Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý bồi DƯỠNG đội NGŨ GIẢNG VIÊN lâm SÀNG ở học VIỆN QUÂN y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.84 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1 CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN LÂM SÀNG

1.1. Những khái niệm cơ bản

15
15

1.2. Nội dung quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm sàng ở Học
viện Quân y

27

1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên lâm sàng ở Học viện Quân y

32

Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIẢNG
VIÊN LÂM SÀNG Ở HỌC VIỆN QUÂN Y

36

2.1. Thực trạng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm sàng ở Học
viện Quân y



36

2.2. Thực trạng quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm sàng ở Học
viện Quân y

45

2.3. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và những kinh
nghiệm bước đầu quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm
sàng ở Học viện Quân y

54

Chương 3 YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIẢNG
VIÊN LÂM SÀNG Ở HỌC VIÊN QUÂN Y HIỆN NAY

60

3.1. Yêu cầu quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm sàng ở
Học viện Quân y hiện nay

60

3.2. Các biện pháp quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm
sàng ở Học viện Quân y hiện nay
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp

64
85


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

PHỤ LỤC

100


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta đã xác định mục tiêu cơ bản của GD&ĐT là nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo con người Việt Nam có tri thức,
có kỹ năng, có thái độ ứng xử đáp ứng được công cuộc đổi mới hiện nay; khẳng
định vai trò hết sức quan trọng của sự nghiệp GD&ĐT, trong đó chú trọng đến
công tác xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên trong hệ thống các
nhà trường. Trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định:
"Nhà giáo là nhân tố quyết định chất lượng và được xã hội tôn vinh”.
Học viện Quân y là nhà trường trực thuộc Bộ Quốc phòng có chức
năng đào tạo, nghiên cứu khoa học và điều trị, ứng dụng và triển khai những
thành tựu y học tiên tiến trên thế giới, đáp ứng yêu cầu nhân lực y tế cho
Quân đội và xã hội. Trong những năm gần đây, HVQY còn được Nhà nước,
Quân đội giao nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực y tế phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện nhận

thức được tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên, coi việc phát triển ĐNGV
là một giải pháp cơ bản, quyết định đến kết quả và chất lượng công tác giảng
dạy, điều trị và nghiên cứu khoa học, xây dựng Học viện chính quy, tiên tiến,
mẫu mực. Tầm quan trọng được thể hiện bằng quan điểm chỉ đạo:“Xây dựng
ĐNGV là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng hàng đầu của cấp ủy và chỉ huy
các cấp trong Học viện. Thường xuyên bổ sung đủ về số lượng, nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên, giáo viên. Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo,
nghiên cứu khoa học và điều trị của Học viện trong giai đoạn mới; xây dựng
HVQY trở thành trường trọng điểm quốc gia” [25]. Đảng ủy, Ban Giám đốc
Học viện đã chỉ đạo bồi dưỡng ĐNGV Học viện một cách toàn diện, cả về
phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ học vấn và năng lực công tác; chuẩn
hóa ĐNGVHVQY đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao, đảm bảo hợp
lý về cơ cấu. Tuy nhiên việc bồi dưỡng ĐNGV còn có những hạn chế: đảm

3


bảo số lượng, xây dựng lực lượng kế cận, nguồn giảng viên ở một số bộ môn
chưa tốt, chưa cân đối về cơ cấu độ tuổi, trình độ được đào tạo. Giảng viên có
học hàm học vị cao chưa nhiều, chưa đồng đều ở các chuyên ngành. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu còn chưa tích cực. Một số
giảng viên quá tập trung vào điều trị mà sao nhãng nhiệm vụ chính của mình
là đào tạo. Từ mặt trái của cơ chế thị trường và sự tác động ngoài xã hội làm
cho một số giảng viên thiếu nhiệt tình, say mê giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, ngại đổi mới phương pháp dạy học. Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ nhà
giáo chưa theo kịp nhu cầu, mặt bằng chung của xã hội. CSVC, trang thiết bị
ở một số bộ môn còn chưa đáp ứng được nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa
học và điều trị.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề quản lý bồi dưỡng
ĐNGVLS, thời gian qua Lãnh đạo, Ban giám đốc Học viện đã rất chú ý quan

tâm và có nhiều chủ trương, chính sách trong bồi dưỡng ĐNGVLS thông qua
các chính sách về tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm, thực hiện các
chính sách đãi ngộ,... nhằm tạo động lực, tăng sự gắn kết sự cống hiến của lực
lượng này với Học viện. Tuy nhiên, thực trạng bồi dưỡng ĐNGVLS và quản
lý bồi dưỡng cho đội ngũ này còn tồn tại khá nhiều bất cập, hạn chế trong
quản lý, bồi dưỡng ĐNGVLS của Học viện. Một trong những nguyên nhân
hạn chế của vấn đề này là do hoạt động bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi
dưỡng ĐNGVLS chưa thực hiện theo đúng qui trình, còn mang tính kinh
nghiệm, chưa khoa học; việc kết hợp các phương pháp, hình thức bồi dưỡng
ĐNGVLS chưa đa dạng; mặt khác chủ thể chưa tích cực, chủ động tự bồi
dưỡng để nâng cao phẩm chất và năng lực của bản thân,... Vấn đề bồi dưỡng
ĐNGVLS cần phải có sự thống nhất về nhận thức của các tổ chức và lực lượng
trong đội ngũ cán bộ quản lý, chỉ huy lãnh đạo Học viện. Xuất phát từ những
lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm
sàng ở Học viện Quân y” làm luận văn tốt nghiệp cao học.

