Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH ở HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.11 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
Ở HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

1.1. Những vấn đề chung về phát triển kinh tế du lịch
1.2. Quan niệm, chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển kinh tế
du lịch và bài học rút ra cho huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở
HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2.1. Đặc điểm kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành phố
Hải Phòng
2.2. Thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế du lịch ở
huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng thời gian qua
2.3. Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và một số vấn đề đặt ra
cần tập trung giải quyết
Chương 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở HUYỆN
KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản
3.2. Một số giải pháp chủ yếu
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


Trang
3
13
13

22

32
39
39
42
52

60
60
65
81
83
87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, nhu cầu đi du lịch của người dân ở
mọi quốc gia, mọi địa phương đều gia tăng, làm cho du lịch trở thành một
ngành kinh tế mang lại nhiều việc làm, lợi nhuận cho các quốc gia và địa
phương biết khai thác tài nguyên du lịch của mình. Vì thế, người ta thường ví
du lịch như là một ngành “công nghiệp không khói”; nhiều quốc gia coi du lịch
là một ngành kinh tế mũi nhọn trong kế hoạch phát triển KT - XH của mình.
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cũng luôn quan tâm đến

việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước để phát triển KTDL; đồng
thời, khuyến khích các địa phương tận dụng lợi thế, tiềm năng, thế mạnh của
địa phương mình để tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mà một trong những nội
dung là phát triển KTDL ở những nơi có tiềm năng, nhằm gia tăng tỷ trọng
ngành dịch vụ (gồm cả du lịch) trong cơ cấu kinh tế. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX đã chủ trương “Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai
thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp
ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt
trình độ phát triển du lịch của khu vực” [9, tr. 178]. Nghị quyết số 09/ NQ-TU
năm 2006 của Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Hải Phòng về phát triển
du lịch đến năm 2020 cũng xác định: phấn đấu đưa du lịch Hải Phòng trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển KT-XH của Thành
phố và Hải Phòng trở thành trung tâm du lịch của vùng Duyên hải Bắc Bộ [2,
tr. 5]. Điều đó nói lên tầm quan trọng của phát triển KTDL trong sự phát triển
KT - XH của đất nước nói chung, của thành phố Hải Phòng nói riêng.
Kiến Thụy là một huyện ven biển nằm ở phía Đông Nam của thành phố
Hải Phòng. Đây là địa phương có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa và cách
3


mạng; nơi phát tích của Vương triều Nhà Mạc thế kỷ 16; có 11 di tích cấp
Quốc gia, 34 di tích cấp Thành phố, lưu giữ nhiều lễ hội truyền thống, lại nằm
trong tuyến du lịch sinh thái rừng và biển của khu du lịch Đồ Sơn… nên là
nơi có nhiều tiềm năng phát triển KTDL. Mặc dù vậy, trong những năm trước
đây, thực hiện quy hoạch phát triển KT - XH đã được UBND thành phố Hải
Phòng phê duyệt, cơ cấu kinh tế của Huyện đã có sự chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH, gắn liền với sự xuất hiện một số khu công nghiệp mới, nhưng
KTDL vẫn chưa được chú ý phát triển; các tiềm năng về du lịch chưa được

khai thác nhiều.
Từ năm 2008, 07 xã của Huyện, nơi có các khu công nghiệp mới
xây dựng, được tách ra để thành lập quận Đồ Sơn và quận Dương Kinh,
thì huyện Kiến Thụy lại trở về “điểm xuất phát thấp” của nền kinh tế
“thuần nông” [8, tr. 15].
Tình hình đó đã đặt ra nhu cầu khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh về tự
nhiên, văn hóa, xã hội và con người trên địa bàn để cải thiện tính chất “thuần
nông” trong cơ cấu kinh tế của Huyện; qua đó mà thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Một trong những
định hướng có tính khả thi mà cấp ủy, chính quyền huyện Kiến Thụy quan
tâm hiện nay là thúc đẩy phát triển KTDL. Với tiềm năng, lợi thế sẵn có, cùng
với sự quan tâm, giúp đỡ của UBND thành phố Hải Phòng, sự nỗ lực của cấp
ủy, chính quyền và nhân dân trong Huyện, những năm gần đây, KTDL ở
huyện Kiến Thụy “đã bước đầu được định hình”, song như đánh giá của Đại
hội đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2015-2020 thì sự phát
triển đó “chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Huyện” [7, tr. 14].
Sở dĩ KTDL ở huyện Kiến Thụy thời gian qua phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan; nhưng
chủ yếu là do: nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền và cán bộ, đảng
viên, nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của phát triển du lịch còn
4


