Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục đạo đức CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG ở HUYỆN BA vì THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.39 KB, 125 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1

1.1.
1.2.
1.3.
Chương 2

2.1.

Tran
g
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Các khái niệm cơ bản của đề tài
Nội dung quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông

12
12
25

Các yếu tố tác động đến quản lý hoạt động giáo dục đạo đức

cho học sinh trung học phổ thông
CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH


TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội

Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
2.3.
Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1.
Yêu cầu đề xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội
3.2.
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
3.3.
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

30

37

37

2.2.

39
50

66

66
68
91
97
100
103


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, trước những tác động mạnh mẽ của khoa
học, kỹ thuật và nền kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập quốc tế đã làm
biến đổi các giá trị xã hội, đặc biệt là các giá trị nhân văn. Giải quyết hài hoà
mối quan hệ giữa sự phát triển của khoa học công nghệ và tác động tiêu cực
của xã hội với những biểu hiện sa sút các giá trị nhân văn đã và đang là những
thách thức, khó khăn đối với giáo dục xã hội nói chung, giáo dục học sinh ở
các trường THPT nói riêng. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển giáo dục và đào tạo... Giáo dục con người Việt Nam phát triển
toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân;

yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”
[tr.121-122]. Đối với giáo dục phổ thông, mục tiêu giáo dục được xác định là:
“Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục tàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng,
truyền thống, đạo đức, lối sống” [tr.123].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là một trong những yếu tố cơ
bản trong đời sống xã hội của con người, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Đạo
đức là một mặt nhân cách con người, nó chi phối các mối quan hệ giữa người
này với người khác, giữa mỗi con người với toàn thể đời sống xã hội và ngay
trong mối quan hệ nội tại của chính con người. Vì thế giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ luôn là vấn đề có tính thời sự đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Cùng với việc xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Điều 27, Luật giáo dục 2005 quy định mục tiêu giáo dục phổ thông: “Giúp
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản” [28]. Học sinh THPT là một lực lượng đông đảo, hùng hậu
3


chuẩn bị bước vào đời, thực hiện nghĩa vụ công dân, sẽ trở thành những chủ
nhân của đất nước nhưng lại đang là “ngòi nổ” của những quan niệm đạo đức
mới, đang có những biểu hiện sa sút về đạo đức, lệch chuẩn về hành vi ngày
càng tăng và trở thành mối lo của toàn xã hội. Do đó một nền giáo dục đầy
trách nhiệm với thế hệ trẻ có sự kết hợp hài hoà giữa những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc với những giá trị văn hoá hiện đại của nhân loại;
đồng thời, kịp thời ngăn chặn, kiểm soát sự sa sút ý thức đạo đức, lý tưởng
sống ở một bộ phận học sinh trước những ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị
trường và sự bùng nổ công nghệ thông tin... là việc có ý nghĩa rất quan trọng
và cần thiết, là yêu cầu đòi hỏi khách quan, thường xuyên trong tổ chức các
hoạt động giáo dục cho học sinh.

Ba Vì là huyện nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội, có tốc độ đô
thị hoá cao, nơi đang chịu tác động rất lớn từ mặt trái của cơ chế thị trường
với những biểu hiện và những diễn biến phức tạp về tệ nạn xã hội và những
rạn nứt trong đạo đức và lối sống. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến công
tác giáo dục đạo đức cho học sinh và đặc biệt là học sinh các trường THPT
của huyện. Những biểu hiện như bỏ học, đánh nhau, dối trá, lười lao động,
sống hưởng thụ, ích kỉ…trong lối sống của học sinh ngày càng gia tăng đang
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Đứng trước tình trạng xuống cấp trong đạo đức, lối sống của một bộ phận học
sinh THPT đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, các nhà giáo dục, quản lý
giáo dục cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này, đặc biệt là việc nghiên cứu
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn huyện Ba vì.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội hiện nay” với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay.

4


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, là vấn đề thường xuyên
được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại
phát triển. Đó là thước đo thang giá trị của con người mọi thời đại và trở
thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực cho sự tiến bộ, phát triển của xã
hội, đặc biệt là GDĐĐ cho thế hệ trẻ rèn luyện, trưởng thành, góp phần hình
thành lý tưởng, đạo đức cao đẹp, lối sống nghĩa tình, từng bước hoàn thiện
nhân cách nhằm xây dựng sự phát triển bền vững cho quốc gia, dân tộc. Phạm
trù đạo đức, GDĐĐ và quản lý hoạt động GDĐĐ luôn được các nhà giáo và

các nhà khoa học giáo dục quan tâm nghiên cứu.
Trên cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C. Mác và
Ph.Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số quan điểm về đạo đức và
GDĐĐ trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tiến bộ để đưa ra
những quan điểm của mình về đạo đức. Đạo đức không thể tách rời cuộc sống
của con người. Đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của đời
sống con người trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá nhân và xã
hội. Con người bằng hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh nghiệm lịch sử
của mình để xây dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị đạo đức.
Những tư tưởng về đạo đức của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được
V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển hoàn chỉnh thành học thuyết Mácxít về
đạo đức cộng sản và hiện thực hoá trong cách mạng tháng Mười Nga.
V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là GDĐĐ cộng sản chủ
nghĩa và chỉ rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng sản là của toàn xã
hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm của nhà trường Xô
Viết, của Đoàn thanh niên tiền phong, của các tổ chức đảng, đoàn, cán bộ
đảng, đoàn và các thế hệ cách mạng lớn tuổi, các lão thành cách mạng, của
đội ngũ thầy, cô giáo. Muốn GDĐĐ cộng sản cho thế hệ trẻ có kết quả tốt thì