4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nói chung và bồi dưỡng ĐNGV các
trường cao đẳng và đại học trong những năm gần đây được Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội quan tâm, là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa
học. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về bồi
dưỡng đội ngũ giảng viên. Tiêu biểu có các công trình của các tác giả như:
* Nghiên cứu trên thế giới
Ở các quốc gia, giáo dục đại học được nhà nước rất coi trọng. Do vậy,
nhiều chủ thể nghiên cứu thường nhận thấy sự cần thiết phải quan tâm đến trí
thức nhà giáo, nhất là đội ngũ giảng viên.
J.Vial (1993) nhà giáo dục Pháp, trong cuốn “Lịch sử và Thời sự về các

phương pháp sư phạm” đã xây dựng một quan điểm mới về đặc điểm lao động
của nhà giáo ở bậc đại học. J.Vial khẳng định: Người dạy không chỉ làm tốt
chức năng kép của mình là biết cách truyền đạt kiến thức người học cần mà
còn biết tổ chức quá trình nhận thức cho người học có thể tích cực, chủ động
chiếm lĩnh nội dung học. Để thực hiện vai trò “trọng tài, cố vấn” trong quá
trình dạy học, người giảng viên phải có phẩm chất đồng thời của nhà sư phạm
và nhà khoa học. [49].
UNESCO (1998) tại Hội nghị “Higher Education in the Twenty - First
Century - vision and action” đã thông qua Tuyên ngôn về giáo dục đại học
với việc xác định sứ mạng cốt lõi của hệ thống giáo dục đại học và chức năng,
nhiệm vụ của ĐNGV trong thế kỷ XXI.
Tuyên ngôn xác định, chất lượng trong giáo dục đại học là một khái
niệm đa chiều, bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nó: Giảng dạy,
chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học, ĐNGV và sinh viên, cấu trúc hạ
tầng và môi trường học thuật, trong đó, nhân tố người dạy giữ vai trò quyết
định nhất. Tuyên ngôn cũng chỉ rõ cần có một chính sách mạnh mẽ về phát
triển đội ngũ sao cho có thể nâng cao kỹ năng của họ, khuyến khích khả năng
sáng tạo, phát huy tính tích cực, chủ động trong nghiên cứu và giảng dạy.

5


J.A Kômenxky (1592 - 1670) là nhà giáo dục lỗi lạc - người đặt nền móng
cho lý luận dạy học hiện đại đã đánh giá cao vai trò của giáo dục và coi nghề dạy
học là nghề vinh quang nhất. Đòi hỏi người thầy phải được bồi dưỡng về năng lực
dạy học và nghệ thuật sử dụng các cách thức, thủ thuật khác nhau trong giảng dạy
nhằm giúp học sinh lĩnh hội tốt hơn những tri thức được trang bị. Ông cho rằng,
phương pháp giảng dạy muốn trở nên hấp dẫn, điều hiển nhiên là “không thể thiếu
năng khiếu dạy học”. Trong quá trình tổ chức dạy học, giáo viên cần chuẩn bị bài
giảng “ngắn gọn nhưng phải xúc tích. Mỗi quy tắc cần diễn đạt thật xúc tích,

nhưng lời lẽ phải rõ ràng và nên có thật nhiều thí dụ để học sinh nhận thức được
đầy đủ sự bổ ích rộng lớn của nó”.
Dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin các nghiên cứu của:
B.M. Chieplôp; X.L. Rubinstêin; X.I. Kixêgốp; A.N. Lêonchiev; N.X. Lâytex;
A.G. Côvaliov; Ph.N. Gônôbôlin; B.G. Ananhiev; A.V. Pêtrovxki và một số tác
giả khác đã có những nghiên cứu tương đối toàn diện về năng lực sư phạm. Đây là
những cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu năng lực dạy học của người giáo
viên. Nhưng đáng chú ý là A.S. Makarencô, nhà giáo dục nổi tiếng từng nhấn
mạnh rằng, những người làm công tác dạy học, giáo dục phải có phẩm chất và
năng lực, đặc biệt là tri thức và nghệ thuật dạy học, giáo dục. Để trở thành
nhà giáo dục chân chính, Ông yêu cầu phải thực sự coi trọng nghề nghiệp,
tích cực làm việc, rèn luyện trau dồi tri thức toàn diện.
Như vậy, các tác giả đã có những khẳng định tầm quan trọng của hoạt
động giảng dạy và đưa ra những yêu cầu về năng lực giảng dạy đối với người
thầy. Nhưng các ông chưa chỉ ra được con đường, cách thức để bồi dưỡng năng
lực dạy học cho người giáo viên cũng như chưa làm rõ các nội dung của năng
lực dạy học và người thầy cần làm thế nào để có được năng lực đó.
Trong thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản phát triển mạnh mẽ, đã có nhiều nhà
nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau đi sâu nghiên cứu về năng lực
nói chung và năng lực dạy học nói riêng.

6


* Nghiên cứu trong nước
- Nhóm nghiên cứu về năng lực dạy học của giảng viên
Trong lĩnh vực khoa học giáo dục, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về bồi dưỡng giảng viên của các tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khánh Bằng,
Phan Thanh Bình. Các tác giả quan niệm, năng lực dạy học là một phương
diện của năng lực sư phạm, có sự nhấn mạnh năng lực truyền đạt tri thức, khả

năng giúp người học nắm vững tri thức, biết vận dụng sáng tạo trong hoạt
động thực tiễn. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, sự thành công trong việc dạy
học và giáo dục học sinh đòi hỏi người thầy giáo phải có thế giới quan tiên
tiến, những phẩm chất đạo đức cao quý, trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp cao.
Nhóm tác giả Nguyễn Phúc Châu, Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Trí
khi nghiên cứu về chất lượng giáo dục đã chỉ ra, người thầy cần có kiến thức
sâu về chuyên môn; kiến thức chung tốt; có kỹ năng, kỹ thuật dạy học hiệu
quả và thái độ tích cực đối với nghề nghiệp. Giáo viên cần có năng lực dạy
học: "người giáo viên cần có trí tưởng tượng và óc sáng tạo để làm cho bài
giảng sống động, hấp dẫn đối với học sinh"[7].
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính
cho rằng năng lực dạy học bao gồm các năng lực cụ thể như: năng lực hiểu
biết kiến thức chuyên môn; năng lực hiểu người học; năng lực chế biến tài
liệu học tập; năng lực sử dụng kỹ thuật dạy học; năng lực ngôn ngữ [36].
Tác giả Trần Khánh Đức với công trình nghiên cứu về đề tài:“Chính
sách quốc gia về phát triển ĐNGV đại học Việt Nam” đã đi sâu nghiên cứu
làm rõ: mạng lưới giáo dục đại học, so sánh chính sách quốc gia trước và sau
đổi mới, mô hình tổng thể của người giảng viên đại học, các chính sách nhà
nước Việt Nam đối với nhà giáo, chiến lược phát triển ĐNGV đại học Việt
Nam [11].