chưa thực sự đầy đủ; công tác tuyên truyền về du lịch chưa được chú trọng;
hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch còn hạn chế cả về nội dung và hình thức;
sự phối hợp giữa các cấp, ngành, các cơ quan, đơn vị trong phát triển du lịch
còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ; công tác quy hoạch, nguồn đầu tư cho phát triển
du lịch còn hạn chế. Do vậy, để thúc đẩy KTDL ở huyện Kiến Thụy phát triển
xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương trong thời gian tới, việc nghiên
cứu vấn đề “Phát triển kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải

Phòng” thực sự có tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn; bởi sự thành công của
công trình nghiên cứu sẽ góp thêm một tiếng nói có cơ sở khoa học, thực tiễn
để đưa KTDL huyện Kiến Thụy phát triển lên một bước mới.
Từ lý do đó, tôi chọn đề tài "Phát triển kinh tế du lịch ở huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng" làm đề tài thạc sĩ chuyên ngành KTCT, với
mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của địa phương
nơi tôi công tác và sinh sống.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề mà đề tài luận văn nghiên cứu đã có một số bài
báo, công trình nghiên cứu được công bố trong thời gian trước đây.
* Những công trình nghiên cứu về du lịch và phát triển du lịch nói
chung, có một số bài báo và luận văn sau đại học tiêu biểu, như:
- Nguyễn Thái Bình (2003), “Để du lịch thực sự trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2. Trong bài báo này, tác giả đã
khái quát tiềm năng, lợi thế của nước ta về du lịch và đưa ra một số khuyến
nghị để du lịch phát triển thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn ở những địa
phương có tiềm năng lớn; trong đó có những khuyến nghị về công tác quảng
bá du lịch, về chuẩn bị nguồn nhân lực, về đầu tư cơ sở vật chất và về lựa
chọn sản phẩm du lịch đặc trưng.
- Nguyễn Văn Đính (2003), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du
lịch chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2;
5


Đinh Trung Kiên (2003), “Đào tạo nguồn nhân lực du lịch trước yêu cầu
mới”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2; Phạm Thanh Hà (2003), “Đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 6. Cả 3 bài
báo này đều tập trung phân tích vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong
quá trình phát triển du lịch thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, đề
xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch cả về số lượng và chất

lượng; trong đó, về mặt chất lượng của nguồn nhân lực, cần coi trọng bồi
dưỡng cả về phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ.
- Dụng Văn Duy (2004), “Du lịch trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở Bình Thuận”, Luận văn thạc sỹ KTCT, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống hóa một số
vấn đề lý luận về du lịch và phát triển du lịch; phân tích vai trò to lớn của
phát triển du lịch trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân và làm
thay đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Bình Thuận theo hướng gia tăng tỷ trọng ngành
dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh. Cùng với đánh giá thực trạng sự phát
triển của du lịch ở Bình Thuận giai đoạn 1998-2003, tác giả luận văn đã đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của du lịch trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Bình Thuận; trong đó có một số giải
pháp đáng chú ý, như: hoàn thiện quy hoạch phát triển du lịch, xây dựng kết
cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức sự
phối hợp các cơ quan, ban, ngành chức năng của Tỉnh.
- Bùi Thị Hương (2014), “Phát triển du lịch bền vững ở huyện Nho
Quan, tỉnh Ninh Bình hiện nay”, Luận văn thạc sĩ KTCT, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả đã luận bàn quan
niệm về phát triển du lịch bền vững; phân tích thực trạng phát triển du lịch ở
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình; đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm
đảm bảo cho hoạt động du lịch ở huyện Nho Quan phát triển hài hòa cả 3 nội
dung: tăng trưởng về thu nhập, ổn định về mặt xã hội và bảo vệ được môi
trường sinh thái.
6


* Những công trình nghiên cứu về kinh tế du lịch và phát triển kinh
tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
Tiêu biểu có một số công trình như sau:
- Nguyễn Hồng Giáp (2002), “Kinh tế du lịch”, Nxb Trẻ, thành phố Hồ