5


bản thân những người làm công tác giáo dục phải là người gương mẫu, trong
sáng, phải là người tiêu biểu để thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào và học tập; làm
được như vậy, đạo đức cộng sản mới thực sự trở thành đời sống tinh thần,
mang tính giáo dục cao cho mỗi cá nhân và toàn xã hội.
Ở Việt Nam đã xây dựng mẫu hình nhà trường cũ là trường học theo
truyền thống nho giáo coi trọng hai nội dung giáo dục Lễ và Văn, tuân theo
trong hành vi ứng xử để thể hiện là con người có những phẩm chất cơ bản: nhân,
nghĩa, trí, tín là đạo đức. Sau cách mạng tháng Tám (1945) và trong suốt hai

cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ nền giáo dục Việt Nam với mục đích giáo
dục con người phục vụ “Kháng chiến, kiến quốc” đã luôn gắn chặt hai mặt
đức và tài trong mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy đức làm gốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn
hoá lớn của nhân loại đã đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí
Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Đó là cơ sở
lý luận xuyên suốt, luôn hướng dẫn, chỉ đường cho Đảng, quân đội, nhân dân
ta học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về phương diện nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu khoa học
trong nước đề cập vấn đề GDĐĐ và quản lý hoạt động GDĐĐ. Tiêu biểu như:
Tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu lên các định hướng giá trị đạo đức con
người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước và nêu lên 6 giải pháp cơ
bản GDĐĐ cho con người Việt Nam thời kỳ này đó là: “Tiếp tục đổi mới nội
dung, hình thức GDĐĐ trong các trường học, củng cố ý tưởng giáo dục ở gia
đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc
GDĐĐ cho con người, kết hợp chặt chẽ GDĐĐ với việc thực hiện nghiêm
chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức thống nhất các
phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống
6


cho toàn dân, trước hết cho cán bộ đảng viên, cho thầy cô các trường học; xây
dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về GDĐĐ, nâng
cao nhận thức cho mọi người” [23, tr.171].
Tác giả Trần Hậu Kiểm và Đoàn Đức Hiếu trong cuốn “Hệ thống phạm
trù đạo đức học sinh và GDĐĐ cho sinh viên” đã khái quát hoá những phạm
trù đạo đức cơ bản đó là: lẽ sống, hạnh phúc, danh dự, nghĩa vụ, lương tâm
thiện và ác…Những phạm trù này phản ánh nội dung khách quan của đời

sống xã hội, nó có liên hệ hữu cơ với tình cảm con người và đời sống xã hội.
Trong giáo trình “Đạo đức học” tác giả Phạm Khắc Chương và Hà
Nhật Thăng đã nhấn mạnh nội dung giảng dạy và GDĐĐ cho học sinh, sinh
viên hiện nay là đạo đức trong gia đình, đạo đức trong tình bạn, đạo đức trong
tình yêu, đạo đức trong học tập, đạo đức trong giao tiếp.
Tác giả Huỳnh Khải Vinh đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội; mối quan hệ giữa lối sống đạo đức với
phát triển văn hoá và con người, sư tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế,
xã hội tới lối sống đạo đức, chuẩn giá trị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tác giả Nguyễn Kim Bôi nghiên cứu về “Một số giải pháp nâng cao
chất lượng GDĐĐ học sinh THPT ở trường THPT Trần Đăng Ninh – Hà
Tây”. Từ thực trạng đạo đức của học sinh ở một trường mà tác giả coi là tiêu
biểu cho đặc điểm của nhiều trường ở nông thôn Việt Nam, tác giả đã đưa ra
một số giải pháp để nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh THPT.
Tác giả Nguyễn Thị Vinh đi sâu nghiên cứu thực trạng GDĐĐ cho học
sinh trường THPT Tân Mai – quận Hoàng Mai – Hà Nội, sau đó đề ra một số
biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh của trường.
Tác giả Đặng Văn Chiến với đề tài: "Quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức cho học sinh THPT ở cụm trường Gia Lâm" (2006). Tác giả Trần Thế
Hùng (2006) với Đề tài: "Một số biện pháp đổi mới quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh". Tác giả
7