7


- Nhóm công trình nghiên cứu về bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
Tác giả Bùi Minh Hiền với đề tài: “Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý giáo dục” đã đề cập đến những vấn đề cơ bản trong xây dựng phát
triển đội ngũ giáo viên. Theo tác giả, xây dựng phát triển ĐNGV phải coi
trọng ba vấn đề chủ yếu: đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng và đồng bộ

về cơ cấu. Trong đó, chuẩn về chất lượng giáo viên cần đạt chuẩn ở ba khía cạnh:
chuẩn về trình độ chuyên môn sư phạm (học vấn), chuẩn về trình độ nghiệp vụ sư
phạm, chuẩn về đạo đức tư cách người giáo viên [21].
Tác giả Trần Kiểm, khi bàn về bồi dưỡng ĐNGV trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã nhấn mạnh: Muốn bồi dưỡng phát
triển ĐNGV phải xác định được trình độ hiện có của đội ngũ người thầy giáo
trong tương lai; yêu cầu đặt ra cho sự phát triển ĐNGV trong thời kỳ mới trở
thành những thách thức không nhỏ. Việc vượt qua những thách thức đó, đến lượt
nó trở thành nhân tố quyết định chất lượng giáo dục theo yêu cầu xã hội. Việc
bồi dưỡng phát triển ĐNGV là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội, trong
đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo [30; 31].
Công trình khoa học: “Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học
xã hội nhân văn trong quân đội hiện nay” (2005), do tác giả Đặng Đức Thắng
chủ nhiệm đã khẳng định vị trí, vai trò đội ngũ nhà giáo, đồng thời xây dựng một
hệ thống tiêu chí đánh giá cũng như đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng và phát
triển ĐNGV khoa học xã hội nhân văn đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá ở các nhà
trường quân đội hiện nay.
Tác giả Trần Đình Tuấn nghiên cứu biện pháp “Chuẩn hoá chất lượng
đội ngũ nhà giáo Quân đội” từ việc xác định cấu trúc nhân cách của nhà giáo
Quân đội bao gồm các phẩm chất nhân cách của người chỉ huy và các phẩm chất
nhân cách của nhà sư phạm để khi phối hợp hoạt động quân sự và hoạt động sư
phạm sẽ tạo ra loại hình hoạt động mới là hoạt động sư phạm quân sự, làm nảy
sinh những nét tính cách mới, những phẩm chất mới... Trên cơ sở đó tác giả xác

8


định một số biện pháp chuẩn hoá chất lượng đội ngũ nhà giáo Quân đội cho phù
hợp với tình hình mới và xu thế đổi mới giáo dục.
- Nhóm công trình nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

Luận án tiến sĩ “Quản lý bồi dưỡng ĐNGV các trường đại học ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học” (2010) của
Nguyễn Văn Đệ đã đề ra giải pháp như Liên kết đội ngũ tạo mạng lưới giữa các
trường đại học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; bồi dưỡng nâng cao phẩm chất
và năng lực, điều chỉnh cơ cấu và tạo động lực làm việc cho ĐNGV [10].
Luận văn thạc sĩ “Những giải pháp bồi dưỡng ĐNGV trường Đại học
Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện
nay” (2008) của Nguyễn Thị Xoan đã đề cập việc phát triển ĐNGV để đáp
ứng mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo của nhà trường đại học, nhu cầu về
nguồn nhân lực của xã hội. Trong đó phải chú ý toàn diện về số lượng, chất
lượng đội ngũ: yếu tố cơ cấu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, phẩm
chất đạo đức. Công tác quản lý và phát triển ĐNGV là quá trình quy hoạch,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo môi trường làm việc để đảm
bảo sự yên tâm yêu nghề và tâm huyết với nghề nghiệp. Có chính sách ưu đãi,
thu hút và duy trì ĐNGV làm việc có chất lượng, hiệu quả đáp ứng yêu cầu
phát triển giáo dục đào tạo của nhà trường giai đoạn hiện nay [54].
Luận văn thạc sĩ “Bồi dưỡng ĐNGV Trường Đại học Kỹ thuật Hậu cần Công an nhân dân” (2011) của Nguyễn Văn Đường đã nêu được
một số nội dung cần thiết cho việc phát triển ĐNGV của trường đại học mới
được nâng cấp từ trường trung cấp. Luận văn đã chỉ ra được một số nguyên
nhân và đề xuất giải pháp phát triển ĐNGV như: Đổi mới, hoàn thiện quy
hoạch đội ngũ giảng viên; Thực hiện tốt quy trình xét duyệt giảng viên…
[14].
Luận văn thạc sĩ “Quản lý bồi dưỡng ĐNGV Trường Đại học Đại Nam
giai đoạn 2011-2015” (2014) của Trịnh Thị Mai từ thực trạng phát triển

9


ĐNGV của Trường Đại học Đại Nam đã nêu lên một số giải pháp phát triển
ĐNGV của một trường đại học dân lập là: Nâng cao nhận thức về nhiệm vụ

và quyền hạn của người giảng viên; xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển
ĐNGV nhằm đảm bảo đủ số lượng, chuẩn về chất lượng và đồng bộ về cơ
cấu; xây dựng tiêu chí tuyển chọn giảng viên; sử dụng ĐNGV hợp lý, khoa
học, đảm bảo đúng chuyên môn, nghiệp vụ; xây dựng tiêu chí đánh giá giảng
viên; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên; xây dựng các chính sách
đảm bảo phát triển đội ngũ giảng viên [39].
Quản lý bồi dưỡng ĐNGV không chỉ được thể hiện qua các công trình
nghiên cứu mà còn được nhiều tác giả đề cập thông qua các bài báo khoa học
đăng trên các tạp chí, tiêu biểu như: “Đổi mới cách dạy và cách học các môn
nghiệp vụ trong trường sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo
viên” của Nguyễn Văn Khải; “Mấy vấn đề xây dựng đội ngũ nhà giáo Quân
đội trong tình hình mới dưới ánh sáng nghị quyết của Đảng” của Nguyễn
Hùng Oanh; “Xây dựng, phát triển ĐNGV đáp ứng yêu cầu mới của đào tạo
quân sự” của Ngô Minh Tuấn; “Bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn cho GV,
giáo viên trẻ ở các nhà trường Quân đội” của Nguyễn Ngọc Sáng; “Rèn
luyện kỹ năng giao tiếp sư phạm cho đội ngũ GV, giáo viên trẻ” của Đặng
Văn Khương, Đặng Thị Hồng Thắng; “Chuẩn hóa chất lượng đội ngũ nhà
giáo Quân đội” của Trần Đình Tuấn ...
Từ sự khái quát những nghiên cứu liên quan đến quản lý, bồi dưỡng
ĐNGV chúng tôi nhận thấy:
Một là, những nghiên cứu đều cho rằng bồi dưỡng ĐNGVvà quản lý
bồi dưỡng ĐNGV giữ vai trò quan trọng, là biện pháp có hiệu quả nhất để
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Hai là, để nâng cao chất lượng GD&ĐT phải bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo theo hướng chuẩn hoá, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ số lượng, đồng

