Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Ôn thi Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.19 KB, 29 trang )

Ôn thi lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam
Câu 1: Phân tích điều kiện ra đời và đặc trưng nhà nước Văn Lang- Âu Lạc
1)

Cơ sở kinh tế

_ Kinh tế : 500 – 700 năm TCN, xuất hiện công cụ kim loại, 3 lần phân công lao
động
=> KT Pt mạnh, xuất hiện tư hữu về TLSX, tuy nhiên với nền KT chủ yếu là nn,
ruộng đất vẫn là của chung.
Vào đầu thời kì Hùng Vương tương ứng với giai đoạn Phùng Nguyên, công cụ
bằng đá vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế vì lúc này đồng còn rất hiếm và thường để chế
tác đồ trang sức. Săn bắn,
hái lượm vẫn là chủ yếu; trong trồng trọt vẫn phổ biến là làm nương rẫy.
Trải qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, nhất là Đông Sơn do công cụ bằng đá
được thay thế dần bằng công cụ bằng đồng thau và bắt đầu xuất hiện công cụ bằng
sắt, nền kinh tế bao gồm nhiều ngành nghề càng phát triển:
-Về trồng trọt: cư dân hậu kì thời đại đồ đồng và sơ kì thời đại đồ sắt đã mở rộng
địa bàn cư trú tràn xuống chinh phục vùng đồng bằng bắc bộ và bắc trung bộ.Cây
trồng chủ yếu là lúa nước, nghề trồng rau củ, cây ăn quả tiếp tục phát triển.
-Chăn nuôi cũng được đẩy mạnh theo đà của trồng trọt
-Nghề thủ công phát triển mạnh:làm đồ gốm ngày càng theo hướng thực dụng,
nghề dệt khá phổ biến, nghề đúc đồng xuất hiện từ đầu thời Hùng Vương và đạt
đỉnh cao ở giai đoạn Đông Sơn.
Tóm lại trong khoảng 2000 năm TCN sức sản xuất và nền kinh tế thời đại Hùng
Vương từ chỗ còn mang dáng dấp kinh tế tự nhiên nguyên thủy ở giai đoạn đầu trải
qua những bước phát triển lâu dài đến giai đoạn cuối đã có những biến đổi lớn
chuyển dần sang nền kinh tế sản xuất là chủ yếu.
1



_ XH : Khi tư hữu xuất hiện :
+,phân hóa gc giàu nghèo nhưng k gay gắt
+, Các thị tộc bộ lạc tách ra thành các gđ nhỏ
+, các gđ nhỏ gần nhau hình thành làng xã
Sự phát triển của sức sản xuất và kinh tế gây nên những biến đổi trong kết cấu xã
hội và tạo ra sản phẩm thặng dư trong xã hội, từ đó tác động trực tiếp đến phân hóa
xã hội.
-Cuối thời Hùng Vương, những gia đình nhỏ đã ra đời và trở thành tế bào kinh tế
xã hội, sự chuyển biến từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ. Sự định hình các gia đình
nhỏ đã đưa đến những hệ quả quan trọng:
+ Gia đình nhỏ là đơn vị kinh tế, tự làm lấy mà sống không thể ỷ lại vào cộng đồng
giđình lớn như trước kia. Điều này kích thích tinh thần và tăng năng suất lao động,
góp phần to lớn vào việc thúc đẩy nền kinh tế của xã hội phát triển.
+ Gia đình nhỏ là đơn vị kinh tế đồng thời là đơn vị tư hữu và tích tụ tư hữu.
- Sự hình thành và tồn tại bền vững của công xã nông thôn với chế độ sở hữu
chung về ruộng đất: công xã nông thôn dựa theo quan hệ láng giềng, ruộng đất tuy
vẫn thuộc sở hữu chung của công xã nhưng dược phân chia cho các thành viên
công xã cày cấy và các thành viên công xã dược quyền sở hữu sản phẩm lao động
của mình. Đặc thù này đưa đến 2 hệ quả lớn:
+Ruộng đất trong công xã nông thôn tuy vẫn thuộc sở hữu chung nhưng được phân
phối cho các thành viên sử dụng nên đã thúc đẩy năng suất lao động, dẫn đến sự
hình thành tư hữu và tích tụ tài sản.
+ Ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản nhưng không được tư hữu hóa nên đã kìm
hãm sự phát triển của chế độ tư hữu, làm cho quá trình phân hóa xã hội diễn ra
chậm chạp và không sâu sắc.
- Về sản phẩm thặng dư trong xã hội: trong điều kiện tài nguyên phong phú, đất đai
phì nhiêu của vùng châu thổ, nhất là với công cụ bằng kim loại vào cuối thời Hùng
2



vương, con người có thể đạt năng suất lao động cao hơn nhiều so với trước, không
chỉ làm ra được sản phẩm đủ nuôi sống họ hàng ngày mà có cả sản phẩm để dành.
Cuối thời Hùng Vương là giai đoạn sơ kì của sự phân hóa giai cấp, trong xã hội đã
hình thành các giai tầng:
+ Thứ nhất là quý tộc: họ vốn là con cháu của các thủ lĩnh liên minh bộ lạc, tộc
trưởng thị tộc cùng gia đình họ. Họ có quyền thế tập địa vị và quyền lợi của cha
ông. Lợi dụng địa vị, chức năng mà cộng đồng trao cho mình, họ chiếm 1 phần sản
phẩm thặng dư trong xã hội, biến sự đóng góp vì lợi ích chung của cộng đồng
thành hình thức bóc lột người sản xuất…dần dần nắm trong tay nhiều của cải và
quyền lực.
+ Thứ 2 là nông dân công xã nông thôn chiếm đa số trong xã hội, giữ vai trò lực
lượng sản xuất chủ yếu.
Như vậy cuối thời đại Hùng Vương sự phân hóa xã hội tuy chưa cao nhưng cùng
với sự phát triển kinh tế đã tạo nên tiền đề vật chất cần thiết cho khả năng ra đời
của nhà nước.
_ Nhu cầu trị thủy : nền KT nn là chủ yếu, sống nd chủ yếu sống ở vùng hạ lưu
sông hồng, nước chảy mạnh, thường xuyên lũ lụt => nc về trị thủy và làm thủy lợi
=> cần nhiều sức ng => cần ng lãnh đạo, chỉ huy => xhien nhóm ng lãnh đạo.
_ Nhu cầu tự về và chống giặc ngoại xâm : Chức năng đối ngoại hàng đầu của các
tộc ng là mở rộng lãnh thổ, VN nằm trong vùng “ bình Bách việt ” của TQ => cần
số lg ng lớn để đi xâm lược, tự vệ cũng như chống giặc ngoại xâm => Cần sự lãnh
đạo, chỉ huy => xh nhóm ng lãnh đạo.
Nhà nước ra đời trong trạng thái phân hóa xã hội chưa tới mức độ sâu sắc như
những nước khác. Nói cách khác, nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời gian và
không gian là do 2 yếu tố tự vệ và trị thủy-thủy lợi thúc đẩy .
-Cuối thời đại Hùng Vương, dân cư tràn xuống chinh phục các vùng đồng bằng
châu thổ của các con sông lớn và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước nên công
3