Chí Minh. Cuốn sách này đã cung cấp các tri thức cơ bản về khái niệm du lịch,
khách du lịch, sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó; lịch sử hình thành, xu
hướng phát triển và tác động KT - XH của du lịch; phân tích các tác động về
KT - XH của du lịch đối với một địa bàn phát triển du lịch (chủ yếu dưới góc
độ một quốc gia).
- Nguyễn Đình Sơn (2007), “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch
Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh”, Luận án tiến sĩ KTCT,
Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Tác giả luận án đã khái quát lý luận
chung về phát triển KTDL kết hợp với củng cố quốc phòng – an ninh, đưa ra
quan niệm của mình về “phát triển KTDL” dưới góc độ KTCT; phân tích
những đặc điểm cơ bản của KTDL, thực trạng KTDL ở vùng Bắc Bộ trong
mối quan hệ với củng cố quốc phòng – an ninh; đồng thời, đề xuất phương
hướng, mục tiêu và những giải pháp cơ bản để phát triển KTDL ở vùng Bắc
Bộ kết hợp với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong thời gian tới.
- Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa (2008), “Giáo trình Kinh tế
du lịch”, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Cuốn giáo trình cung cấp
những kiến thức cơ bản về KTDL: quan niệm về KTDL, điều kiện để phát triển
du lịch; tính thời vụ trong du lịch; lao động trong du lịch; CSVC - KT của
KTDL; chất lượng dịch vụ du lịch; hiệu quả KTDL; quy hoạch phát triển du
lịch; tổ chức và quản lý ngành du lịch.
- Lê Quốc Thắng (2010), “Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai”,
Luận văn thạc sĩ KTCT, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị, Hà Nội; Trần Ngọc Tư (2010), “Phát triển kinh tế du lịch ở Vĩnh
Phúc - tiềm năng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ KTCT, Học viện Chính trị
7


quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả của 2 luận văn này đã tập trung hệ
thống hóa lý luận về KTDL; phân tích tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch của
từng địa phương (tỉnh Lào Cai và tỉnh Vĩnh Phúc); đánh giá thực trạng KTDL

của từng tỉnh trong thời gian qua; từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển
KTDL trong thời gian tới.
- Hồ Việt Chiến (2012), “Kinh tế du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu”, Luận văn thạc sĩ KTCT, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả phân tích vai trò của KTDL
trong cơ cấu kinh tế của một tỉnh có nhiều tiềm năng về phát triển du lịch;
đánh giá thực trạng của KTDL trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh và đề xuất các
giải pháp để thúc đẩy KTDL trong Tỉnh phát triển với tư cách là một ngành
kinh tế mũi nhọn.
- Nguyễn Thị Hồng Lâm (2014), “Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ KTCT, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả luận án đã hệ thống hóa lý luận về KTDL
trong hội nhập kinh tế quốc tế của một vùng du lịch ở Việt Nam. Trong đó,
luận án đã đưa ra quan niệm về KTDL dưới góc độ KTCT; khái quát các yếu
tố cấu thành KTDL, phân tích làm rõ mối quan hệ giữa KTDL với sự
phát triển KT - XH và các nhân tố ảnh hưởng đến KTDL trong hội nhập kinh
tế quốc tế. Trên cơ sở làm rõ những thành tựu, hạn chế của KTDL và nguyên
nhân của thực trạng KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế
quốc tế, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển
KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong thời gian tới.
- Đới Thị Thủy (2014), “Kinh tế du lịch với phát triển kinh tế - xã hội
ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay”, Luận văn thạc sĩ KTCT, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả phân tích tác động của
KTDL đến sự phát triển KT – XH ở tỉnh Thanh Hóa trên cả hai khía cạnh:
tích cực và tiêu cực; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp cơ bản để khai thác
8


tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTDL đến sự phát triển KT –
XH của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.