10


bộ về cơ cấu. Đặc biệt là cần nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,

lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, đào tạo.
Ba là, mỗi công trình nghiên cứu căn cứ vào tình hình, đặc điểm, nhiệm vụ của
nhà trường, địa phương mà đi sâu vào những vấn đề cụ thể có tính chất đặc thù của từng
nhà trường, địa phương. Từ những nghiên cứu, các tác giả đề xuất hệ thống biện pháp
với mong muốn có những đóng góp nhất định trong xây dựng, phát triển ĐNGV đáp
ứng yêu cầu của cơ sở cơ sở đào tạo, địa phương nói riêng và sự nghiệp giáo dục đào tạo
của đất nước nói chung.
Bốn là, bồi dưỡng ĐNGV và quản lý bồi dưỡng ĐNGV đã được quan tâm
đến ở nhiều góc độ, đã cung cấp những khái niệm, các biện pháp quản lý phát triển
đội ngũ giảng viên. Những nghiên cứu này có thể áp dụng vào việc quản lý bồi
dưỡng ĐNGV trong các học viện, nhà trường nói chung và ở HVQY nói riêng. Tuy
nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY,
nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù ngành y Quân đội. Vấn đề cấp thiết đặt ra là
căn cứ vào các lý luận bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS, tìm hiểu thực
trạng ĐNGVLS ở HVQY, đề xuất các biện pháp quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế cho Quân đội và Quốc gia.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý bồi dưỡng ĐNGV, từ
đó đề xuất các biện pháp quản lý ĐNGVLS ở HVQY góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo nhân lực y tế, nghiên cứu khoa học y học và điều trị người bệnh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng
ĐNGVLS ở HVQY.
Nghiên cứu, khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng bồi dưỡng và thực
trạng quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY.

11



Đề xuất các biện pháp quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Bồi dưỡng ĐNGV ở HVQY.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bồi dưỡng quản
lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản
lý nhằm nâng cao chất lượng ĐNGVLS hiện nay.
Đối tượng khảo sát là cán bộ quản lý, các bộ môn, khoa, giảng viên lâm
sàng và học viên của HVQY. Thời gian khảo sát, các số liệu nghiên cứu từ
năm 2011 đến năm 2014.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY phụ thuộc vào nhiều yếu tố
Nếu trong thực tiễn quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS, các chủ thể quản lý đề xuất
và thực hiện tốt các biện pháp như: Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng sư phạm; xây dựng và thực hiện tốt kế
hoạch bồi dưỡng; đa dạng hóa nội dung, hình thức, phương pháp quản lý bồi
dưỡng; phát huy tính tích cực, tự giác của giảng viên trong tự bồi dưỡng; thực
hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng thì chất lượng, hiệu quả
bồi dưỡng sẽ tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng ĐNGVLS của Học viện
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học
viện trong giai đoạn mới.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác -Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của


12


Đảng Cộng sản Việt Nam về GD&ĐT nói chung và về bồi dưỡng, quản lý bồi
dưỡng ĐNGV nói riêng. Đồng thời đề tài vận dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống cấu trúc, lịch sử - lôgíc và quan điểm thực tiễn để phân tích, đánh giá, xem xét các vấn
đề liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu
thực tiễn,... để luận giải các nhiệm vụ của đề tài, cụ thể là:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các tài liệu, các giáo trình, sách tham
khảo, tài liệu về khoa học quản lý và quản lý giáo dục; các công trình nghiên
cứu, báo khoa học có liên quan đến đề tài đã được công bố và đăng tải trên
các tạp chí, báo, kỷ yếu khoa học, hội thảo; đặc biệt là những tài liệu liên
quan đến bồi dưỡng, phát triển ĐNGVLS.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các bảng hỏi với đối tượng cán bộ quản lý, các lực lượng y tế, đội
ngũ y, bác sĩ và nhân viên của HVQY, nhằm thu được kết quả nghiên cứu.
Tiến hành xin ý kiến chuyên gia, tổng kết kinh nghiệm về bồi dưỡng
ĐNGVLS ở HVQY để rút ra những kết luận cần thiết.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động lãnh đạo, tác phong chỉ huy,
quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; hoạt động dạy học của giảng
viên; học tập của học viên để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp tọa đàm, trao đổi, phỏng vấn: Tọa đàm, trao đổi, phỏng
vấn đối với cán bộ quản lý, giảng viên và học viên từ đó rút ra những kết luận
cho nhiệm vụ nghiên cứu.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu từ những vấn đề đã và
đang diễn ra nhằm đúc rút thành những kinh nghiệm về quản lý bồi dưỡng
ĐNGVLS ở HVQY.


13


Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý
về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới việc nghiên cứu đề tài; học
tập trao đổi kinh nghiệm các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội.
- Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê để xử lý kết quả khảo sát nhằm rút ra các kết
luận khoa học khái quát cho đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu thành công đề tài có ý nghĩa quan trọng trong bồi dưỡng
ĐNGVLS của Học viện, giúp cho các chủ thể quản lí có tầm nhìn trong tổ chức
quy hoạch phát triển ĐNGVLS hiện tại cũng như tương lai.
Có thể làm tài liệu nghiên cứu giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các
học viện trường đại học có đào tạo nhân lực y tế.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương (9 tiết); Kết luận và kiến nghị; Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.