Trần Văn Hy với đề tài: "Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học
sinh THPT ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang" (2008). Từ góc độ của nhà
quản lý, tác giả đề xuất 7 biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ
cho học sinh. Tác giả Đỗ Thị Thanh Thuỷ (2010) với đề tài “Biện pháp quản
lý giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục

ngoài giờ lên lớp của hiệu trưởng trường THPT Thành phố Hà Nội”. Tác giả
Phạm Thanh Bình Quận Cầu Giấy Hà Nội với đề tài: "Quản lý hoạt động
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội"
(2012).
Tóm lại, các công trình khoa học trên đây đã đi sâu vào việc nghiên cứu
thực trạng và tìm ra các giải pháp cho công tác giáo dục đạo đức và nâng cao
chất lượng giáo dục nhân cách cho học sinh phổ thông. Tuy nhiên, quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói chung và hoạt động giáo
dục đạo đức học sinh THPT của huyện Ba Vì nói riêng trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn
còn là vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt là trước sự sa sút về
đạo đức của học sinh nói chung và chất lượng đạo đức của học sinh THPT
huyện Ba Vì nói riêng đang có những diễn biến phức tạp, công tác quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THPT trên địa bàn của huyện đang
đứng trước những thách thức mới cần phải được giải quyết, trong khi đó ở
huyện Ba Vì đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn hoạt động giáo dục đạo
đức học sinh THPT, đề xuất biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

8


- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về GDĐĐ và quản lý hoạt
động GDĐĐ cho học sinh THPT.
- Đánh giá thực trạng về GDĐĐ và quản lý hoạt động GDĐĐ ở các

trường THPT huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục nhân cách cho học sinh THPT.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về quản lý hoạt động
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Phạm vi khảo sát: Tiến hành điều tra, khảo sát đối với cán bộ, giáo
viên, học sinh ở 09 trường THPT huyện huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Giới hạn thời gian: Các số liệu được sử dụng từ năm 2012 đến 2015.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT có vai trò,
vị trí rất quan trọng, trực tiếp góp phần phát triển toàn diện nhân cách học
sinh. Hiện nay, quản lý hoạt động GDĐĐ ở các trường THPT huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội còn nhiều hạn chế, bất cập. Nếu các chủ thể quản lý làm
tốt công tác chỉ đạo, điều hành; nâng cao nhận thức về GDĐĐ cho cán bộ
giáo viên và học sinh; tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng hiệu quả các
hình thức, phương pháp giáo dục, đồng thời phát huy vai trò của nhà
trường trong phối hợp với các lực lượng giáo dục trên địa bàn thì thì chất
lượng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn huyện
9


Ba vì sẽ được nâng cao, góp phần phát triển nhân cách học sinh, đáp ứng
yêu cầu giáo dục toàn diện hiện nay.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục; trực tiếp là các nội
dung liên quan đến giáo dục phẩm chất, đạo đức lối sống cho học sinh phổ
thông theo quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ hội nhập quốc tế.
Quá trình nghiên cứu vận dụng các quan điểm hệ thống - cấu trúc, lôgíc
- lịch sử và quan điểm thực tiễn để phân tích, đánh giá, xem xét các vấn đề
nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trên cơ sở nghiên cứu các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, các
tài liệu, văn bản, tạp chí, sách báo, công trình khoa học có liên quan đến đề tài
nghiên cứu, đề tài xác định cơ sở lý luận của GDĐĐ và quản lý hoạt động
GDĐĐ đối với học sinh.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra để khảo sát tìm hiểu các
vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu, tìm ra nguyên nhân đề xuất biện
pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động quản lý GDĐĐ cho học
sinh thông qua việc tổ chức học tập, rèn luyện học sinh tại các trường THPT.
Phương pháp toạ đàm: Trực tiếp trao đổi với cán bộ, giáo viên và học
sinh về thực trạng đạo đức của học sinh và thực trạng quản lý hoạt động
GDĐĐ hiện nay.

10



Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến một số nhà sư phạm, nhà quản lý,
nhà khoa học đầu ngành, có kinh nghiệm và tâm huyết về các biện pháp quản
lý hoạt động GDĐĐ hiện nay.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng các thuật toán thống kê để
tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu thu được phục vụ cho các vấn đề cần giải
quyết trong luận văn.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về quản lý giáo dục đạo đức và
xác định được hệ thống biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo để tổ chức giáo dục đạo đức học sinh ở các trường THPT.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Giáo dục đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản
ánh các mối quan hệ của xã hội loài người. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu xã
hội nhằm điều hoà và thống nhất giữa lợi ích chung của toàn xã hội với lợi ích
riêng của mỗi cá nhân nhằm đảm bảo trật tự xã hội, thúc đẩy cá nhân, xã hội cùng
đi lên. Để giải quyết các mâu thuẫn đó, xã hội đề ra những yêu cầu chuẩn mực giá

trị được mọi người công nhận và được củng cố bằng sức mạnh của phong tục, tập
quán, của dư luận xã hội, của lương tâm mỗi con người.
Bàn về đạo đức đã có nhiều định nghĩa từ nhiều góc độ khác nhau, tuy
nhiên có thể hiểu đạo đức một cách khái quát như: theo giáo trình Đạo đức
học - “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [18,
tr.8]; Học thuyết Mác-Lênin cho rằng: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội. Đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội.
Vì vậy, tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo. Và như vậy đạo
đức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc”; Theo Bách
khoa triết học của Nga (30 tập) có định nghĩa "Đạo đức là tập hợp những
nguyên tắc, quy chế, chuẩn mực nhờ đó con người điều chỉnh được hành vi
12