- Nguyễn Anh Tuấn (2015), “Phát triển kinh tế du lịch gắn với tăng
cường quốc phòng, an ninh ở Khánh Hòa”, Luận án tiến sĩ KTCT, Học viện
Chính trị, Bộ Quốc phòng. Trong luận án này, tác giả đã làm rõ quan niệm,
nội dung phát triển KTDL gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh ở Khánh
Hòa; đưa ra bộ tiêu chí đánh giá sự gắn kết 2 lĩnh vực đó; phân tích thực trạng
sự gắn kết phát triển KTDL với tăng cường quốc phòng, an ninh ở địa phương
này thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm và giải pháp vừa
đẩy mạnh phát triển KTDL, vừa góp phần tăng cường quốc phòng, an ninh ở
Khánh Hòa trong thời gian tới.
Do du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng mấy năm gần đây
mới “bước đầu được định hình” [8, tr.1]; công tác tuyên truyền, quảng bá về
du lịch của Huyện còn chưa được quan tâm, nên thông tin nói chung, các
nghiên cứu nói riêng về du lịch của huyện Kiến Thụy gần như không có. Gần
đây, với chủ trương của Huyện ủy và UBND Huyện về phát triển du lịch, trên
báo Hải Phòng điện tử mới bắt đầu có những bài báo nhỏ giới thiệu về du lịch
của huyện Kiến Thụy, như: Hoàng Yên (2015), “Huyện Kiến Thụy phát triển
du lịch sinh thái gắn với văn hóa tâm linh”, baohaiphong.com.vn, ngày 23
tháng 7. Trong bài báo này, tác giả đã giới thiệu tiềm năng du lịch của huyện
Kiến Thụy; đồng thời, thông báo việc UBND Huyện triển khai Đề án phát
triển du lịch từ 2015 đến 2020, định hướng đến 2025; trong đó hướng ưu tiên
phát triển là du lịch nghỉ dưỡng và du lịch văn hóa tâm linh.
Tất cả những công trình kể trên không trực tiếp bàn vấn đề mà học
viên chọn làm đề tài nghiên cứu, nhưng những thông tin mà các công
trình đó đem lại vẫn rất bổ ích, nhất là những kiến thức về cơ sở lý luận
chung, về các định hướng giải pháp thúc đẩy phát triển KTDL ở một địa
phương cụ thể. Đó là những gợi ý cần thiết cho học viên trong quá trình
xây dựng luận văn của mình.
9



Tóm lại, liên quan đến vấn đề phát triển du lịch nói chung, phát triển
KTDL ở một địa phương cụ thể nói riêng, đã có một số công trình nghiên cứu
đề cập tới. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Phát triển
kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng”. Do đó, đề tài mà
học viên lựa chọn làm luận văn thạc sĩ KTCT không trùng lặp với các công
trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế du
lịch, Luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTDL ở huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng.
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng giai đoạn 2010- 2015.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để phát triển
KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn cấp huyện dưới góc độ KTCT.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: phát triển các bộ phận cấu thành KTDL gắn với các loại
hình du lịch mà huyện Kiến Thụy có tiềm năng.
- Về không gian: huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
- Về thời gian: luận văn khảo sát thực tiễn giai đoạn 2010 – 2015;
các giải pháp định hướng thực hiện đến 2025.

10



5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, về du lịch và phát triển KTDL.
- Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở thực tiễn để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ của luận văn
được tác giả rút ra từ quá trình nghiên cứu các văn kiện, báo cáo của Đảng bộ,
UBND, cùng các cơ quan chức năng của huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng; đồng thời, rút ra từ kết quả tác giả luận văn đi khảo sát tại một số cơ
quan trong Huyện - địa phương nơi tác giả luận văn sinh sống và công tác.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng
phương pháp trừu tượng hóa khoa học của KTCT Mác - Lê-nin; dựa vào
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các nghị quyết
của Đảng bộ huyện Kiến Thụy về phát triển du lịch để làm sáng tỏ cơ sở
lý luận phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Đồng
thời, dựa vào báo cáo của các cơ quan chức năng trong Huyện có liên
quan đến phát triển du lịch trên địa bàn, luận văn sử dụng các phương
pháp: tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, kết hợp lô-gíc với lịch sử,
cùng một số phương pháp khác để phân tích thực trạng, đề xuất quan điểm
và giải pháp thúc đẩy phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa
học của chủ trương phát triển KTDL mà Huyện ủy Kiến Thụy đang lãnh
đạo, tổ chức thực hiện; đồng thời, có thể làm tài liệu tham khảo để UBND