14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÂM SÀNG
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Giảng viên lâm sàng
Nhà giáo là người lao động trí óc chuyên nghiệp, thực hiện nhiệm vụ giảng
dạy trong các nhà trường phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp. Luật Giáo dục 2005

(sửa đổi năm 2009), đã chỉ rõ: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo
dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác”, “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo
dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi là giảng viên” [38, tr. 94]. Như vậy, có
thể hiểu, giảng viên là những người làm công tác giảng dạy tại các cơ sở giáo dục
cao đẳng, đại học và sau đại học.
Giảng viên là nhân tố quyết định chất lượng GD&ĐT trong nhà trường.
Chất lượng GD&ĐT nói chung và ở từng học sinh, sinh viên nói riêng là kết
quả tổng hợp của rất nhiều yếu tố: Nguồn lực đào tạo; chương trình, nội dung,
phương pháp đào tạo; môi trường học tập, trình độ quản lý, phẩm chất và
năng lực đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, giảng viên luôn là người làm việc
trực tiếp với học sinh, sinh viên là người điều khiển quá trình dạy học, là yếu
tố chủ đạo trong quá trình giáo dục; do vậy giảng viên có vai trò quyết định
chất lượng giáo dục.
Nhiệm vụ và quyền của giảng viên được quy định rõ trong điều 55 của
Luật giáo dục đại học 2012: Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và
thực hiện đầy đủ, có chất lượng chương trình đào tạo; nghiên cứu, phát triển
ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo;
định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy; giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của
giảng viên; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người
học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; tham gia quản lý và

15


giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia công tác đảng, đoàn thể và các công
tác khác; được ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ sở
giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật;
được bổ nhiệm chức danh của giảng viên, được phong tặng danh hiệu Nhà
giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và được khen thưởng theo quy định của pháp

luật; các nhiệm vụ và quyền khác theo quy định của pháp luật.
Lâm sàng có nghĩa là “giường bệnh”, còn trong ngành y thì lâm sàng là
thuật ngữ y học dùng để chỉ hành động thăm, khám, điều trị cho bệnh nhân
trực tiếp tại giường bệnh. Lâm sàng là một khâu quan trọng trong quá trình
khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người bệnh.
Ở các trường đại học y khoa, sau giai đoạn đào tạo tiền lâm sàng, giai
đoạn mà sinh viên y khoa được học và thực hành trên những mô hình có đáp
ứng như con người tùy theo các tình huống cần xử trí, họ bước vào giai đoạn
đào tạo lâm sàng. Đó là giai đoạn đào tạo, sinh viên y khoa được trực tiếp tiếp
xúc với người bệnh, vận dụng những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đã được
trang bị và rèn luyên vào thăm khám, điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Chính
vì vậy, đào tạo lâm sàng luôn được các trường đại học y quan tâm đặc biệt.
Những giảng viên giảng dạy trong giai đoạn đào tạo lâm sàng được gọi là
giảng viên lâm sàng.
Như vậy có thể hiểu: Giảng viên lâm sàng HVQY là những người giảng
dạy các môn lâm sàng, cận lâm sàng tại các cơ sở điều trị trong và ngoài Quân đội,
phục vụ cho việc đào tạo nhân lực y tế cho Quân đội và Quốc gia.
Giảng viên lâm sàng HVQY phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt
đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Có tinh thần trách nhiệm
trong công tác, yêu ngành, yêu nghề, có trình độ lý luận chính trị và chuyên môn
nghiệp vụ cao, có năng lực nghiên cứu khoa học, tư duy sáng tạo, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ giảng dạy các bậc học, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao [25]. Giảng viên lâm sàng của HVQY phải giảng dạy có chất lượng

16


theo mục tiêu, chương trình đào tạo của nhà trường; nghiên cứu, phát triển ứng
dụng khoa học; điều trị bệnh nhân; học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy.

Giảng viên lâm sàng HVQY đồng thời là người chiến sĩ, người thầy giáo và
người thầy thuốc. Đây là nét đặc thù riêng của giảng viên lâm sàng của HVQY.
* Đặc điểm dạy học lâm sàng
Dạy lâm sàng là một hình thức dạy thực hành nghề của các trường Y,
thông qua người bệnh, biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng, triệu chứng, hội chứng bệnh
lý điển hình mà học viên được rèn luyện một số kỹ năng lâm sàng đầu tiên của
mình.
Dạy lâm sàng là một trong những mục tiêu đào tạo của HVQY. Sau khi
học viên đã được trang bị kiến thức lý thuyết lâm sàng, từ đó học viên ứng dụng
những kiến thức đó vào thực tế bệnh nhân. Đây là giai đoạn rất quan trọng như
giao ban huấn luyện, minh họa lâm sàng, hướng dẫn đầu giường, điểm bệnh, thảo
luận lâm sàng… là những hình thức dạy thực hành lâm sàng, nhằm mục đích giúp
học viên vận dụng những kiến thức lý thuyết vào thực tế tổ chức khám bệnh và
điều trị cho những bệnh nhân.
Giảng dạy lâm sàng là khâu vô cùng quan trọng, là yếu tố quyết định trong
chương trình đào tạo bác sĩ. Nếu học viên không đáp ứng được kỹ năng lâm sàng
cần thiết thì sẽ không có bác sĩ lâm sàng giỏi.
* Yêu cầu đối với giảng dạy lâm sàng
Giảng viên lâm sàng phải có năng lực giảng dạy, truyền đạt kỹ năng thực
hành cho học viên, có phương pháp, quy trình giảng dạy phù hợp, yêu nghề..
Giảng viên lâm sàng phải có các kỹ năng cần thiết trong đào tạo – giảng
dạy lâm sàng như: Kỹ năng giao tiếp với người bệnh; kỹ năng khai thác thông tin
(hỏi bệnh), bảo mật và cung cấp thông tin; kỹ năng thăm khám phát hiện triệu
chứng; kỹ năng đề xuất xét nghiệm; kỹ năng ra quyết định chẩn đoán; kỹ năng đề

17


xuất phương pháp điều trị và xử lý thuốc hợp lý; các kỹ năng thực hiện các thủ
thuật cơ bản...