cuộc trị thủy-thủy lợi giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
-Vị trí địa lí của nước ta nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên
nên yếu tố tự vệ chống lại các thế lực đe dọa từ bên ngoài ngày càng trở nên bức
thiết.
-Vai trò thúc đẩy của tự vệ và trị thủy-thủy lợi được thể hiện cụ thể ở 2 mặt sau:
+Cơ cấu tổ chức trong chế độ công xã nguyên thủy không thể đảm đương nổi công
việc lớn lao trị thủy-thủy lợi và tự vệ mà đòi hỏi phải có 1 loại cơ cấu tổ chức mới
khác hẳn, đó là nhà nước. Bởi vì nhà nước có những ưu thế cơ bản hơn hẳn tổ chức
công xã nguyên thủy: Nhà nước là cơ cấu tổ chức rộng lớn bao trùm toàn xã hội và
chặt chẽ nhất, nhà nước có biện pháp đặc trưng là cưỡng chế, có phương tiện tổ
chức và quản lí đặc trưng là pháp luật. Vì vậy nhà nước có khả năng huy động lực
lượng lớn sức người sức của và tổ chức chỉ đạo 1 cách có hiệu quả công cuộc đấu
tranh để tự vệ , công cuộc trị thủy-thủy lợi.
+Trên con đường hình thành nhà nước, các thủ lĩnh của các cộng đồng dân cư lợi
dụng
địa vị, chức năng của mình để chiếm đoạt 1 phần của cải do các thành viên đóng
góp làm việc
công ích thành tài sản riêng, nên việc huy động sức người sức của tổ chức chỉ đạo
đấu tranh tự
vệ, trị thủy- thủy lợi trở thành cơ hội lớn thuận lợi cho các thủ lĩnh chiếm đoạt tài
sản công nâng cao địa vị, quyền hạn, qua đó cũng thôi thúc sự ra đời sớm của nhà
nước.
2 Nc trên đã hình thành 1 lực lượng đứng ra tổ chức, quản lí và điều hành số lượng
ng đông đảo trong xh được huy động để phục vụ 2 nc trên. Nhóm ng này dần kiêm
nhiệm thêm những việc khác và tổ chức, quản lí mọi vđề trong đsxh. Tách biệt
thành gc riêng trong xh => nn hình thành.

4



Câu 2: Phân tích cơ sở hình thành và phát triển của nhà nước và pháp luật
Phong kiến Việt Nam.
1 ) Sở hữu
1.1. Sở

hữu công

Thứ nhất,về chính trị , việc xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà nước (mà đại diện
là nhà vua) đối với đất đai nhằm khẳng định chủ quyền, sự độc lập,toàn vẹn lãnh
thổ của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với các nước láng giềng. Mặt khác,
nhà nước phong kiến Việt Nam mang đầy đủ đặc trưng của một nhà nước quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền nên việc nắm giữ đất đai-tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội trong tay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và củng cố bộ
máy chính quyền phong kiến từ trung ương tới địa phương.
Thứ hai, về kinh tế, nghề trồng lúa nước xuất hiện ở nước ta từ rất sớm và đóng vai
trò là một ngành sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế
của phương thức canh tác lại phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Để khắc phục sự tàn
phá của thiên nhiên đối với sản xuất nông nghiệp như thiên tai, dịch bệnh thì việc
xây dựng, tu bổ hệ thống thủy lợi, đê điều đóng vai trò vô cùng quan trọng. Với
chức năng quản lý xã hội các nhà nước phong kiến sẽ tổ chức các cuộc khai hoang
cẩn hóa các vùng đất mới, đắp đê xây dựng các hệ thống thủy lợi. Với ý nghĩa đó,
mỗi mảnh đất mà người nông dân canh tác đều hàm chứa sức đầu tư của nhà nước.
1.2. Sở

hữu tư nhân

Sở hữu tư nhân trong thời kỳ phong kiến bị hạn chế và luôn bị sự chi phối lớn
quyền sở hữu tối cao của nhà nước. Sở hữu tư nhân về ruộng đất bao gồm:
1. Sở hữu lớn của quan lại, quý tộc được nhà nước ban cấp ruộng đất.
2. Sở hữu nhỏ của những người nông dân do có sức lao động, có quyền mua ruộng

đất và tích lũy đất đai.
5


Do sự phát triển của sở hữu tư nhân ngày càng lớn mạnh, nhà nước không chỉ thừa
nhận mà còn có các chính sách bảo vệ quyền sở hữu đất đai của giai cấp địa chủ,
phong kiến rất chặt chẽ. Các hành vi xâm chiếm hoặc bán trộm đất đai sẽ bị trừng
trị rất nặng.
Chế độ sở hữu tư nhân:
Nguồn gốc của ruộng đất tư khá đa dạng bao gồm mua bán, khai hoang, nhà
nước ban cấp hoặc do chấp chiếm biến công vi tư. Xét về quy mô, do tập quán chia
đều ruộng đất thừa kế cho các con và chính sách giới hạn tích tụ ruộng đất tư của
nhà nước, sở hữu tư nhân Việt Nam thời phong kiến luôn dừng ở mức nhỏ và vừa.
Ruộng đất tư chỉ bao gồm đất ở và đất canh tác và không có sự tập trung tại một
địa bàn mà thưởng xen kẽ với ruộng đất thuộc sở hữu công. Dù thừa nhận quyền sở
hữu ruộng đất tư song nhà nước luôn tìm cách can thiệp vào sở hữu tư nhân.
Như vậy, từ thế kỉ X tới giữa thế kỉ XIX, nhà nước phong kiến Việt Nam được
hình thành và phát triển trên chế độ sở hữu đa hình thức trong đó sở hữu công giữ
vai trò chủ đạo
Tính chất của nền kinh tế:


Chú trọng phát triển nông nghiệp tự cấp tự túc.