11


Huyện nghiên cứu, hoàn thiện quy hoạch, xây dựng các giải pháp thúc đẩy
KTDL trên địa bàn phát triển mang lại hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác giảng dạy vấn đề phát triển KTDL ở các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
du lịch trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu; 3 chương (8 tiết); Danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
Ở HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Những vấn đề chung về phát triển kinh tế du lịch
1.1.1. Quan niệm về kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch
* Quan niệm về du lịch
Du lịch là hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ
dưỡng… trong một khoảng thời gian nhất định. Cùng với sự phát triển KTXH, con người ngày càng có nhu cầu đươc nghỉ ngơi, hưởng thụ các giá trị
vật chất và tinh thần của xã hội để hoàn thiện, phát triển chính mình. Điều đó
đã làm xuất hiện những nhu cầu bảo đảm ăn, nghỉ... cho những người tạm thời
sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Khi hoạt động du lịch ngày càng
trở nên phổ biến, số người đi du lịch ngày càng đông; nhu cầu ăn, nghỉ, giải
trí… của người đi du lịch ngày càng tăng cao. Để đáp ứng những nhu cầu đó,
ngành du lịch ra đời và dần trở thành một ngành kinh tế độc lập trong nền

kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đã có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Trong cuốn Kinh tế du
lịch, Robert Lanquar có dẫn ra quan niệm của Hội Liên hiệp các chuyên gia
quốc tế về du lịch: “Du lịch là sự tổng hoà các hiện tượng và quan hệ do việc
lữ hành và tạm thời cư trú của những người không định cư dẫn tới. Số người
này không định cư lâu dài, và lại cũng không làm bất kì hoạt động nào để
kiếm tiền” [20, tr. 241]. Quan niệm này không chỉ thấy du lịch là hoạt động
của chính người đi du lịch, mà con nhìn thấy các mối quan hệ phát sinh từ
hoạt động đó, không chỉ bao hàm những hoạt động từ phía du khách, mà còn
những hoạt động phát sinh để đáp ứng nhu cầu của du khách, theo đúng quy
luật: có cầu du lịch ắt sẽ có cung du lịch đáp ứng. Đồng quan điểm với Hội
Liên hiệp các chuyên gia quốc tế về du lịch, Giáo trình kinh tế du lịch của 2
13


tác giả Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa có nêu lên một quan niệm
khá toàn diện về du lịch của các nhà nghiên cứu Trung Quốc:“Du lịch là một
hiện tượng KT-XH nảy sinh trong điều kiện KT-XH nhất định; là sự tổng hoà
tất cả các quan hệ và hiện tượng do lữ hành để thoả mãn mục đích chủ yếu là
nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí và văn hoá nhưng lưu động chứ không định cư
mà tạm thời cư trú của tất cả mọi người dẫn tới”[10, tr. 33].
Tại Việt Nam, Luật Du lịch năm 2005 của Việt Nam quan niệm: “Du
lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [19, tr. 8]. Quan niệm này
dường như nhấn mạnh đến hoạt động từ phía người đi du lịch, khi chỉ ra nội
dung cốt lõi trong hoạt động của du khách. Tuy nhiên, “hoạt động có liên
quan” đến chuyến đi của du khách được nêu trong Luật Du lịch có thể được
hiểu rộng ra, bao gồm cả những hoạt động đáp ứng nhu cầu chuyến đi của du
khách; nói cách khác là bao gồm những hoạt động từ phía cung du lịch. Theo

Từ điển Bách khoa Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai khía cạnh: Trước hết,
đó là một dạng nghỉ dưỡng, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư
trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,
công trình văn hoá nghệ thuật. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc
độ cầu, góc độ người đi du lịch [27, tập 1, tr. 284]. Mặt khác, du lịch được
xem là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng
cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó
góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình
hữu nghị với dân tộc mình. Về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh
mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở phía cung, với tư cách là
một ngành kinh tế. [27, tập 1, tr. 284]. Như vậy, quan niệm của Từ điển Bách
khoa Việt Nam đã xem xét du lịch từ cả hai phía: cầu và cung về du lịch.
14