Đặc thù của giảng dạy lâm sàng đó là phần lý thuyết liên quan rất rộng bao
gồm: Khoa học cơ bản, y học cơ sở, triệu chứng học, bệnh học, điều trị học...vận
dụng các tình huống cụ thể, trên người bệnh phong phú và đa dạng, để có thái độ
xử trí đúng đắn. Vì vậy, công tác đào tạo học viên Y khoa được xem như một
trong những ngành đào tạo khó nhất, có những yêu cầu rất nghiêm ngặt.
* Tiêu chuẩn GVLS của HVQY
Đối với trợ giảng (giảng dạy thực hành): Có bằng tốt nghiệp đại học dài
hạn chính quy loại khá trở lên.
Đối với giảng viên (giảng dạy cả lý thuyết và thực hành): có bằng tốt
nghiệp thạc sĩ trở lên; đối với giảng viên giảng dạy chuyên khoa I, chuyên
khoa II phải có bằng chuyên khoa II; đối với giảng viên giảng dạy thạc sĩ, tiến
sĩ phải có bằng tiến sĩ.
Sử dụng thành thạo ít nhất một loại ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên
môn và giao tiếp được bằng tiếng Anh (được tiểu ban ngoại ngữ - tin học của Học
viện đánh giá đạt hoặc có chứng chỉ ngoại ngữ tiếng Anh Toefl BPT từ 450 điểm,
Toefl IBP từ 45 điểm, IELTS từ 4,5 điểm, chứng chỉ B1 Châu Âu trở lên hoặc đã
được đào tạo từ trình độ đại học trở lên tại nước ngoài).
Có tham gia nghiên cứu khoa học hoặc sáng kiến cải tiến kĩ thuật ở cấp
Bộ môn. Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và thời gian công tác
tại Bộ môn, Khoa ít nhất là 2 năm đối với trợ giảng; là trợ giảng ít nhất 2 năm
đối với giảng viên, đối với cán bộ đã tốt nghiệp bác sĩ nội trú, chuyên khoa II,
thạc sĩ, tiến sĩ, có thể được xem xét thông qua giảng viên sớm hơn quy định
nếu cấp uỷ, chỉ huy Bộ môn đề nghị nhưng không dưới ½ thời gian quy định
(trợ giảng > 1 năm, giảng viên > 2 năm tính từ khi về Bộ môn, Khoa). Tham
gia dự giờ giảng của Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm bộ môn, khoa ít nhất 3 lần.

18


Nhiệm vụ cụ thể của giảng viên lâm sàng: Giảng dạy có chất lượng

toàn bộ chương trình môn học bậc đại học theo phân công của chủ nhiệm
bộ môn; tham gia biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo môn học;
hướng dẫn về chuyên môn và sư phạm cho giảng viên mới; tham gia
đánh giá kết quả môn học; chủ trì hoặc tham gia các đề tài nghiên cứu
khoa học; tham gia quản lý đào tạo theo yêu cầu của bộ môn, khoa và Học viện;
thực hiện các hoạt động đào tạo như dự giờ, bình giảng, trau dồi kinh
nghiệm và thường xuyên học tập rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ
năng lực mọi mặt của bản thân.
1.1.2. Đội ngũ giảng viên lâm sàng
Theo Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học: “Đội ngũ là tập hợp gồm
một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng”.
Như vậy, ở một nghĩa chung nhất chúng ta có thể hiểu: Đội ngũ là tập hợp một
số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng,
có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung mục đích xác định; họ
làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần cụ thể.
Hay nói cách khác, đội ngũ là một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành một
lực lượng để thực hiện những mục đích nhất định.
Khái niệm đội ngũ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau.
Trong đời sống xã hội, thuật ngữ “đội ngũ” dùng để chỉ những người có
cùng nghề nghiệp, được tổ chức tập hợp thành một lực lượng để hoạt động
như: Đội ngũ trí thức, đội ngũ giáo viên, đội ngũ công nhân viên chức, đội ngũ
những người lao động. Trong tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội đội ngũ bao gồm
những cá nhân được đặt ở một vị trí nhất định nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ hoạt động của tổ chức ấy như: Đội ngũ đảng viên, đội ngũ công chức Nhà
nước, đội ngũ cán bộ quân đội, đội ngũ đoàn viên thanh niên. Trong giáo dục,

19



khái niệm đội ngũ được sử dụng rộng rãi như: Đội ngũ giảng viên, đội ngũ
CBQL, đội ngũ sinh viên, đội ngũ học viên…
Trong mỗi tổ chức, cá nhân được đặt ở một vị trí nhất định nhằm thực
hiện một hoặc một số chức năng, nhiệm vụ nào đó của tổ chức. Hoạt động của
họ là một trong những yếu tố tạo nên hoạt động và kết quả hoạt động của tổ
chức. Mỗi người thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình là điều kiện để
người khác trong tổ chức thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của họ. Như vậy,
muốn một tổ chức nào đó hoạt động có hiệu quả phải có một đội ngũ đồng bộ.
Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng: "Đội ngũ giáo viên trong ngành
giáo dục là tập thể người, bao gồm cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, nhân
viên; nếu chỉ đề cập đến đặc điểm của ngành thì đội ngũ đó chủ yếu là đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục" [12, tr.16].
Nhìn chung, cách quan niệm về đội ngũ giáo viên được hiểu khá rộng
đó là tập hợp người làm nghề dạy học, giáo dục, được tổ chức thành một lực
lượng, cùng chung nhiệm vụ là thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập
thể đó, tổ chức đó.
Đội ngũ giảng viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo
dục ở các trường đại học. Họ được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung
một nhiệm vụ, có đầy đủ các tiêu chuẩn của một nhà giáo cùng thực hiện các
nhiệm vụ và được định hướng các quyền lợi theo Luật Giáo dục và các Luật
khác được Nhà nước quy định. ĐNGV là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá
trình giáo dục đại học nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, bồi
dưỡng và phát triển nhân tài cho đất nước.
Để tạo thành đội ngũ, trước hết phải có một số lượng giảng viên nhất
định. Việc xác định số lượng không nhất thiết không phải theo ý muốn chủ
quan của một cá nhân nào mà phải xuất phát từ nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và
quy định của cấp trên về việc tổ chức lao động sư phạm của mỗi nhà trường.
Chất lượng ĐNGV được thể hiện ở chất lượng của từng người. Đó là phẩm