Ở Việt Nam, nhà nước phong kiến chỉ chú trọng phát triển kinh tế nông
nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp luôn bị kiềm chế. Do manh mún
trong chế độ sở hữu và chiếm hữu mộng đất nên nông nghiệp được canh tác
theo hộ gia đình, năng suất lao động thấp




Thủ công nghiệp, thương nghiệp tiếp tục bị khống chế khi triều Nguyễn bế
quan, toả cảng. Với nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc, Việt Nam thời phong
kiến không xuất hiện những thế lực có tiềm năng kinh tế lớn đe doạ tới
chính quyền trung ương và làm cho sự cách biệt giữa các tầng lớp xã hội

6


không quá lớn, tính giai cấp của nhà nước và pháp luật do vậy cũng không
sâu sắc.
2) Cơ sở xã hội
2.1 Cơ cấu giai cấp
Xã hội Việt Nam có 2 giai cấp cơ bản là địa chủ phong kiến và nông dân.
- Địa chủ phong kiến gồm 2 bộ phận :
+) Địa chủ quý tộc quan liêu thưởng có nguồn gốc từ hoàng tộc và quan chức
trong bộ máy nhà nước. Do chính sách đãi ngộ của nhà nước phong kiến, quý tộc,
quan liêu dần được địa chủ hoá. +) Địa chủ bình dân: Thưởng có nguồn gốc từ thợ
thủ công, thương nhân, nông dân tự canh… sống rải rác ở các làng xã.
- Nông dân: Ở Việt Nam, ngoài nông dân lĩnh canh còn có một bộ phận đáng kể
nông dân tự canh

2.2 Quan hệ đẳng cấp ở Việt Nam rất phức tạp.


Theo địa vị xã hội, thời phong kiến ở VN có 2 đẳng cấp quý tộc: quan liêu và
bình dân.




Theo tiêu chí nghề nghiệp, xã hội được phân định thành 4 đẳng cấp: sĩ, nông,
công, thương.



Theo tập quán làng xã, xã hội có 2 đẳng cấp chính cư và ngụ cư; quan viên và
dân hàng xã.

Dù cơ cấu đăng câp được phân định theo các tiêu chí khác nhau song quan hệ giữa
các đẳng cấp khá nổi trội, thân phận, địa vị của các đẳng cấp được phân biệt khá
rõ.

7


Cơ cấu, quan hệ giai cấp, đẳng cấp có nhiều điểm đặc biệt đã tác động lớn tới
nhà nước pháp luật phong kiến Việt Nam:
- Góp phần xác lập nhà nước quân chủ tập quyền phát triển theo xu hướng chuyên
chế.
- Buộc nhà nước phải ban hành nhiều chính sách phát huy thế mạnh đồng thời
kiềm chế những tác động tiêu cực của quan hệ giai cấp, đẳng cấp tới đời sống nhà
nước và pháp luật.
- Tạo nên bản chất củanhà nước và pháp luật không quá sâu sắc về tính giai cấp
nhưng có phần nổi trội về tính xã hội.

3. Hệ tư tưởng chính trị pháp lý và đường lối cai trị nhà nước phong kiến VN

1.


Nho giáo là học thuyết chính trị – đạo đức

Nội dung cơ bản về đạo đức của Nho giáo trong hơn 2000 năm phát triển là Ngũ
luân và Ngũ thường (luân thường). Vì vậy, Nho giáo rất chú trọng tới việc tu thân
theo đạo luân thường và coi đó là gốc của chính trị. Tu thân là để tề gia, để thiêt lập
trật tự gia đình gia trưởng phong kiến làm cơ sở cho đạo trị quốc và là tiền đề cho
trật tự xã hội. Như vậy, đạo đức Nho giáo đã xác lập chế độ tông pháp gia trưởng
làm cơ sở cho chế độ quân chủ chuyên chế.
Các triều đại phong kiến Việt Nam đều xuất phát từ tư tưởng nho giáo để xây
dựng các thiết chế nhà nước và pháp luật và hoạch định đường lối cai trị của mình.
Dưới thời Nguyễn vua Thiệu Trị đưa ra bốn phương châm cai trị là: Kính thiên,
Pháp tổ Cần chính, Ái dân.
2. Tư tưởng pháp trị

8


Là học thuyết cai trị ra đời ở Trung Quốc từ thời kì Xuân thu – Chiến quốc, với
ba yếu tố Pháp, Thế, Thuật, nội dung cơ bản của học thuyết pháp trị thể hiện ở
những điểm chính yếu sau:
- Dùng pháp luật làm công cụ trị nước, pháp luật phải phù hợp với điều kiện xã
hội, thực thi pháp luật phải nghiêm minh và công khai, mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật.
-Bậc làm vua phải củng cố địa vị độc tôn và đề cao uy quyền, phải thâu tóm toàn
bộ quyền lực nhà nước để bảo đảm cho pháp luật được thi hành.
- Bậc làm vua phải có thuật cai trị như thuật dùng người, thuật kiểm tra giám sát,
thuật thưởng phạt…
Tư tưởng pháp trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc xây dựng các thiết chế Nhà
nước và pháp luật và hoạch định đường lối cai trị của Nhà nước phong kiến Việt

