần xây dựng một triều đình
thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực
tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã hoàn thành tốt vai trò
của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành lãnh chúa
địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các
vương hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc
vẫn nằm trong làng, không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được
mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được
xác lập và duy trì giữa công hữu và tư hữu; giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước
với các đẳng cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã. Tính chất thân dân
của nhà nước quân chủ Lý – Trần có cơ sở từ chế độ này.
Cuối thời Trần, nền kinh tế của quý tộc Trần trên đà suy yếu. Chế độ sở hữu điền
trang, thái ấp và hình thức kinh doanh của quý tộc Trần bóc lột nông nô, nô tì ngày
càng nặng nề làm cho nền kinh tế bị suy yếu và ruộng đất công của làng xã bị lấn
chiếm nghiêm trọng. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa
của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên
nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý –


Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế
lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Chế độ thái ấp, điền trang dần tan rã từ đó.
Thứ tư , tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần còn thể hiện ở chính sách “ngụ
binh ư nông”.
Chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nông) có từ thời nhà Lý, sau đó được
tiếp tục duy trì và phát triển ở thời Trần. Chính sách này quy định cụ thể về chế độ
binh dịch đối với tất cả đinh tráng và chế độ quân lính chia phiên về sản xuất2.

Theo đó, tất cả hoàng nam đến tuổi trưởng thành (16 tuổi) đều phải đi lính. Để tập
trung được đông đảo nhân lực trong nước cho sản xuất mà vẫn không ảnh hưởng
đến việc xây dựng quân đội thường trực, các triều Lý, Trần đều thực hiện chia
phiên cho quân lính về làm ruộng. Theo các nàh nghiên cứu, thời Lý – Trần chỉ có
cấm quân là thường xuyên tại ngũ bảo vệ nhà vua và kinh thành, còn lại đều chia
phiên về nà cày cấy hoặc làm các công việc khác. Cứ thế cắt lượt thay nhau, khiến
ai nấy hàng năm đều luân phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập một thời gian, còn
lại về sản xuất. Chính sách tiến bộ này vừa đáp ứng quyền lợi của giai cấp nông
dân, tăng thêm của cải cho xã hội, vừa góp phần giảm bớt chi phí nuôi quân, làm
cho một nước nhỏ như Đại Việt luôn có đủ quân đội thường trực để đương đầu với
kẻ thù trong cuộc đấu tranh giữ nước. Về chính trị, chính sách “ngụ binh ư nông”
còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra một tâm thức tuân lệnh bề trên, tạo ra
sợi dây gắn kết liên tục giữa thiết chế quyền lực nhà nước với nông dân làng xã.
Nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá “đây cũng là phép hay của đời cận cổ”3.
Từ những luận điểm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Mô hình nhà nước Lý –
Trần là mô hình nhà nước quân chủ thân dân có lịch sử tồn tại gần 4 thế kỷ trên đất
nước ta. Mặc dù thực chất quan điểm và chính sách thân dân thời Lý – Trần có
mục đích chính là điều chỉnh mối quan hệ nhà nước phong kiến với nhân dân, điều
hoà mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với nhân dân lao động bị áp bức
bóc lột nhưng nó vẫn góp phần đem lại một cục diện thái bình, no ấm, góp phần
củng cố khối đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế,
văn hóa và xã hội. Như vậy, trước khi bị mô hình nhà nước quân chủ quan liêu thời
Lê sơ thay thế, mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý – Trần đã hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình, tạo nên một giai đoạn hoàng kim với nhiều thành tựu vĩ
đại trong lịch sử dân tộc
Câu 8: So sánh bộ máy nhà nước Văn Lang - Âu Lạc với Ngô-Đinh-Tiền-Lê
_ Văn Lang –Âu Lạc
Sơ đồ bộ máy nhà nước Văn Lang - Âu Lạc :