20



chất nhân cách, trình độ, năng lực của nhà sư phạm. Tuy nhiên, chất lượng của
ĐNGV không chỉ là sự cộng lại đơn thuần của các phẩm chất cá nhân của mỗi
giảng viên mà là tổng hòa của các phẩm chất của cả đội ngũ. Thể hiện ở những
đặc trưng của một tập thể sư phạm, tập thể khoa học vững mạnh; đó là bầu
không khí chính trị, tinh thần, chuyên môn tốt; ở việc xây dựng tập thể đơn vị
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chất lượng ĐNGV còn được thể
hiện có một cơ cấu hợp lý, bao gồm cơ cấu về tuổi đời và tuổi nghề; cơ cấu về
trình độ; cơ cấu về học hàm, học vị; cơ cấu về chức danh.
Như vậy, ĐNGV là tập hợp những người có đầy đủ tiêu chuẩn đạo đức,
chuyên môn và nghiệp vụ theo quy định như phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt;
đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khoẻ theo
yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng.
Từ những nghiên cứu trên, có thể quan niệm: ĐNGVLS của HVQY là
một tập hợp những người giảng dạy các môn lâm sàng, cận lâm sàng, tại các cơ sở
điều trị trong và ngoài Quân đội, phục vụ cho việc đào tạo nhân lực y tế cho Quân
đội và Quốc gia.
Đội ngũ giảng viên lâm sàng HVQY gồm tập hợp những người giảng dạy các
môn lâm sàng, cận lâm sàng có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành
với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có tinh thần trách nhiệm trong đào tạo, yêu
ngành, yêu nghề, có trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cao, có năng
lực nghiên cứu khoa học, tư duy sáng tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy.
ĐNGVLS của HVQY phải bảo đảm số lượng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao, đảm bảo hài hòa về cơ cấu đội ngũ.
1.1.3. Bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm sàng
Khái niệm bồi dưỡng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu và
đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường quan niệm: “Bồi dưỡng có thể coi là
quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một

cấp học, bậc học và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ” [13, tr. 58].

21


Trong bài viết: “Quản lý nhân sự trong giáo dục, đào tạo”, tác giả Mạc Văn
Trang có nêu: “Bồi dưỡng là nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng lên một bước
mới”
Unesco định nghĩa: Bồi dưỡng có nghĩa là nâng cao trình độ nghề
nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao
kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng
nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Bồi dưỡng được hiểu là "Làm cho tăng thêm trình độ, năng lực hoặc
phẩm chất, sức khỏe” với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Bồi dưỡng
không đòi hỏi chặt chẽ chính qui như đào tạo và được thực hiện trong thời
gian ngắn. Như vậy đối tượng bồi dưỡng là những người đã được đào tạo và
đã có trình độ chuyên môn nhất định. Bồi dưỡng là quá trình bổ sung kiến
thức, kĩ năng (những nội dung liên quan đến nghề nghiệp) để nâng cao trình
độ trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn nhất định. Giúp đối tượng bồi
dưỡng có cơ hội củng cố, mở rộng hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công
việc đang làm.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: Bồi dưỡng ĐNGVLS là tổng
hợp các biện pháp tác động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể bồi
dưỡng đến ĐNGVLS để bổ sung, cập nhật kiến thức, năng lực sư phạm, năng
lực chuyên môn, năng lực nghiên cứu khoa học, nâng cao phẩm chất chính trị, y
đức, đáp ứng yêu cầu nhân lực y tế của Quân đội và Quốc gia.
Mục đích bồi dưỡng: Là nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện phẩm
chất, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của người giảng viên lâm sàng, góp phần
phát triển ĐNGV của HVQY.

Chủ thể tiến hành hoạt động bồi dưỡng ĐNGVLS là bộ máy lãnh đạo,
chỉ huy của cơ quan, đơn vị. Cụ thể là Đảng uỷ, lãnh đạo cơ quan, bộ môn.

22


Mỗi chủ thể của quá trình bồi dưỡng có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, với nội
dung tổ chức bồi dưỡng phát triển khác nhau căn cứ vào tính chất đặc điểm
của cơ quan, đơn vị.
Đối tượng bồi dưỡng là ĐNGVLS - những giảng viên đang trực tiếp giảng dạy
ở các bộ môn lâm sàng, cận lâm sàng của HVQY. Họ vừa là đối tượng bồi dưỡng,
vừa là chủ thể của quá trình bồi dưỡng. Quá trình bồi dưỡng chỉ thực sự đạt
hiệu quả khi người giảng viên biến quá trình bồi dưỡng thành tự bồi dưỡng.
Nội dung bồi dưỡng hết sức phong phú và đa dạng, có tính toàn diện, từ
những tri thức cơ bản và tri thức chuyên môn nghiệp vụ; kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp; năng lực giảng dạy, năng lực nghiên cứu khoa học; các hệ giá trị nghề
nghiệp; nghệ thuật giao tiếp; kỹ năng hoạt động chính trị xã hội; y đức và các
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nhà giáo...của ĐNGVLS…
Cách thức, con đường bồi dưỡng phát triển được thực hiện bằng nhiều
hình thức đa dạng phong phú như: Bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng theo định
kỳ, bồi dưỡng theo kế hoạch, bồi dưỡng theo yêu cầu của trên nhằm đạt chuẩn
và trên chuẩn…
Bồi dưỡng ĐNGV nói chung và giảng viên lâm sàng nói riêng là chu trình
kép kín và liên tục bao gồm: Xây dựng kế hoạch quản lý bồi dưỡng. Chủ thể
quản lý căn cứ vào kế hoạch, chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên, tình hình cụ thể của
các đơn vị, xây dựng kế hoạch quản lý bồi dưỡng phát triển nhân lực đơn vị
mình. Trong kế hoạch phải xác định rõ, số lượng, chất lượng nhân lực; cơ cấu tổ
chức, nhiệm vụ, tiến trình hoạt động và các điều kiện phương tiện đảm bảo cho
hoạt động bồi dưỡng thực hiện tốt các mục tiêu đã xác định.
Theo sự phân công, phân cấp quản lý, có thể xây dựng kế hoạch bồi

dưỡng dài hạn, kế hoạch quản lý ngắn hạn, kế hoạch bồi dưỡng theo chu trình.
1.1.4. Quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lâm sàng Học viện Quân y