Nam.
3. Tư tưởng từ bi hi xả của đạo Phật

Đạo Phật được truyền bá vào nước ta từ đầu Công nguyên và đến thế kỉ II, ở
Việt Nam đã có tổ chức tăng đoàn và chùa tháp. Tư tưởng luân hồi, giải thoát và từ
bi hỉ xả của đạo Phật gần gũi với tín ngưỡng và nguyện vọng của cư dân Việt. Vào
đầu thời kì phong kiến độc lập, với xu thế giải Hán hoá, đạo Phật có vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị-tín ngưỡng của các triều đại phong kiến Việt Nam,
giúp các triều đại thống nhất được tín ngưỡng, thống nhất nhân tâm – điều kiện cần
thiết để thống nhất đất nước, xây dựng nhà nước tập quyền. Ảnh hưởng củađạo
Phật tới thiết chế Nhà nước và pháp luật của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần
thể hiện ở các lĩnh vực sau:
- Có các chức tăng quan trong triều đình.
- Các cao tăng tham gia vào chính sự, họ là chỗ dựa tinh thần và là cố vấn quốc sự
của nhà vua. Sử sách đã lưu danh nhiều vị sư như sư Vạn Hạnh đã góp phần đưa
9


Lý Công uẩn lên ngôi vua; sư Đa Bảo được Lý Thái Tổ mời đến triều đình tham
gia “quyết định chính sự”; quốc sư Viên Thông thưởng được Lý Thần Tông hỏi về
các lẽ hưng vong bi loạn và được di chiếu phó thác các việc, khi triều kiến vua
được ngang hàng với Thái tử.
- Tư tưởng từ bi hỉ xả, bác ái, vị tha của đạo Phật đã góp phần hình thành chính
sách cai trị thân dân của nhà Lý, nhà Tràn.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực chính trị còn ở mức hạn chế
bởi giáo lí đạo Phật không thể là học thuyết chính trị pháp lí của nền quân chủ
phong kiến.
4.

Các tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam

Hình thành từ thực tiễn phát triển của lịch sử Việt Nam, tư tưởng chính trị

pháp lí làng xã cổ truyền bao gồm: Tư tưởng tự trị-tự quản, tư tưởng trọng lệ hơn
trọng luật, tư tưởng lão quyền, tư tưởng, tộc quyền và tư tưởng địa vị quan liêu. Tư
tưởng chính trị-pháp lí làng xã là tư tưởng phi chính thống, nó vừa có mặt mâu
thuẫn song lại có mặt thống nhất với tư tưởng chính trị-pháp lí chính thống và có
ảnh hưởng đáng kể tới quá trình hình thành và phát triển của các thiết chế Nhà
nước và pháp luật phong kiến Việt Nam. Bộ máy tự trị-tự quản làng xã và công cụ
quản lí của nó là hệ thống lệ làng dưới hình thức hương ước được nhà nước phong
kiến thừa nhận là một minh chứng cụ thể.
Đồng thời với các tư tưởng truyền thống, cấu trúc xã hội truyên thống “nhà –
làng – nước” đã góp phần hình thành thế ứng xử chính trị hoà đồng, mềm dẻo giữa
làng và nước.
Như vậy, hình thành trên cơ sở kinh tế-xã hội có những đặc trưng riêng và luôn
có sự tương tác giữa tư tưởng chính trị-pháp lí chính thống với các tư tưởng chính
trị-pháp lí truyền thống và phi chính thống khác, đường lối cai trị của Nhà nước
phong kiến Việt Nam là đường lối cai trị kết hợp giữa đức trị với pháp trị.
10


Câu 3: Trình bày những nội dung cơ bản và ý nghĩa của bộ Quốc triều hình
luật
1)

Nội dung cơ bản của bộ Quốc triều hình luật

Bộ quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hình chính
thống được hoàn chỉnh ở triều đại Lê Thánh Tông (Hồng Đức) thế kỉ 15, là bộ luật
cổ bằng chữ Hán còn lưu giữ được tương đối đầy đủ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(Hà Nội). Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với

722 điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:
1.

Cách tân về tổ chức bộ máy chính quyền
Cách tân sâu sắc về hành chính, về quân sự, và về pháp luật làm cho hoạt

động của bộ máy nhà nước được khôi phục và ngày càng có hiệu lực, đưa đất nước
đi dần vào thế ổn định và kế đó là tạo đà phát triển đi lên một cách vững chắc.
Cải tạo bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương. Đời Trần chỉ có
4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Lợi chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ).
Nhà Lê tổ chức thành sáu bộ:Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công
2.

Giữ cho đất nước luôn ở thế phòng bị đối với quan xâm lược nước ngoài

Trong bộ luật Hồng Đức có nhiều điều quy định rõ trách nhiệm bảo vệ đường biên,
vùng biển, cửa quan. Các hành vi xâm phạm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ bị trừng
trị nghiêm khắc. Trong Bộ luật Hồng Đức có nhiều điều quy định rõ về việc xử
phạt đối với các hành vi ấy. Ví dụ: "Người trốn qua cửa quan ra khỏi biên giới đi
sang nước khác thì bị chém" (đ.71) hoặc "Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho
người nước ngoài thì bị chém" (đ.74).
3.

Giữ nghiêm kỷ cương phép nước

11


Người xưa có nói: "Mọi sự rối loạn đều bắt đầu từ sự rối loạn về kỷ cương.
Giữ nghiêm kỷ cương là phải giữ gìn từ những kỷ cương hàng ngày, từ những điều

tưởng chừng như là nhỏ nhặt nhất. Kỷ cương nhỏ nhặt nhất không giữ được thì làm
sao giữ nổi kỷ cương phép nước".
Đề cao trách nhiệm của quan lại. Các quan viên là những người gân guốc
của xóm làng nhờ đó mà chính được phong tục. Vậy phải lấy lễ, nghĩa, liêm, sĩ mà
dạy dân khiến cho dân xu hướng về chữ nhân, chữ nhượng, bỏ hết lòng gian phi,
để cho dân được an cư, lạc nghiệp, giàu có đông đúc, mình cũng được tiếng là
người trưởng giả trong làng.
4.

Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định
kinh tế xã hội
Trước hết, trong việc cải cách hành chính, đặt ra các cơ quan chuyên trách

về việc chấn hưng nông nghiệp như đặt ra bốn cơ quan mới: Sở tầm tang chuyên
chăm lo khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa; Sở thực thái chuyên lo việc
trồng rau; Sở điền mục chuyên lo việc chăn nuôi gia súc, gia cầm và Sở đồn điền
chuyên lo việc ruộng đất. ông còn đặt thêm chức quan mới: Quan Hà đê để chăm
lo việc đắp đê, hộ đê, phòng chống bão lụt.
Đặc biệt coi trọng việc đắp đập, tu sửa đê điều để đề phòng bão lụt. Trong
Bộ luật Hồng Đức có hai điều quy định khá tỷ mỉ về vấn đề này.
5.

Mở rộng giao lưu khuyến khích thương nghiệp lành mạnh
Để tạo thuận tiên cho việc mua bán, lẽ dĩ nhiên phải có nơi buôn bán. Các

chợ được mở mang nhiều. ở các xã lớn hoặc mấy xã ở gần nhau thường có một chợ
chung, họp hàng ngày..

12



Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông
nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải,
nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển.
6.

Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, trừng trị nghiêm khắc những
hành vi ức hiếp, đục khoét dân lành của quan lại
Cải cách pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất, là cái quyền gốc cho

việc thực hiện các quyền tiếp theo đảm bảo quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc cho người nông dân.
Trong Bộ luật Hồng Đức đã có những điều luật quy định việc trừng phạt
những hành vi vi phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt ruộng đất
của người nông dân như: Tranh giành đất đai trái với chúc thư (đ.354), nhận bừa
ruộng đất của người khác (đ.344), hà hiếp, bức hại để mua ruộng đất của người
khác (đ.355), tá điền cấy rẽ mà trở mặt ăn cướp (đ.356), xâm lấn bờ cõi ruộng đất,
nhổ bỏ giới mốc (đ.357)….
Bộ luật Hồng Đức còn có cả những điều quy định nhằm bảo vệ quyền sở
hữu ruộng đất cho trẻ em và người già như: "Chồng chết con còn nhỏ, vợ tái giá
mà bán điền sản của con (đ.377), cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản (đ.378),
người trong họ tự tiện bán ruộng của đứa cháu mồ côi (đ.379) đều bị xử phạt".
7.

Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ
Triều Lê là một triều đại trọng Nho giáo, tức là những quy định khắt khe của

Nho giáo với người phụ nữ như “tam tòng tứ đức” được coi trọng. Tuy nhiên trong
bộ luật đương thời của triều đình cũng có một số điều luật được coi là cách tân bảo
vệ quyền lợi người phụ nữ.

8.

Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục
Trong Bộ luật Hồng Đức còn có những điều đặt ra với mục đích để bảo vệ

thuần phong mỹ tục.
13


Ví dụ: Để khuyến khích tình thương yêu đồng loại, đồng tộc, đồng bào trong Bộ
luật Hồng Đức có quy định các điều luật như: "Thôn, phường phải giúp đỡ kẻ ốm
đau không nơi nương tựa, phải chôn cất những người chết đường (đ.294)"; "Phải
chăm sóc người cô quả tàn tật không nơi nương tựa (đ.295), bắt được trẻ lạc phải
báo quan (đ.604)", có người chết đường, dân sở tại phải chôn cất (đ.607).
9.

Chính sách hình sự nghiêm nhưng độ lượng
Tính nghiêm minh trong chính sách hình sự ở Bộ luật Hồng Đức trước hết

được thể hiện ở chỗ các tội ác nào được coi là tội nặng. Các tội được gọi là "tội ác"
gồm có 10 loại: "Thập ác" bao gồm: Mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối,
ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn.
Như vậy theo chính sách hình sự của nhà vua Lê Thánh Tông đã được thể
hiện trong Bộ luật Hồng Đức thì ngoài các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia,
xâm phạm đến quyền lợi của Nhà Vua, thì các loại tội xâm phạm đến thuần phong
mỹ tục như: Bất đạo, bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân cũng được
coi là những tội ác, thường bị xử phạt với hình thức cao nhất là tử hình.
2)

Ý nghĩa của bộ Quốc triều hình luật


Nghiên cứu các bộ luật cổ của Việt Nam, chúng ta đã kế thừa và có thể tham khảo
được một số kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp So với trước đây, kỹ thuật lập pháp
ngày nay đã có những bước phát triển vượt bậc. Đó là sự phát triển trên cơ sở kế
thừa và liên tục bổ sung những kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp của những thế hệ
đi trước. Nghiên cứu vấn đề này qua các bộ luật cổ của Việt Nam, có thể thấy vào
thời đó, mặc dù chưa có một hệ thống lý thuyết như ngày nay, nhưng các nhà làm
luật đã sử dụng những kỹ thuật lập pháp khá tiến bộ và hiệu quả, được thể hiện qua
những vấn đề sau:

14


Thứ nhất, để xây dựng những bộ luật tổng hợp có quy mô lớn, phạm vi điều
chỉnh rộng, theo ý chỉ của vua, các nhà làm luật đã nghiên cứu để phân chia và sắp
xếp các điều luật thành môn loại.
Thứ hai là cách tổ chức và thể hiện các quy phạm pháp luật. Trong thời quân
chủ, khái niệm quy phạm pháp luật chưa được sử dụng như ngày nay. Tuy nhiên,
hầu hết các điều luật trong những bộ luật cổ đều đã được tổ chức và thể hiện như
một quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, gồm 3 thành phần cơ bản là giả định, quy
định và chế tài.
Giá trị về tính tiến bộ và tính nhân văn sâu sắc, thể hiện qua những vấn đề cụ thể
sau đây
- Thứ nhất, các bộ luật có nhiều quy định nhằm hạn chế và xử phạt những hành vi
tham nhũng của quan lại và gián tiếp bảo vệ một số quyền lợi chính đáng của
người dân.
- Thứ hai, là một nước nông nghiệp, nên các bộ luật cổ đều có nhiều quy định
nhằm bảo vệ sức lao động, sức kéo và bảo vệ đê điều
- Thứ ba, các bộ luật cổ Việt Nam đều có những quy định mang tính nhân văn
như: bảo vệ người già và trẻ em; giúp đỡ những người tàn tật, cô qủa, những người