Tóm lại, du lịch là một hiện tượng KT-XH có tính tổng hợp cao, bao
gồm nhiều mối quan hệ liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên, nhằm đáp ứng các nhu cầu về: nghỉ dưỡng, giải trí,
tham quan của du khách. Nói đến du lịch, cần được hiểu là các hoạt động
đến từ hai phía: từ du khách và từ những đơn vị, cá nhân cung ứng hàng
hóa, dịch vụ du lịch.
* Quan niệm về kinh tế du lịch
Cho đến nay, quan niệm về KTDL thường được hiểu là một hoạt động
kinh tế, một lĩnh vực kinh doanh, một ngành kinh tế thuộc lĩnh vực dịch vụ.
Chẳng hạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam đã định nghĩa: “KTDL là một hoạt
động kinh tế, là tổng thể các hành vi phối hợp với nhau của hoạt động kinh tế
nói chung với hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu về du lịch” [27,
tập 2, tr. 228]. Định nghĩa này tiếp cận KTDL dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật,
song ở mức độ nào đó đã cho thấy mối quan hệ giữa các hoạt động kinh tế

của các ngành khác với hoạt động du lịch.
Tiếp cận KTDL dưới góc độ KTCT đã có một số tác giả; tiêu biểu là:
tiến sĩ Nguyễn Đình Sơn và tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Lâm, v.v. Trong luận án
của mình, tiến sĩ Nguyễn Đình Sơn xác định: “KTDL là một phạm trù phản
ánh bước tiến mới của lực lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác
các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút
khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán xuất khẩu tại chỗ hàng
hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy KT - XH phát
triển” [21, tr. 23]. Quan niệm này đã coi KTDL là một phạm trù (kinh tế),
nhưng lại coi đó chỉ là sản phẩm của sự phát triển lực lượng sản xuất; tức là
nói đến điều kiện xuất hiện của KTDL, nên chưa chỉ rõ thực chất cốt lõi của
phạm trù này là phản ánh các quan hệ kinh tế, làm cho góc độ KTCT của
quan niệm KTDL chưa thật rõ; đôi khi, sự diễn giải nội dung phản ánh của
15


phạm trù này lại có thiên hướng gần với góc độ tiếp cận kinh tế ngành. Cũng
tiếp cận dưới góc độ KTCT, tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Lâm coi “KTDL là một
quan hệ kinh tế trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, bao gồm các quan
hệ ngành, nghề là: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh
doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du
lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần
của du khách, đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm
du lịch và bản thân DNDL” [16, tr. 30]. Quan niệm này đã xem KTDL là các
quan hệ kinh tế, nhưng chưa chỉ rõ chủ thể của những quan hệ kinh tế đó (là
quan hệ giữa ai với ai ?); đồng thời, việc vừa xem KTDL là “một quan hệ
kinh tế”, lại vừa xem KTDL “bao gồm các quan hệ”, làm cho sự diễn đạt nội
dung quan niệm này chưa thật nhất quán. Tuy vậy, đây vẫn là một quan niệm
về KTDL dưới góc độ KTCT tương đối hợp lý.

Kế thừa các quan niệm đã có, nhất là quan niệm của tiến sĩ Nguyễn Thị
Hồng Lâm khi xem xét KTDL là quan hệ kinh tế, tác giả luận văn cho rằng:
“KTDL là một phạm trù kinh tế phản ánh tổng hòa các quan hệ kinh tế phát
sinh từ sự tác động lẫn nhau giữa những người cung ứng sản phẩm du lịch và
du khách trong quá trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng sản phẩm du lịch,
nhằm thỏa mãn lợi ích của mỗi bên”.
Nội hàm của quan niệm này cho thấy:
Thứ nhất: KTDL là tổng hòa các quan hệ kinh tế giữa những người
cung ứng và những người tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Các quan hệ kinh
tế này phát sinh trước hết từ nhu cầu của du khách và được thể hiện thông qua
các hoạt động: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh
vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và
kinh doanh dịch vụ du lịch khác của người cung ứng sản phẩm du lịch.
Thứ hai, sản phẩm du lịch là “tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn
nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch" [19, tr. 2]. Đó là “các dịch
16


vụ, hàng hoá cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc
khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực CSVC KT và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó” [10, tr. 31].
Ngoài những đặc điểm chung của hàng hóa thông thường, sản phẩm du
lịch, chủ yếu là dịch vụ du lịch (chiếm đến 90% cơ cấu sản phẩm du lịch [16,
tr. 27]) có một số đặc điểm riêng, như:
- Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ, nên du khách không
thể sử dụng thử trước khi trực tiếp tiêu dùng dịch vụ du lịch;
- Khách hàng chỉ được mua quyền hưởng thụ dịch vụ du lịch do nhà
cung ứng mang lại chứ không thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó, nên với
cùng một sản phẩm du lịch, bên cung ứng sản phẩm du lịch có thể bán được
nhiều lần, cho nhiều du khách khác nhau.
Thứ ba, lợi ích của các chủ thể của KTDL là khác nhau. Đối với du khách