23


Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, quản lý là “chức năng và hoạt động của
hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kĩ thuật, xã hội), bảo đảm giữ
gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện
những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó” [29, tr. 580].
Hiện nay, quản lý được định nghĩa rõ hơn. Theo tác giả Nguyễn Ngọc
Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập
thể của những người lao động (nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện
được những mục tiêu dự kiến” [44, tr.87].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Công tác quản lý lãnh đạo một tổ chức xét
cho cùng là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: Quản và Lý. Quá trình
“Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái ổn định, quá trình “Lý”
gồm việc sửa sang sắp xếp, đổi mới đưa vào thế “phát triển” [3, tr.89].
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều chỉnh các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với
qui luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng ý chí của người quản lý.
Quản lý là sự tác động của cơ quan quản lý vào đối tượng quản lý để
tạo ra một sự chuyển biến toàn bộ hệ thống nhằm đạt đến một mục đích nhất
định. Tóm lại, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, song về cơ
bản đều cho rằng: Quản lý là một loại hoạt động xã hội, luôn gắn liền với một
nhóm người hay một tổ chức xã hội nào đó. Bản chất của hoạt động quản lý,
là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông
qua các chức năng quản lý là kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra giúp
cho hệ thống ổn định, thích ứng, tăng trưởng và phát triển.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: Quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS

của HVQY là sự tác động của cán bộ quản lý, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Học
viện đến quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ bồi dưỡng,
đánh giá kết quả bồi dưỡng nhằm tạo ra sự biến đổi về chất lượng ĐNGVLS đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như phát triển lâu dài.

24


Mục tiêu quản lý bồi dưỡng là tạo dựng môi trường và những điều kiện
thuận lợi để thực hiện tốt mục tiêu, kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho ĐNGVLS.
Chủ thể quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS gồm chủ thể trực tiếp và chủ thể
gián tiếp. Chủ thể trực tiếp là Ban Giám đốc Học viện các cơ quan chức năng
quản lý GD&ĐT, quản lý cán bộ, bộ môn. Chủ thể gián tiếp quản lý bồi
dưỡng ĐNGVLS là cơ quan quản lý cấp trên.
Nội dung quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS gồm những vấn đề cơ bản sau:
Quản lý mục tiêu, kế hoạch bồi dưỡng; quản lý chủ thể bồi dưỡng; quản lý đối
tượng bồi dưỡng; quản lý nội dung bồi dưỡng; quản lý hình thức, phương pháp
bồi dưỡng; quản lý điều kiện, phương tiện bồi dưỡng; quản lý kiểm tra, đánh
giá kết quả bồi dưỡng.
Hình thức, phương pháp quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS: Bản chất của
quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS là việc sử dụng những tác động quản lý của các
lực lượng sư phạm trong Nhà trường lên quá trình bồi dưỡng một cách thích
hợp, để quá trình này vận hành một cách chặt chẽ khoa học hướng vào mục
tiêu bồi dưỡng giảng viên đã định. Các tác động của các lực lượng quản lý rất
đa dạng, có thể là những biện pháp hành chính như các chỉ thị, mệnh lệnh, kế
hoạch, kiểm tra giám sát, đồng thời, có thể bao gồm cả những biện pháp tâm
lý giáo dục, động viên, khuyến khích, khen thưởng. Thông qua những tác
động đó nhằm phát huy vai trò trách nhiệm của các lực lượng trong thực hiện
quá trình bồi dưỡng giảng viên, đảm bảo nội dung, hình thức, phương pháp

bồi dưỡng được tổ chức khoa học.
Quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY ngoài những đặc trưng chung của
hoạt động quản lý bồi dưỡng nói chung, quản lý quá trình bồi dưỡng ĐNGVLS
của HVQY còn bị chi phối bởi các yếu tố cụ thể tạo nên những đặc trưng riêng
của quá trình này, bao gồm:
Một là, quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS luôn gắn chặt với mục tiêu, yêu
cầu GD&ĐT của HVQY, Bệnh viện Quân y 103, Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu

25


Trác… và quan hệ chặt chẽ với quá trình bồi dưỡng chính trị - tư tưởng; bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức, y đức và văn hóa; bồi dưỡng phong cách, tác
phong công tác; bồi dưỡng ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật; bồi dưỡng
năng lực nghiên cứu khoa học; bồi dưỡng giá trị cộng đồng, giá trị truyền
thống cho đội ngũ giảng viên. Mục tiêu của các quá trình nêu trên là nâng cao
chất lượng toàn diện cho ĐNGV nhằm đạt chuẩn chức danh nhà giáo theo
quy định của Bộ Quốc phòng và Bộ GD&ĐT.
Hai là, nội dung bồi dưỡng ĐNGVLS của HVQY vừa là nội dung cơ bản
trong chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, vừa là nội dung bồi dưỡng
giảng viên thường xuyên. Do vậy, quản lý quá trình bồi dưỡng ĐNGVLS không
bó hẹp trong quản lý nội dung bồi dưỡng theo chương trình do Bộ GD&ĐT, Bộ
Quốc phòng quy định, mà còn quản lý tổng hợp cả quá trình bồi dưỡng cho
giảng viên bao gồm cả hoạt động của các cơ quan, bộ môn, các tập thể lãnh đạo,
chỉ huy các cấp. Đó là sự tác động phối hợp nỗ lực của các chủ thể và đối tượng
bồi dưỡng nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu bồi dưỡng giảng viên lâm sàng.
Ba là, quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS không tách rời quá trình tự quản lý, tự
bồi dưỡng của ĐNGVLS; phát huy vai trò của giảng viên với tư cách vừa là chủ
thể quản lý, vừa là đối tượng quản lý trong quá trình nâng cao trình độ phẩm chất
chính trị, y đức, chuyên môn nghiệp vụ.

Bốn là, đối tượng tác động của quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS là nội dung
bồi dưỡng và quá trình nhận thức của giảng viên. Thông qua sự tác động này để
chuyển tải những tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo dạy học, giáo dục cho đội
ngũ giảng viên, trực tiếp bồi dưỡng, củng cố, mở mang những kiến thức cơ bản,
hệ thống, tri thức khoa học mới, kỹ năng, kỹ xảo dạy học, giáo dục hiện đại.
Như vậy, quản lý bồi dưỡng ĐNGVLS ở HVQY là một quá trình diễn
ra với nhiều tác động quản lý đan xen, liên tục, được tiến hành trong quá trình
bồi dưỡng giảng viên với quy trình tổ chức chặt chẽ. Để nâng cao hiệu quả
quá trình này, đòi hỏi các chủ thể quản lý cần xác định các nội dung, biện

26


×