Chính quyền trung ương và địa phương
 Vua ( Văn Lang : Hùng Vương, An Dương Vương, Âu Lạc ): quân chủ đứng
đầu nhà nước về mặt chính trị, là người chỉ huy quân sự và chủ trì các nghi lễ tôn
giáo.
 Lạc hầu: giúp việc cho nhà Vua, là các tướng, tá to nhỏ, trong tay có quân đội
sẵn sàng đàn áp các địa phương không chịu thần phục, thay mặt Vua giải quyết các
công việc trong nước.
 Lạc tướng: chức quan thế tập được Vua và Lạc hầu thừa nhận đứng đầu các bộ,
cai quản các địa phương, phân bổ, đôn đốc và đốc thúc cúng nạp, truyền đạt mênh
lệnh từ trên xuống và tổ chức lực lượng khi có chiến tranh xay ra.( Nước Văn lang
chia thành 15 bộ vốn là 15 bộ lạc trước đây )
 Bồ chính : Đứng đầu các công xã nông thôn ( kẻ, chiềng, chạ) công xã nồn thôn
kết hợp quan hệ làng xóm với quan hệ huyết thống.
 Tổ chức quân đội: Nhà nước tuy còn sơ khai nhưng đã có tổ chức quân đội.
Vua, lạc hầu, lạc tướng đã có những đơn vị thần binh để hộ vệ làm chủ lực trong
các cuộc chiến tranh. Tuy vậy, mỗi lần có chiến tranh, nhà nước chủ yếu dựa vào
lực lượng chiến đấu và hậu cần của nhân dân các công xã.
_ Nhà nước Ngô-Đinh-Tiền-Lê:
Chính quyền trung ương:
NHÀ ĐINH:
 Hoàng Đế : đứng đầu, trị vị muôn dân
Định quốc công: viên quan đầu triều, tương đương tể tướng
Đô hộ phủ sĩ sư: trông coi việc hành án ở phủ đô hộ


Thập đạo tướng quân: tướng chỉ huy 10 đạo quân
Nha hiệu: củng là chức quan to, không rỏ chức năng
Tăng thống: là chức quan đứng đầu phật giáo trong cả nước
Tăng lục: là chức quan trông coi phật giáo, giúp việc cho tăng thống
Sùng chân uy nghi: quan trông coi về đạo giáo

 Ngoài ra còn có: chi hậu nội nhân, đô úy,...
NHÀ TIỀN LÊ: ( mô phỏng theo quan chế nhà tống)
 Hoàng đế: đứng đầu, đại diện cho thượng đế để trị vì nhân dân, đồng thời là đại
diện của dân trước Thượng đế
 Đại tổng quản trị quân dân sự: viên quan đầu triều, tương đương tể tướng
 Thái sư: là quan văn. Đại thần triều đình, cố vấn cấp cao của nhà vua
 Thái úy: tướng chỉ huy quân đội
 Nha nội đô chỉ huy sứ
 Đạo sư: là chức quan đứng đầu phật giáo trong cả nước
 Tăng lục: là chức quan trông coi phật giáo, giúp việc cho Đạo sư
Chính quyền địa phương:
 Nhà Ngô: Lộ => Phủ=>Châu=>Xã=>Giáp
 Nhà Đinh: Đạo ( 10 ) => Giáp=> Xã
 Nhà Tiền – Lê: Lộ => Phủ=> Châu=>Hương (Giáp ) => Xã
Tổ chức quân đội:
 Nhà Đinh: Quân đội chia thành 1 đạo, mỗi đạo chia thành 10 quân, mỗi quân 10
lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Chỉ huy quân đội là thập đạo
tướng quân.
 Nhà Tiền – Lê: tổ chức quân cấm vệ gồm: 3000 người, trên trán thích 3 chữ “
Thiên tử quân ”.
 Kết luận: nhà nước Văn Lang - Âu Lạc còn sơ khai và hết sức đơn sơ. Tới thời
nhà Ngô-Đinh-Tiền-Lê tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, nhìn chung còn đơn giản, tổ chức hoạt động cùng chế độ quan lại chưa được
quy định rỏ ràng, chặt chẽ. Chuyển từ chế độ Nhà nước cộng đồng quốc gia, cộng
đồng bộ tộc sang nhà nước trung ương tập quyền.
Câu 9: So sánh bộ máy nhà nước Tiền lê với Lý – Trần.