của mình" [30, tr.35]; Từ điển Tiếng Việt: "Đạo đức là những tiêu chuẩn,
những nguyên tắc, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những
tiêu chuẩn, đạo đức của một giai cấp nhất định" [28, tr.211]. Tác giả Phạm
Minh Hạc định nghĩa “Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, những quy định và
chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người”. Nhưng bên trong điều kiện
hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm
những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với
công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống.
Như vậy, theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với
phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân
cách, phản ánh bộ mặt nhân cách đã được xã hội hoá… đạo đức của mỗi cá

nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức
chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại. Về bản chất đạo đức là những
nguyên tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội được hình thành và phát
triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện.
Đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng những tiêu
chuẩn đạo đức mà có. Đạo đức của con người biến đổi cùng với sự biến đổi
và phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội. Theo thời gian phạm trù đạo
đức ngày càng hoàn thiện và đầy đủ hơn. Trong xã hội hiện nay, các giá trị
đạo đức là sự kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc với
đạo đức cách mạng và xu thế tiến bộ của thời đại nhân loại.
Từ cách tiếp cận trên, chúng tôi quan niệm: Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh điều chỉnh quan hệ về ý thức và hành vi của con người trong quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, con người với tự
nhiên và với bản thân.
Khái niệm đạo đức bao gồm 3 nội dung chính: Quan hệ đạo đức, ý thức
13


đạo đức và hành vi đạo đức. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau:
Quan hệ đạo đức là hệ thống những mối quan hệ giữa con người với
con người, giữa cá nhân với xã hội về mặt đạo đức.
Ý thức đạo đức là sự phản ánh những quan hệ đạo đức dưới dạng
những quy tắc, chuẩn mực phù hợp với những quan hệ đạo đức. Ý thức đạo
đức là tiêu chuẩn giá trị cao nhất tạo nên bản chất đạo đức của con người. Nó
bao gồm tri thức đạo đức và tình cảm đạo đức.
Hành vi đạo đức là sự hiện thực hoá ý thức đạo đức. Nó làm cho ý thức
được cụ thể hoá và trở nên có ý nghĩa.
Chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam ngày nay được nhiều
người bàn đến. Chúng ta có thể lấy kết quả nghiên cứu của chương trình khoa

học cấp Nhà nước: Chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong
giai đoạn CNH-HĐH đất nước (Mã số KHXH-04-04-1996- 2000) làm những
chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam hiện nay. Những chuẩn mực đạo
đức đó là: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có tinh thần quốc tế xã hội chủ
nghĩa trong thời đại mới, yêu lao động và có thái độ lao động đúng đắn, có tinh
thần tập thể, ý thức cộng đồng và tình đoàn kết kỷ luật, có tinh thần nhân đạo
xã hội chủ nghĩa, có nếp sống văn minh, lành mạnh.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng nằm trong
định hướng chung của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở các trường học.
Đây là quá trình lâu dài và liên tục, có sự tham gia của nhiều thành tố, trong
đó nhà trường giữ một vai trò rất quan trọng tác động đến người được giáo
dục nhằm biến ý thức đạo đức thành tình cảm, hành vi và thói quen đạo đức.
Như vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch, có tổ chức của nhà giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học
sinh nhằm trang bị những tri thức, ý thức đạo đức, niềm tin, tình cảm đạo đức
và quan trọng nhất là hình thành hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các

14


chuẩn mực xã hội.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu
được của quá trình giáo dục tổng thể có quan hệ biện chứng với các quá trình
bộ phận khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo
dục lao động hướng nghiệp. Giáo dục đạo đức vừa có mối quan hệ mật thiết
với các bộ phận khác trong quá trình giáo dục tổng thể, lại vừa có vai trò định
hướng cho các hoạt động giáo dục khác và có ảnh hưởng quan trọng đến kết
quả giáo dục. Trong quá trình giáo dục đạo đức, để đạt được kết quả cao cần
có sự tác động và phối hợp của rất nhiều yếu tố từ mục đích, kế hoạch, nội
dung, phương pháp, phương tiện giáo dục đạo đức đến tác động của các lực

lượng giáo dục và sự phối hợp của các lực lượng giáo dục. Giáo dục đạo đức
không chỉ là khoa học mà còn là nghệ thuật. Nó đòi hỏi nhà giáo dục vừa phải
tuân theo quy luật hình thành và phát triển nhân cách vừa phải tìm và vận
dụng khéo léo các biện pháp sư phạm tác động vào ý thức học sinh để tổ chức
và quản lý được các hoạt động giáo dục đạo đức một cách có hiệu quả. Đây là
quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi phải công phu, kiên trì, liên tục và lặp đi
lặp lại nhiều lần.
Nhiệm vụ và nội dung của GDĐĐ là cung cấp cho học sinh những tri
thức về các chuẩn mực đạo đức, gắn liền với các kinh nghiệm đạo đức qua đó
giúp học sinh định hướng được các giá trị đạo đức đúng đắn, hình thành niềm
tin đạo đức. Mặt khác quá trình GDĐĐ còn nhằm bồi dưỡng cho học sinh xúc
cảm và tình cảm đạo đức; chuyển hoá chúng thành những động cơ bên trong
làm cơ sở điều chỉnh hành vi đạo đức; xây dựng cho các em những hành vi và
thói quen đạo đức, hình thành văn hoá ứng xử phù hợp. Đó là một nhiệm vụ rất
quan trọng của nhà trường; là yêu cầu thường xuyên của công tác giáo dục
trong mọi thời đại đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung hiện nay.