có hoàn cảnh khó khăn; tôn trọng phong tục và văn hoá của các tộc người thiểu số.
- Thứ tư, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trọng nam khinh
nữ , nhưng những bộ luật cổ Việt Nam vẫn có một số quy định chú ý phần nào đến
quyền lợi và thân phận của người phụ nữ. Cho đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu
đều thống nhất cho rằng: trong những quy định của các bộ luật cổ thời quân chủ,
địa vị của người phụ nữ về cơ bản là thấp kém. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó,
nhân phẩm của người phụ nữ vẫn được các bộ luật cổ đề cao và tôn trọng.
- Thứ năm, các bộ luật cổ Việt Nam đều đề cao và bảo vệ các giá trị đạo đức tốt
đẹp của con người. Chúng ta đều biết, cho dù có thể có những khác biệt về địa lý,
chế độ chính trị và văn hoá, nhưng từ xưa đến nay, nhân loại vẫn luôn đề cao và
15


tôn trọng những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người như: lòng nhân ái, vị tha, sự
hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự thuỷ chung trong quan hệ vợ chồng…
Những tiêu chuẩn đạo đức đó cũng đã được ghi nhận và đề cao trong các quy định
của các bộ luật cổ Việt Nam.. Ngoài ra, trong tất cả các bộ luật đều có những quy
định khoan hồng cho kẻ phạm tội nhưng ra đầu thú, ân xá cho những phạm nhân
biết ăn năn, hối cải. Đó cũng là biểu hiện rõ nét lòng vị tha của dân tộc Việt Nam.
Câu 4: Trình bày điểm tiến bộ của bộ Quốc triều hình luật trong các quy định
về thừa kế.
Trong Quốc triều Hình luật, các quy định về thừa kế không nhiều nhưng nội đung
của các quy định đó rất phong phú, chứa đựng những nguyên tắc cơ bản của việc
phân chia di sản. Ngày nay, các nguyên tắc này chúng ta đang áp dụng. Các quy
định về thừa kế được phân chia thành ba nhóm chính sau:
Các quy định chung về di sản, quyền, nghĩa vụ của người thừa kế, những người
không có quyền thừa kế.
Các quy định về thừa kế theo di chúc, quy định hình thức, nội dung của di chúc, di
chúc vô hiệu và hậu quả pháp lí của di chúc vô hiệu.
Các quy định về thừa kế theo pháp luật, quy định về diện, hàng thừa kế, cách phân

chia di sản.
Khi mở thừa kế, việc xác định di sản đóng vai trò quan trọng, nếu có di sản thì sẽ
mở thừa kế. Ngược lại, không có di sản thì không có quan hệ thừa kế. Di sản dùng
dùng để chia cho những người thừa kế, làm hương hoả...
1. Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật tôn trọng phong tục tập quán,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
Pháp luật quy định, trước khi chia thừa kế di sản của cha mẹ, các con phải dành
1/20 di sản làm hương hỏa thờ cúng cha mẹ. Thờ cúng là việc thể hiện tấm lòng
16


tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu. Đây là truyền thống tốt đẹp, là bản sắc văn
hóa của người Việt. Việc thờ cúng này được pháp luật điều chỉnh, là nghĩa vụ pháp
lý của cháu con. Ngày nay, pháp luật dân sự của nước ta kế thừa tại Điều 673 Bộ
luật dân sự.
2. Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật có những quy định không chỉ
mang tính pháp lý mà còn mang tính đạo lý
Cổ luật quy định những người không nghe lệnh ông bà , cha mẹ thì mất quyền thừa
kế. Đây là quy định không chỉ mang tính pháp lý mà còn mang tính đạo lý, giáo
dục con cháu phải biết vâng lời ông bà, cha mẹ, không được vì tranh giành của cải
mà dẫn đến mất đoàn kết trong gia đình. Xuất phát từ tinh thần đoàn kết đó, pháp
luật sẽ điều chỉnh việc nhường quyền thừa kế giữa những người thừa kế với nhau.
Việc nhường quyền thừa kế thể hiện tinh thần nhường cơm sẻ áo cho nhau, “lá lành
đùm lá rách”. Đây là truyền thống yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những người
có quan hệ gia đình.
3. Ở mức độ nhất định, nhà làm luật triều Lê đã bênh vực quyền lợi của người
phụ nữ
Trong xã hội thời Lê, đạo đức xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề bởi lễ nghĩa Nho
giáo. Tuy nhiên, pháp luật triều Lê lại thể hiện tư tưởng tiến bộ của xã hội phong
kiến Việt Nam, đó là sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Người

vợ - mẹ cóa tài sản riêng, có quyền định đoạt đối với tài sản ấy, người mẹ có toàn
quyền quyết định ai được thừa kế tài sản. Đặc biệt hơn, người con gái trong gia
đình cũng có quyền thừa kế như con trai và được hưởng kỷ phần bằng với con trai,
con gái còn có thể được giữ hương hỏa để thờ cúng ông bà, cha mẹ. Điều này cho
ta thấy sự bình đẳng giới trong Quốc triều hình luật (một trong những tiêu chuẩn
về nhân quyền quốc tế ngày nay). Bộ luật đã có những quy định tương đối tiến bộ,
công nhận cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến một số quyền lợi và phần nào
17