 Nhà Tiền Lê: mô phỏn theo quan chế nhà tống
_ Hoàng đế: đứng đầu, đại diện cho thượng đế để trị vì nhân dân, đồng thời là đại

diện của dân trước Thượng đế.
_ Đại tổng quản trị quân dân sự: Viên quan đầu triều, tương đương tể tướng.
_ Thái sư: Là quan văn, đại thần triều đình, cố vấn cấp cao của Vua
_ Thái úy: Tướng chỉ huy quân đội
_ Nha nội đô chỉ huy sứ
_ Đạo sư: là chức quan đứng đầu phật giáo trong cả nước.
_ Tăng lục: là chức quan trông coi phật giáo, giúp việc cho đạo sư.
NHÀ LÝ – TRẦN:
 Hoàng đế: đứng đầu nhà nước, nắm trọn quyền lực, vai trò của Vua là rất lớn, là
cha mẹ dân, là người bảo vệ quyền lợi cho nhân dân.
 Tể tướng: Đứng trên đội ngũ quan lại, giúp Vua điều tiết hoạt động quan lại cấp
dưới.
 Các quan đại thần:
Thời lý: 3 chức thái: ( thái sư, thái úy, thái bảo ) và 3 chức thiếu ( thiếu sư, thiếu
phó, thiếu bảo)
Thời Trần: 3 chức tư: ( tư đồ, tư mã, tư không ) các quan văn: tam thái, tam thiếu,
tam tư và quan võ :thái úy, thiếu úy, bình chương sự ( gọi chung là tam công cửu
khánh).
 Các bộ :
Thời Lý:
3 bộ: bộ lại, bộ binh, bộ hình
Thời Trần: lục bộ: bộ lễ, bộ lại, bô hình, bộ hộ, bộ binh, bộ công
→ Các cơ quan chuyên môn:
Chính quyền địa phương:
Nhà TIỀN – LÊ: Lộ=> Phủ=>Châu=>Hương ( giáp) => Xã.
Nhà Lý: Lộ ( 24) => Phủ=>Huyện=>Hương=>Giáp=>Thôn. Miền núi và khu vực
xa trung tâm các khu vực hành chính chia thành châu, trại.
Nhà Trần: Lộ ( 12) =>Phủ=> Châu=> Huyện=>Xã



Tổ chức quân đội:
Nhà TIỀN Lê: tổ chức quân cấm vệ gồm 3000 người, trên trán thích 3 chữ, “ Thiên
tử quân ”.
Thời Lý: - Trần: Quân đội bao gồm: quân cấm vệ, quân ở cấp lộ, ngoài ra còn có
quân đội của nhà vua. Nghĩa vụ binh dịch được đặt ra với chế độ đăng kí hộ khẩu
và tuyển chọn binh lính chặt chẽ. Nhà nước thực hiện chính sách “ Ngụ binh ư
nông ” đối với quân ở lộ. Quân đội phân chia thành các binh chủng: bộ binh, thủy
binh, kị binh,...có các vũ khí mới: máy bắn đá, súng thần cơ,...Chú trọng việc luyện
binh, đào tạo võ quan, mở giảng võ đường.
 kết luân: Thời Lê tổ chức bộ máy nhà nước nhìn chung còn đơn giản, tổ chức
hoạt động cung chế độ quan lại chưa được quy định rõ ràng, chặt chẽ. Bộ máy nhà
nước thới Lý – Trần tập trung quyền lực vào tay nhà Vua nhiều hơn, củng cố và
hoàn thiện bộ máy nhà nước hơn, tổ chức quân đội mạnh và trình độ kĩ thuật chiến
đấu cao.
Câu 10: So sánh bộ máy nhà nước qua các bản hiến pháp ( 1946 với 1959 và
1980 với 1992 ( sửa đổi bổ sung 2001) .
So sánh bộ máy nhà nước 1946-1959:
Nội dung so sánh
Trung ương

HIẾN PHÁP 1946
Nghị viện do nhân dân cả nước
bầu ra có nhiệm kì 3 năm. Hp
không quy định cụ thể nhiệm vụ
quyền hạn của Nghị viện mà chỉ
quy định 1 cách chung chung.