15


1.1.2. Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Học sinh trường THPT có độ tuổi từ 15 - 18 tuổi (từ lớp 10 - 12). Lứa
tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của
con người, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thiếu niên sang tuổi thanh niên
và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ“, “tuổi
khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”...
Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang
tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người
trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát

triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này. Ở lứa tuổi thiếu
niên có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn”, điều này
phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống,
hoạt động… của các em.
Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát
triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn - điều này do hoàn cảnh
sống, hoạt động khác nhau của các em tạo nên. Hoàn cảnh đó có cả hai mặt:
Những yếu điểm của hoàn cảnh kiềm hãm sự phát triển tính người lớn: trẻ chỉ
bận vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu
thế không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình,
của xã hội. Những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn:
sự gia tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp
khó khăn trong đời sống, đòi hỏi trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều
đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn.
Xu hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các
hướng sau: Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết
nhiều, nhưng còn nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì các em hiểu biết rất
ít. Có những em ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường, mà chỉ quan tâm

16


đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi trọng việc giao tiếp
với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc, trao đổi với họ về các vấn đề trong
cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như người lớn. Ở một số em khác không biểu
hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình
có những đức tính của người lớn như: dũng cảm, tự chủ, độc lập …
Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi thiếu niên có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp
nhất, và cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng

thành sau này. Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ, trong thời kỳ này những
cơ sở, phương hướng chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức
của nhân cách được hình thành, chúng sẽ được tiếp tục phát triển trong tuổi
thanh niên. Chúng ta, những nhà giáo dục, cần hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của
giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên để có cách giáo dục và đối xử đúng đắn
với các em nhằm xây dựng cho các em một nhân cách toàn diện.
GDĐĐ cho học sinh là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà
trường, nhằm thực hiện mục tiêu dạy học hoàn thiện nhân cách học sinh đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu dạy học của nhà trường phổ thông trong giai đoạn mới.
Hoạt động giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch, được chọn lọc về nội dung, phương pháp, phương tiện phù hợp đến
học sinh nhằm hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin, hành vi và
thói quen đạo đức giúp cho học sinh biết ứng xử đúng mực trong các mối
quan hệ giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với lao động, cá nhân với mọi người
xung quanh và với chính mình, góp phần quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh. Hoạt động GDĐĐ hình thành cho con
người những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
cơ bản của xã hội. Nhờ đó con người có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng
đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự đánh giá suy nghĩ vê hành vi

17


của bản thân mình. Vì thế, hoạt động GDĐĐ góp phần vào việc hình thành,
phát triển nhân cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Hoạt động GDĐĐ đạo đức cho học sinh THPT là quá trình tác động tới
học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học sinh ý
thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là hình thành cho
họ thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà
trường giữ vai trò chủ đạo định hướng. GDĐĐ cho học sinh là bộ phận quan

trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động GDĐĐ có mục đích, có chức năng chủ yếu là giúp học sinh
nhận thức đúng các yêu cầu, chuẩn mực, các giá trị đạo đức xã hội và rèn
luyện các thói quen, hành vi đạo đức phù hợp. Dưới sự tác động tích cực của
các lực lượng giáo dục trong nhà trường, các em học sinh phải tiếp nhận các
yêu cầu, chuẩn mực, giá trị tư tưởng, đạo đức, pháp luật, hướng nghiệp,
chuyển hoá thành ý thức, niềm tin, thái độ, hành vi cá nhân, trong suốt hoạt
động GDĐĐ thì nhà giáo dục và đối tượng giáo dục luôn có mối quan hệ
tương tác; nhưng tác động của nhà giáo dục đóng vai trò định hướng, sự tiếp
nhận và chuyển hoá có ý thức các giá trị của đối tượng giáo dục đóng vai trò
quyết định sự thành công của quá trình giáo dục.
Từ cách tiếp cận trên tác giả quan niệm: Hoạt động giáo dục đạo đức
cho học sinh THPT là hệ thống các tác động có mục đích, có kế hoạch của
các chủ thể giáo dục đến học sinh nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng tình
cảm, hình thành thói quen, hành vi đạo đức, góp phần hình thành phẩm
chất nhân cách toàn diện cho học sinh, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục
của nhà trường.
GDĐĐ cho học sinh THPT là GDĐĐ đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nâng
cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho học sinh có tinh
thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự say mê học tập,
có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp sống lành mạnh, biết tôn
18


trọng pháp luật. Là cách thức, con đường tác động có định hướng của chủ thể
quản lý tới các thành tố tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh
nhằm làm cho mọi lực lượng giáo dục nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng
của công tác giáo dục đạo đức, tích cực tham gia vào quá trình giáo dục đạo
đức để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh THPT: Giúp cho học sinh