bảo vệ họ đối với thái độ "trọng nam khinh nữ"... Như vậy, việc để ng` phụ nữ dc
thừa kế là một điểm hết sức đặc sắc và tiến bộ không thể thấy ở các bộ luật phong
kiến khác. Mặc dù Bộ luật ra đời vào khoảng thế kỷ 15 nhưng nó đã có sự vượt trội
hơn hẳn so với thời đại của mình, điều này cho thấy kỹ thuật lập pháp của phong
kiến Việt Nam đã tương đối cao.
4. Chế đinh thừa kế trong Quốc triều hình luật đã phân định về nguồn gốc tài
sản của vợ chồng
Tài sản của vợ chồng bao gồm: tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung của cả
hai vợ chồng.Tài sản riêng của chồng do nhà chồng đã cho được nhà làm luật gọi
là phu gia điền sản; tài sản riêng do nhà chồng đã cho nhà làm luật gọi là thê gia
điền sản; tài sản chung hai vợ chồng nhà làm luật gọi là tần tảo điền sản. Cũng
giống như chồng, người phụ nữ Việt Nam xưa có tài sản riêng và tham gia các hoạt
động kinh tế. Đó là điều khác biệt với người phụ nữ Trung Quốc. Việc phân định
này còn góp phần xác định việc phân chia thừa kế cho các con khi cha mẹ đã chết
hoặc chia tài sản cho bên còn sống nếu một trong hai vợ hoặc chồng chết trước.
Chính vì sự đặc sắc và tính thực tiễn của kỹ thuật lập pháp như vậy, sau này, các
tòa án Nam triều thời Pháp thuộc, Tòa thượng thẩm Sài Gòn thời Mỹ ngụy hay dựa
theo các điều luật này của Quốc triều hình luật để phân xử các vụ kiện liên quan
đến tài sản vợ chồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm hết sức đặc sắc đó, chế định thừa kế trong QTHL

cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định.


Thứ nhất, bộ luật không quy định cụ thể di chúc miệng. Pháp luật quy định
mệnh lệnh của ông bà là chúc ngôn trước khi chết. Tuy nhiên, pháp luật lại
không quy định mệnh lệnh này được phát ra trong tình trạng sức khỏe và
18


hoàn cảnh như thế nào. Bên cạnh đó, nhà làm luật mới chỉ đưa ra thế nào là
chúc thư viết vô hiệu chứ không quy định di chúc miệng vô hiệu trong
trường hợp như thế nào. Những lỗ hổng trong luật như thế này sẽ rất dễ gây


ra tranh chấp tài sản thừa kế trong gia đình, nhất là ở những gia đình giàu có.
Thứ hai, việc chia tài sản giữa các con trai trong gia đình của bộ luật chưa
thật sự công bằng. Người con trai được chia kỷ phần là bao nhiêu phải phụ
thuộc vào địa vị củ

Câu 5: Nêu khái niệm hình thức chính thể, hình thức chính thể cơ bản của
nhà nước phong kiến VN. Căn cứ nào để xác định hình thức chính thể, phân
chia như thế nào?
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức và thiết chế quyền lực nhà nước và
những biện pháp để thực hiện quyền lực ấy. Hình thức nhà nước liên quan chặt
chẽ với bản chất nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình
thành từ ba yếu tố:
- Hình thức chỉnh thể: là cách thức tổ chức, cơ cấu các cơ quan quyền lực nhà
nước tối cao cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào quá trình thành lập
những cơ quan đó. Có hai hình thức chính thể : chính thể quân chủ và chính thể
cộng hòa.

-Hình thức chính thể cơ bản của nhà nước phong kiến Việt Nam
Xét về hình thức chính thể thì các nhà nước phong kiến nói chung đều có một hình
thức chính thể là Quân chủ phong kiến. Chính thể quân chủ ở các nhà nước phong
kiến Việt Nam trải qua hai giai đoạn phát triển.
Trong giai đoạn đầu từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XV (trước thời Lê sơ), sự tập chung
quyền lực nhà nước vào tay vua mới ở mức độ hạn chế. Tổ chức bộ máy nhà nước
của mấy triều đại đầu tiên còn rất đơn giản, với những vị vua còn mang đậm dáng
dấp của những vị thủ lĩnh và phong cách cai trị đậm màu dân dã.
19


Đến giai đoạn cuối thế kỉ XV trở đi, chính thể Quân chủ đã phát triển thành Quân
chủ chuyên chế. Từ đầu thời Lê sơ, cùng với việc Nho giáo trở thành nền tảng lí
luận của nhà nước Quân chủ chuyên chế, trở thành hệ tư tưởng chính thống, giai
cấp phong kiến đã bắt tay vào xây dựng chính thể Quân chủ chuyên chế của mình.
Với cuộc cải tổ thành công của Lê Thánh Tông, nhà nước Quân chủ chuyên chế
được hoàn thiện. Đến triều Nguyễn tính chuyên chế của nền Quân chủ được tăng
cường một bước mới.
Cùng với sự phát triển của nhà nước Quân chủ chuyên chế thì hệ thống Quân chủ
phong kiến Việt Nam càng ngày càng được hoàn thiện và mang những đặc điểm rất
khác biệt, và cũng chính là những đặc điểm của các yếu tố cấu thành nên hệ thống
Quân chủ ấy đó là: Vua – nhân vật trung tâm; Quan lại, quý tộc và hệ thống pháp
luật lễ nghi.
Cũng như nhà nước phong kiến khác, nhà nước phong kiến Việt Nam là thể chế
chính trị bảo vệ quyền lực và quyền lợi của giai cấp thống trị. Trong đó vua là
nguời nắm mọi quyền lực nhà nước, là chủ sở hữu tối cao ruộng đất công trong cả
nước. Trong thể chế chính trị đó có hai mối quan hệ cơ bản: Vua –bầy tôi (quý tộc,
quan lại); Vua – thần dân. Quyền lợi và quyền lực của giai cấp phong kiến, của nhà
nước và các vị quân vương được thể hiện và thực hiện bằng quân đội, đội ngũ quý
tộc quan liêu, lễ nghi và luật pháp.




Căn cứ để xác định hình thức chính thể nhà nước.
Khi xác định chính thể người ta thường dựa vào cách thức thành lập nguyên
thủ quốc gia và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Sau đó sẽ xét
đến các cách thức tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước khác
mà chủ yếu là của các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Từ đây chúng ta có thể đưa ra một quy trình cho việc xác định chính thể của
một nhà nước. Trước hết , phải căn cứ vào người đứng đầu nhà nước20


nguyên thủ quốc gia- để xác định nhà nước nó quân chủ hay dân chủ ( cộng
hòa ). Nếu nguyên thủ quốc gia được hình thành bằng phương pháp truyền
ngôi thì đó là chính thể quân chủ, nếu nguyên thủ quốc gia được lập lên
1.

thông qua bầu cử thì đó chính thể cộng hòa.
Cách thức hình thành nguyên thủ quốc gia : truyền ngôi- quân chủ; bầu cử-

2.
3.

cộng hoà
Mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước
Mức độ của người dân tham gia vào quá trình thành lập cơ quan đó.