HIẾN PHÁP 1959
Quốc hội do toàn dân bầu có
nhiemj kì là 4 năm, nhiệm vụ và

quyền hạn của Quốc hội được
quy định cụ thể, chi tiết hơn so
với Hiến pháp 1946.

Vị trí pháp lý của Quốc hội: cơ
quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nhân dân thể hiện
quyền lập hiến, lập pháp

Vị trí pháp lý của Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nhân dân.

Vai trò của chủ tịch nước:
có nhiều quyền hạn, là một chế
định hết sức độc đáo, được đánh
giá là mạnh mẽ nhất so với văn
bản Hiến pháp sau này.

Địa phương

TAND và VKSND

Chính phủ là cơ quan hành chính
cao nhất của cả nước.
Có sự phân biệt cấp chính quyền
hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh.
Phân biệt được địa bàn nông
thôn và đô thị
Tổ chức theo cấp xét xử. Hiến


Cơ quan đại diện của nhân dân
Chủ tịch nước không cong trong
chính phủ, được tách ra thành
chế định riêng
Là cơ quan chấp hành, cơ quan
hành chính cao nhất của nhà
nước.
không phân biệt

Tổ chức theo hành chính lãnh


pháp 1946 không có VKS chỉ có
viện công tố của tòa án
Chế độ thẩm phán. Thẩm phán
do bổ nhiệm

thổ. Hiến pháp 1959 lần đầu tiên
ra VKS có chức năng kiểm sát
chung và kiểm sát các hoạt động
của tư pháp .
Thẩm phán bầu.

So sánh bộ máy nhà nước 1980- 1992 ( sửa đổi 2001)
Nội dung so sánh
Quốc hội

Chủ tịch nước


Chính phủ

HIẾN PHÁP 1980
Nhiệm kì 5 năm do nhân dân bầu
ra

HIẾN PHÁP 1992
Quốc hội do nhân dân bầu ra,
mang quyền lực nhân dân.

Là một mô hình Quốc hội toàn
quyền, Quốc hội lập ra hội đồng
bộ trưởng .

Nhiệm kì 5 năm, nhiệm vụ và
quyền hạn không có toàn quyền
so với năm 80 nữa.

Thành lập cơ quan mới là hội
đồng nhà nước, đây là cơ quan
hoạt động thường xuyên của
Quốc hội
Không có chủ tịch nước mà là hội
đồng nhà nước vừa là cơ quan
cao nhất hoạt động thường
xuyên của Quốc hội, vừa là chủ
tịch tập thể của nhà nước
CHXHCNVN.
HĐBT là cơ quan chấp hành và
hành chính cao nhất của cơ quan

quyền lực nhà nước

Bỏ thiết chế hội đồng nhân dân,
khôi phục lại chế định ủy ban
thường vụ Quốc hội và chế định
Chủ tịch nước .
Chủ tịch nước là một cá nhân
được quy định thành một chế
định riêng biệt như hiến pháp
1959

Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân

Quy định nước ta có 3 cấp hành
chính đó là: cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và cấp
tương đương có huyện, quận,
thành phố trực thuộc tỉnh và thị
xã có xã, phường, thị trấn, khu
tự trị đã được bãi bỏ nhưng lập
thêm đơn vị hành chính đặc khu

Tòa án nhân dân và viện kiểm sát
nhân dân

Trong hệ thống tòa án nhân dân
chỉ có tòa hình sự và tòa dân sự.
Viện kiểm sát có thêm chức năng
công tố