nhận thức đúng đắn các giá trị đạo đức. Trong đó mục đích quan trọng nhất
của GDĐĐ là tạo lập những thói quen hành vi đạo đức, biết hành động theo
lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết sống vì mọi người, vì gia đình, vì sự
tiến bộ xã hội.
Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT:
- Giáo dục ý thức đạo đức. Cung cấp cho học sinh những tri thức cơ
bản về các phẩm chất đạo đức và các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó giúp
họ hình thành niềm tin đạo đức.
- Giáo dục tình cảm đạo đức. Khơi dậy cho học sinh những rung động,
những xúc cảm với hiện thực xung quanh, biết yêu ghét rõ ràng và có thái độ
đúng đắn đối với các hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội và tập thể.
- Giáo dục thói quen đạo đức. Giáo dục hành vi thói quen, tổ chức cho
học sinh lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động đạo đức trong học tập, trong
sinh hoạt và trong cuộc sống nhằm tạo được hành vi đạo đức bên trong và từ
đó có thói quen đạo đức bền vững.
Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh THPT:
- Trang bị cho học sinh những hiểu biết và niềm tin về các chuẩn mực
và quy tắc đạo đức khi giáo dục ý thức về mục đích cuộc sống bản thân, giáo
dục ý thức về lối sống cá nhân, giáo dục ý thúc về các mối quan hệ trong gia
đình, trong tập thể và ngoài xã hội, giáo dục ý thức về cuộc sống lao động
sáng tạo, về nghĩa vụ lao động và bảo vệ Tổ quốc.

19


- Xây dựng hành vi và thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực
xã hội, tạo lập cho học sinh ý chí đạo đức vững vàng.
- Hình thành cho học sinh nhu cầu, động cơ, tình cảm đạo đức phù hợp
với nền đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT: Là thành tố quan

trọng của quá trình GDĐĐ, nó tác động trực tiếp đến kết quả của quá trình
GDĐĐ cho học sinh. Có các nhóm phương pháp GDĐĐ cơ bản sau: Nhóm
các phương pháp hình thành ý thức cả nhân; Nhóm phương pháp kích thích
hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của học sinh.
Trong các trường THPT, giáo dục đạo đức là hoạt động rất quan trọng,
không thể thiếu, là một nội dung để xem xét đánh giá học sinh. Vì vậy,
GDĐĐ là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, Ban Giám hiệu, các
thầy giáo cô giáo, cán bộ quản lý giáo dục nhằm bồi dưỡng, hình thành cho
học sinh những tri thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức, tình cảm đạo đức trong
sáng, từ đó góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh với những
phẩm chất đạo đức mới, tạo nền tảng cho sự phát triển sau này.
1.1.3. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông
Quản lý là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội, nó đã xuất
hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Với nhiều cách tiếp cận khác
nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm QLGD như sau:
Theo Aunapuff: “Quản lý là một hệ thống xã hội, là một khoa học và là
một nghệ thuật tác động vào hệ thống xã hội, chủ yếu là quản lý con người
nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động, vừa ổn định
bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau” [14, tr.54].
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: "QLGD là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể
quản lý nhằm làm cho hệ vận hành đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng,
20


thực hiện các tính chất của nhà trường, xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ giáo dục tới mục
tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [ 29, tr.22].
Tác giả Đặng Quốc Bảo khẳng định "QLGD là hoạt động điều hành,

phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội" [2, tr.37].
Như vậy: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường.
QLGD là một bộ phận thuộc quản lý nhà nước, chịu sự chi phối bởi
mục tiêu quản lý nhà nước. Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, nhằm tạo
điều kiện cho mọi người được học tập. QLGD được hiểu là sự điều hành hệ
thống giáo dục quốc dân, điều hành các trường học trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Theo Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [1, tr.4].
Qua các khái niệm nêu trên, chúng ta có thể khái quát: Quản lý giáo
dục là hệ thống những tác động có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản
lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu, các bộ phận của hệ thống nhằm
đảm bảo cho các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành tối ưu, đảm bảo
sự phát triển mở rộng về cả mặt số lượng cũng như chất lượng để đạt mục
tiêu giáo dục. Hệ thống giáo dục là hệ thống mở, luôn vận động và phát triển
theo quy luật chung của sự phát triển kinh tế - xã hội và chịu sự quy định của
kinh tế - xã hội. Vì vậy, QLGD cũng phải luôn được đổi mới, đảm bảo tính
năng động, khả năng tự điều chỉnh và thích ứng của giáo dục đối với sự vận
động và phát triển chung của xã hội.
21


Quản lý giáo dục nhân cách nói chung và quản lý GDĐĐ cho học sinh
THPT nói riêng là một nội dung quan trọng trong quản lý giáo dục ở nhà
trường THPT. Quản lý hoạt động GDĐĐ trong nhà trường là hướng tới việc
thực hiện phát triển toàn diện nhân cách cho người học, giáo dục con người