Câu 6: Nêu vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Quốc hội nước CHXHCN VN
theo Hiến pháp năm 2013.
1) Vị trí , chức năng của Quốc hội


Về vị trí, chức năng của Quốc hội: Điều 69 của Hiến pháp 2013 quy định
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã xác
định rõ Quốc hội thực hiện quyền lập pháp.
2) Cơ cấu tổ chức của Quốc hội
1. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến

pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Ủy ban thường vụ
Quốc hội; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với
các đại biểu Quốc hội.Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch Quốc hội làm
nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch Quốc hội.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.Ủy ban

thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các
Ủy viên.Số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định.
21


Thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên
Chính phủ.Ủy ban thường vụ Quốc hội của mỗi khóa Quốc hội thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
3. Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội

đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân
tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.Hội đồng dân tộc nghiên cứu và
kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi

hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được
mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân
tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý
kiến của Hội đồng dân tộc.
4.

Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên.
Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy
ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.Ủy ban của Quốc hội thẩm tra
dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy
ban thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động
của Ủy ban.Việc thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội do Quốc hội quyết
định.

5. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở

đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt
chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý
kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan;
thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của
22


Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại,
tố cáo.Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp
và pháp luật.


Câu 7: Nêu vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Chính phủ nước CHXHCN
VN theo Hiến pháp năm 2013
1)

Vị trí chức năng của chính phủ
Về vị trí, chức năng của Chính phủ: Điều 94 của Hiến pháp 2013 quy định

“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc
hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013
đã xác định rõ Chính phủ thực hiện quyền hành pháp.
Chính phủ có chức năng cơ bản là thực thi Hiến pháp và pháp luật, hoạch
định và điều hành chính sách quốc gia, tổ chức thực hiện phân bổ ngân sách,
quản lý và phát huy tất cả các nguồn lực của quốc gia. Là cơ quan có trách
nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, Chính phủ bảo đảm quản lý thị trường, quản
lý xã hội, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền công dân; duy
trì và bảo đảm trật tự cộng cộng.
1. Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao hàm cả
vị trí của Chính phủ trong phân công thực hiện quyền lực nhà nước, và chức năng
hành pháp của Chính phủ.
Nói Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, trước hết là nói đến việc phân công
quyền lực (phân quyền) giữa các nhánh quyền lực nhà nước, theo đó, Quốc hội
23


thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp,
Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Giữa 3 cơ quan (3 nhánh quyền lực) này
có sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực được trao.

Nói cách khác, trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất, Chính phủ thực
hiện quyền hành pháp, tương ứng với quyền lập hiến, lập pháp thuộc về Quốc hội
và quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân. Sự phân công quyền lực này vừa bảo
đảm tính thống nhất, vừa bảo đảm tính phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, trên cơ sở
hướng tới sự cân bằng và bảo đảm sự thông suốt của quyền lực. Đây là bước tiến
có tính đột phá trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Tuy nhiên, việc phân công quyền
lực này không phải là phân chia quyền lực, không phải là tam quyền phân lập, cân
bằng và đối trọng như trong các nhà nước tư sản.
Về mặt lý luận, chức năng hành pháp của Chính phủ thường được thực thi qua các
hoạt động chủ yếu sau: (i) hoạch định và điều hành chính sách quốc gia chính sách;
(ii) dự thảo và trình Quốc hội các dự án luật; (iii) ban hành các kế hoạch, chính sách
cụ thể và văn bản dưới luật để các cơ quan hành chính nhà nước thực thi các chủ
trương, chính sách và luật đã được Quốc hội thông qua; (iv) quản lý, điều hành vĩ
mô, hướng dẫn, điều hành và giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách, chủ
trương; (vi) thiết lập trật tự công (trật tự hành chính) trên cơ sở các quy định của
luật; (v) phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc/và yêu cầu tòa án
xét xử theo trình tự thủ tục tư pháp.
2. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa là Chính phủ nắm quyền thống nhất quản lý điều
hành các mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, trước hết là quyết định những
vấn đề về chủ trương, cơ chế, chính sách, thể chế quản lý hành chính nhà nước. Có
vị trí cao nhất nước về mặt quản lý hành chính, nên chức năng hành chính của
24


Chính phủ phải bao quát toàn bộ các công việc quản lý hành chính nhà nước của
đất nước, của cả bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Các quyết định của Chính
phủ phải được tất cả các cơ quan, tổ chức trong xã hội, trong hệ thống chính trị, bộ

máy nhà nước tôn trọng và chấp hành nghiêm túc.
Quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất là phản ánh
một trật tự trong tổ chức và hoạt động của nền hành chính nhà nước, đề cao tính
thống nhất, thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành
mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Chính phủ là thiết chế có thẩm quyền cao nhất
đối với hệ thống hành chính nhà nước.
3. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội
Tính chất, vị trí và chức năng của Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội
suy cho cùng là việc Chính phủ chấp hành và tổ chức thi hành các đạo luật, các
nghị quyết của Quốc hội; là thể hiện tính chịu trách nhiệm của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ trước Quốc hội; là cơ sở cho việc
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ; là bảo đảm sự
gắn bó chặt chẽ giữa Chính phủ và Quốc hội, bảo đảm tính thống nhất trong việc
thực hiện quyền lập pháp và hành pháp. Và trên hết là thể hiện đúng nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra,
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Chính phủ có trách nhiệm phải tuân thủ
và thực hiện các luật, nghị quyết của Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội,
chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được phân công.
Với quy định khái quát “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan
chấp hành của Quốc hội”, Hiến pháp đã đồng thời thể hiện tính chất, vị trí, chức
25


×