Thẩm phán bầu

Quyền hạn không lớn
Chính phủ là cơ quan chấp hành
của cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất và là cơ quan hành
chính cao nhất.
Duy trì các quy định của luật tổ
chức HĐND và UBND năm 1989
về thành lập HĐND ở cấp tỉnh
( thành phố trực thuộc trung
ương ) và cấp huyện ( quận,
thành phố thuộc tỉnh,) thành lập
ban của HĐND. Đồng thời quyền
hạn của Chủ tịchủy ban nhân dân
củng được tăng cường.
Đã có thêm tòa án nhân dân tối
cao và ở cấp tỉnh còn có thêm
tòa kinh tế, tòa lao động và tòa
hành chính
Bỏ chức năng kiểm sát chung.
Thẩm phán bổ nhiệm


Câu 11, Cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông.
- Mục tiêu: củng cố và hoàn thiện 1 bước nền quân chủ chuyên chế pk và
nâng cao hiệu quả h/đ của BMNN
- Biện pháp:
+ bỏ bớt các chức quan, cơ quan và cấp chính quyền trung gian đảm bảo sự
tập trung quyền lực vào tay vua

+ các cơ quan giám sát, kiểm soát lẫn nhau để loại trừ sự lạm quyền và nâng
cao trách nhiệm
+ không để tập trung quá nhiều quyền hành vào một cơ quan nhằm ngăn
chặn sự tiếm quyền
- Cải cách chính quyền TW:
+ Năm 1465, đổi lục bộ thành lục viện, mỗi viện do thượng thư đứng đầu và
đổi tên các khoa cho phù hợp với lục viện. lục viện có nhiệm vụ chia nhau
trông coi và thi hành mọi công việc trong nước, lục khoa kiểm soát h/đ của
lục viện.
+ năm 1466, lại đổi lục viện thành lục bộ và đạt them lục tự để phụ trách
những công việc phụ không thuộc quyền hạn chức năng của lục bộ
+ lập thêm các cơ quan chuyên môn như Ngự sử đài, quốc tử giám,..
- Cải cách chính quyền đp: bãi bỏ một số đơn vị hành chính là trấn và lộ. qua
cuộc cải tổ này nước ta có các cấp hành chính là cấp đạo- xứ, cấp phủ, cấp
huyện- châu
+ cấp đạo xứ: thực hiện ba biện pháp
1, chia cả nước thành các đạo nhỏ
2, không để quyền lực tập trung vào tay một người mà tản ra ba cơ quan
( tam ty)
3, giám sát chặt chẻ các đạo
+ cấp phủ: truyền lệnh từ trên xuống cho các huyện châu, đóc thuc và kiểm
tra việc thi hành, đôn thúc thu nộp thuế khóa, đặc biệt ở cấp phủ có chức hà
đê sứ và khuyến nông sứ
+ cấp huyện châu: trong nom đê điều, khuyến nông, đôn thúc dân bồi đắp
ruộng chứa nc để làm vụ mùa chiêm. ở cấp châu, nhà vua tranh thủ các tù
trưởng đphương giúp củng cố quốc gia thống nhất, mở rộng ảnh hưởng của
triều dình đến các vùng miền núi.
- Cải cách tổ chức quân đội:
+ chế độ tuyển binh chặt chẽ, chia làm 5 hạng rõ rang
+ thực hiện c/s “ ngụ binh ư nông” , quân sĩ luân phiên nhau, 1 nửa tại ngũ,

1 nửa về nhà làm ruộng
+ chế độ luyện tập cũng dc quy chế hóa theo từng binh chủng. LTT định lệ 3
năm 1 lần khảo hạch võ nghệ quân sĩ
+ LTT không đặt chức Thái úy mà tự mình thâu tóm quyền tổng chỉ huy
quân đội
+ các cơ quan, lực lượng quân sự đều phải chịu sự chi phối đa chiều, chịu sự
quản lý từ nhiều phía, giám sát lẫn nhau, không cơ quan nào giữ nhiều


quyền hành => thể hiện nguyên tắc quan liêu, nhằm tang cường cao độ
quyền lực quân sự của nhà vua.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×