vừa hồng, vừa chuyên. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT là hướng tới việc phát triển những phẩm chất cần và đủ mà xã hội yêu
cầu đối với các em để vươn tới một nhân cách toàn diện. Quản lý hoạt động
GDĐĐ cho học sinh trường THPT là một mặt, một bộ phận, một nội dung của
hoạt động giáo dục, là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn
những thói quen, hành vi, đạo đức, phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lý hoạt động GDĐĐ trong trường THPT không chỉ bó hẹp ở việc
quản lý hoạt động GDĐĐ theo những chuẩn mực xã hội mà phải coi trọng
đến hoạt động GDĐĐ, hành vi, phẩm chất, nhân cách học sinh, tôn trọng
người già, dần dần nâng lên GDĐĐ nghề nghiệp cho học sinh. Đây là hoạt
động quan trọng giúp cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường
cũng đã có nhận thức đúng đắn về những giá trị đạo đức, phẩm chất nhân
cách, cách giao tiếp, cách ứng xử và giải quyết mối quan hệ thường ngày.
Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh phải kết hợp một cách sáng tạo
quản lý hoạt động giáo dục của chủ thể quản lý và hoạt động tự giáo dục rèn
luyện của học sinh. Trong hoạt động tự giáo dục học sinh được coi là chủ thể
tự quản lý quá trình giáo dục của mình thông qua các hoạt động xây dựng kế
hoạch tự học tập, rèn luyện, tự kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục.
Quản lý hoạt động GDĐĐ phải hướng tới việc làm cho mọi lực lượng
giáo dục nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động GDĐĐ. Quản
lý hoạt động GDĐĐ bao gồm việc quản lý mục tiêu, nội dung, hình thức,
phương pháp giáo dục, huy động đồng bộ lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ GDĐĐ, biến quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục.
22


Từ cơ sở lý luận về đạo đức, giáo dục đạo đức cho học sinh chúng tôi
quan niệm: Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT là việc làm có kế
hoạch, có tổ chức, có điều khiển của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hoạt

động GDĐĐ cho học sinh, nhằm bảo đảm cho hoạt động GDĐĐ diễn ra
đúng yêu cầu, nội dung và đạt hiệu quả cao, đáp ứng mục tiêu yêu cầu giáo
dục của nhà trường.
Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh thực chất là hoạt động có tổ
chức, có mục đích, có chỉ đạo của nhà quản lý đối với toàn bộ lực lượng giáo
dục trong nhà trường, để hình thành, phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin,
hành vi, thói quen đạo đức và hoàn thiện phẩm chất nhân cách theo mục tiêu,
yêu cầu đào tạo của nhà trường, giúp học sinh biết ứng xử đúng mực trong
quan hệ hàng ngày, giữa cá nhân với tập thẻ, với mọi người xung quanh trong
quá trình học tập ở nhà trường phổ thông cũng như sau này.
Mục đích của quản lý GDĐĐ cho học sinh là đảm bảo cho các hoạt động
giáo dục diễn ra theo một hệ thống nhất quán, phù hợp với quy luật giáo dục,
nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm lực của nhà trường và xã hội cùng
tham gia vào quá trình giáo dục. GDĐĐ cho học sinh là một nhiệm vụ trung tâm
của nhà trường, đòi hỏi mọi giáo viên, mọi tổ chức lực lượng trong nhà trường
cùng phải tham gia. GDĐĐ cho học sinh không phải chỉ bằng những bài giảng
về đạo đức công dân, mà phải thông qua mọi loại hình hoạt động đa dạng của
nhà trường. Điều đó đòi hỏi quá trình GDĐĐ cho học sinh cần phải được quản
lý, tổ chức theo một kế hoạch chung, thống nhất cho mọi lực lượng, mọi hoạt
động. Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh có nhiệm vụ huy động mọi tiềm
lực và tổ chức, phối hợp các lực lượng cùng tham gia vào quá trình giáo dục.
Đảm bảo cho hoạt động của các lực lượng không mâu thuẫn với nhau mà phải
cùng hướng tới một mục tiêu chung của nhà trường.
Nội dung quản lý GDĐĐ cho học sinh là quản lý toàn bộ các lực lượng
tham gia vào quá trình giáo dục và mọi hoạt động của các lực lượng đó.

23


Phương thức quản lý chủ yếu là thông qua hệ thống kế hoạch giáo dục của nhà

trường. GDĐĐ cho học sinh bao giờ cũng diễn ra theo những quy luật của quá
trình giáo dục, người quản lý có chức năng nắm quy luật đó và đề ra các
nguyên tắc chỉ đạo hoạt động giáo dục sao cho phù hợp với quy luật. Trên cơ
sở đó, xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục cho từng
loại đối tượng, dự kiến phân chia thời gian theo thời khoá biểu của từng tuần,
từng tháng, từng quý, từng học kỳ đến cả năm học, cả khoá học. Tức là, người
CBQL nhà trường phải xây dựng được kế hoạch quản lý ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn cho các hoạt động GDĐĐ học sinh THPT.
Chủ thể quản lý GDĐĐ cho học sinh trong nhà trường là đội ngũ CBQL
giáo dục và các tổ chức QLGD của nhà trường, đứng đầu là Hiệu trưởng nhà
trường. Chủ thể quản lý vừa là cá nhân, vừa là tập thể. Mọi hoạt động của chủ
thể quản lý GDĐĐ cho học sinh được thực hiện dựa trên các nguyên tắc quản
lý giáo dục nhà trường, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định là
nguyên tắc cơ bản. Ở nhà trường THPT, chủ thể quản lý GDĐĐ cho học sinh
cũng đồng thời là chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục đó; là người vừa phải
có kiến thức về QLGD, vừa phải có hiểu biết và kỹ năng thực tiễn về GDĐĐ
cho học sinh THPT.
Đối tượng quản lý GDĐĐ cho học sinh là các tổ chức và cá nhân tham
gia vào quá trình GDĐĐ cho học sinh. Trong đó, bao gồm cả nhà trường, gia
đình và xã hội, nhưng chủ yếu vẫn là đội ngũ giáo viên và học sinh của nhà
trường. Học sinh là đối tượng quản lý của nhà trường, của gia đình và của xã
hội, nhưng học sinh lại là chủ thể quản lý quá trình tự giáo dục, tự điều khiển
các hành vi đạo đức của chính bản thân mình. Đối tượng quản lý chịu sự quản
lý của chủ thể quản lý, mọi hoạt động của đối tượng quản lý phải tuân thủ
theo yêu cầu của chủ thể quản lý. Trên cơ sở những yêu cầu của chủ thể quản
lý, đối tượng quản lý phải chuyển hoá những yêu cầu đó thành yêu cầu của
chính bản thân mình. Sự tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng

24



quản lý là sự tác động hai chiều. Đối tượng quản lý tiếp nhận những tác động
của chủ thể quản lý một cách có ý thức, có chọn lọc. Kết quả hoạt động của
đối tượng quản lý cao hay thấp phụ thuộc vào thái độ tiếp nhận các tác động
của chủ thể quản lý có tích cực hay không. Kết quả hoạt động GDĐĐ cho học
sinh THPT cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào thái độ tích cực của đối
tượng quản lý trong tiếp nhận các tác động giáo dục của chủ thể quản lý hoạt
động GDĐĐ.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
1.2.1. Quản lý mục tiêu và kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
Trong mọi hoạt động của con người, vấn đề xác định đúng và quán triệt
sâu sắc mục tiêu trong quá trình thực hiện là điều kiện quyết định cho kết quả
hoạt động.
Quản lý mục tiêu GDĐĐ cho học sinh phải bắt đầu từ xây dựng mục
tiêu một cách phù hợp. Đó là những phẩm chất cần có và có thể đạt được của
học sinh trong môi trường giáo dục nhà trường, phù hợp với đặc điểm học sinh
và điều kiện kinh tế - xã hội địa phương. Khi xây dựng mục tiêu giáo dục đạo
đức trước hết phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về nguồn lực con
người, về những chủ trương phát triển giáo dục, nhất là những quan điểm về
đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo đã được nêu trong Nghị quyết của Đảng.
Trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng, căn cứ quan trọng
khác trong xây dựng mục tiêu GDĐĐ phải là mục tiêu giáo dục quốc gia đã
được xác định cho từng cấp học, bậc học, được các cơ quan QLGD địa phương
triển khai. Khi cụ thể hoá mục tiêu giáo dục của mỗi trường cần phải tính đến
các điều kiện thực hiện, những đặc điểm kinh tế xã hội địa bàn để phản ánh
được nét độc đáo của địa phương, vừa thuận lợi cho tổ chức thực hiện hoạt
động giáo dục của nhà trường. Như vậy, quá trình GDĐĐ cho học sinh vừa
25



phấn đấu đạt được các tiêu chí chung của cả nước, vừa chứa đựng những giá
trị riêng, phản ánh điều kiện và đặc điểm riêng của nhà trường.
Trên cơ sở xác định và cụ thể hoá mục tiêu GDĐĐ, việc xây dựng kế
hoạch thực hiện các hoạt động giáo dục là nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của
quản lý. Đây là việc xác định những nhiệm vụ, những công việc cụ thể để đạt
được mục tiêu. Từng công việc, nhiệm vụ giáo dục phải xác định rõ người
chủ trì, lực lượng tham gia, các mốc thời gian hoàn thành, điều kiện, phương
tiện bảo đảm cho các hoạt động giáo dục. Trong kế hoạch cần xác định cả
những cách thức và tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục từng giai đoạn nói
chung cũng như đánh giá mức độ hoàn thành từng công việc, nhiệm vụ.
Quản lý kế hoạch GDĐĐ cho học sinh là quản lý toàn bộ khâu thiết kế
về các hoạt động GDĐĐ của nhà trường, bao gồm dự kiến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, dự kiến tổ chức lực lượng
giáo dục và điều kiện cơ sở, vật chất đảm bảo cho các hoạt động giáo dục. Kế
hoạch đó phải được phổ biến đến mọi cá nhân và tổ chức có liên quan.
Thực hiện kế hoạch GDĐĐ là hoạt động giáo dục cơ bản trong mối
quan hệ với các hoạt động giáo dục đào tạo chung của nhà trường. Thực tế
cho thấy, các thầy cô thường chú trọng trang bị kiến thức, quan tâm nhiều đến
kết quả nắm kiến thức, kỹ năng theo chương trình đào tạo nhiều hơn. Cùng
với nhận thức đúng yêu cầu GDĐĐ, công tác quản lý phải bố trí lực lượng
phù hợp, phân công trách nhiệm rõ ràng; bảo đảm các điều kiện về môi
trường tự nhiên và xã hội; bảo đảm các phương tiện, kinh phí để các hoạt
động giáo dục diễn ra đúng kế hoạch đã xác định.
1.2.2. Quản lý chương trình nội dung và hình thức, phương pháp giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Quản lý nội dung, chương trình GDĐĐ cho học sinh là quản lý toàn bộ
hệ thống các kiến thức, các giá trị, chuẩn mực, các kỹ xảo, kỹ năng cần trang


26


×