- người tiêu dùng sản phẩm du lịch, thì lợi ích của họ khi mua sản phẩm du lịch
là sự thỏa mãn nhu cầu nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí, tham quan, thưởng thức
các giá trị văn hóa, nghệ thuật… trong chuyến đi du lịch. Đối với DNDL –
người sản xuất và bán sản phẩm du lịch là lợi nhuận. Còn đối với chính quyền
(Trung ương và địa phương) – người quản lý nhà nước về du lịch, thì lợi ích
không dừng lại ở thu nhập (lợi nhuận cho DNDL và nộp ngân sách nhà nước),
mà còn phải nhằm thỏa mãn các lợi ích về xã hội (giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, giữ vững trật tự an ninh, quốc
phòng…) trên địa bàn và không làm tổn hại về môi trường.
* Các bộ phận cấu thành kinh tế du lịch:
Là tổng hòa các quan hệ kinh tế được biểu hiện thông qua các hoạt
động kinh doanh du lịch, nên nói đến các bộ phận cấu thành KTDL, người ta
thường tính đến 5 hoạt động dưới đây:
Trước hết, kinh doanh lữ hành.
Đây là việc doanh nghiệp đầu tư thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công việc trong quá trình tạo ra và chuyển giao sản phẩm du lịch từ lĩnh vực
17


sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng, với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi
nhuận. Kinh doanh lữ hành bao gồm nhiều hoạt động: nghiên cứu thị trường,
xây dựng các chương trình du lịch (trọn gói hay từng phần); quảng cáo và bán
các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn
phòng đại diện; thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận
chuyển, hướng dẫn tham quan, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch
nhằm hưởng hoa hồng.
Thứ hai, kinh doanh lưu trú du lịch
Đây là việc doanh nghiệp đầu tư xây dựng các công trình có phòng,
buồng, giường và các dịch vụ khác để cho khách du lịch thuê, sử dụng trong
quá trình lưu lại điểm, khu du lịch. Các công trình này bao gồm: khách sạn,

làng du lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du
lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê và các cơ sở lưu trú du lịch khác;
trong đó, khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu.
Thứ ba, kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
Đây là hoạt động nhằm giúp du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú
của mình đến điểm du lịch cũng như dịch chuyển tại điểm du lịch. Để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh này, DNDL có thể sử dụng nhiều phương tiện vận
chuyển, như: ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay, v.v. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ
một số tập đoàn du lịch lớn trên thế giới có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận
chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch và tại điểm du
lịch; còn phần lớn các trường hợp, du khách sử dụng dịch vụ vận chuyển của
các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh
doanh dịch vụ vận chuyển.
Thứ tư, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch.
Đây là điều kiện không thể thiếu để phát triển sản phẩm dịch vụ du lịch
nhằm thu hút du khách và đem lại hiệu quả KT - XH cho quốc gia hoặc vùng
có tài nguyên du lịch. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao
18


gồm: đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đưa các tài nguyên du
lịch tiềm năng vào khai thác; xây dựng KCHT du lịch, CSVC - KT du lịch.
Thứ năm, kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
Các hoạt động này bao gồm: kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi,
giải trí, tuyên truyền, quảng cáo du lịch, tư vấn đầu tư du lịch, v.v. Cùng với
xu hướng phát triển đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của
khoa học – công nghệ và sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa các DNDL, thì
các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch mang tính bổ trợ ngày càng phát
triển mạnh.
* Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch

Phát triển là một quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển
kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự hoàn chỉnh về cơ cấu, thể chế
kinh tế và chất lượng cuộc sống. Nó được biểu hiện cụ thể ở tốc độ tăng
trưởng kinh tế cùng sự thay đổi theo hướng tiến bộ của cơ cấu kinh tế; chất
lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện, tiến bộ và công
bằng xã hội được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Ngày nay, yêu cầu phát triển
kinh tế phải theo hướng bền vững. Theo đó, cùng với yêu cầu sự tăng trưởng
kinh tế, đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội (tạo việc làm, tăng thu
nhập, cải thiện đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo…), sự phát triển phải
không đi cùng sự hủy hoại môi trường, mà ngược lại, phải gìn giữ môi
trường trong lành.
Tiếp cận quan niệm về phát triển kinh tế nói trên và quan niệm về
KTDL dưới góc độ KTCT được nêu ở trên, luận văn cho rằng: Phát triển
KTDL là quá trình làm gia tăng số lượng và chất lượng các quan hệ kinh tế
giữa những người cung ứng và tiêu dùng sản phẩm du lịch, thông qua việc
mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh: lữ hành, lưu trú
du lịch, vận chuyển khách du lịch, phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh
19


doanh dịch vụ du lịch khác, nhằm thỏa mãn lợi ích của cả người cung ứng
lẫn người tiêu dùng sản phẩm du lịch.
1.1.2. Vai trò của kinh tế du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Kinh tế du lịch có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển KT-XH
của các quốc gia và vùng lãnh thổ có tài nguyên du lịch. Chính vì lẽ đó, người
ta thường ví du lịch là “ngành công nghiệp không khói” mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Vai trò của KTDL được thể hiện ở những nội dung chính sau đây:
Một là, KTDL phát triển sẽ góp phần kích thích đầu tư, tạo nhiều việc
làm, cải thiện đời sống cho dân cư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Sự phát triển của KTDL gắn với nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng của du
khách là động lực để khuyến khích các nhà đầu tư (doanh nghiệp trong nước,
nước ngoài và người dân địa phương) bỏ vốn đầu tư kinh doanh các dịch vụ
du lịch và các dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu của du khách. Điều đó tất yếu
thúc đẩy sự phân công lại lao động nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của
địa phương; trong đó có các ngành, nghề truyền thống. Đến lượt mình, sự
phân công lại lao động trước yêu cầu thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch lại
tạo thêm nhiều việc làm (trực tiếp và gián tiếp) cho người dân địa phương;
góp phần giảm tình trạng thất nghiệp. Có việc làm, người dân có thu nhập,
cuộc sống được cải thiện và nâng cao cùng với sự phát triển của KTDL, lại
góp phần làm ổn định xã hội, tăng thêm thu nhập quốc dân, cũng như phần
nộp vào ngân sách nhà nước; qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc
gia cũng như từng địa phương có tài nguyên du lịch.
Hai là, KTDL góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tiến bộ; làm gia tăng các quan hệ kinh tế giữa các địa phương, các
vùng kinh tế và các quốc gia với nhau.
Kinh tế du lịch phát triển dẫn đến xu hướng gia tăng tỷ trọng giá trị và
lao động các ngành dịch vụ trong nền kinh tế; đồng thời, kích thích các ngành
kinh tế khác, như: giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bưu
20


điện, hải quan, thương mại... phát triển theo định hướng đáp ứng nhu cầu phát
triển KTDL. KTDL càng phát triển thì sự tham gia của các ngành, lĩnh vực
kinh tế khác càng nhiều. Nhờ đó, mối quan hệ giữa các ngành kinh tế khác với
ngành du lịch được tăng cường; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trên phạm vi
quốc gia, nhất là ở các địa phương có tiềm năng du lịch, sẽ dịch chuyển theo
hướng gia tăng phát triển các ngành dịch vụ đem lại hiệu quả kinh tế cao, giảm
tỷ trọng thu nhập và lao động của các ngành có hiệu quả kinh tế thấp. Điều đó
kéo theo sự gia tăng giá trị dịch vụ trong thu nhập quốc dân, tăng tỷ lệ lao động

trong ngành dịch vụ và du lịch trong cơ cấu kinh tế. Đây chính là xu hướng
chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH.
Do du lịch là ngành kinh tế có hiệu suất sử dụng vốn cao, đầu tư thấp,
thu hồi vốn nhanh, nên hấp dẫn nhiều nhà đầu tư tư nhân (doanh nghiệp và hộ
gia đình) và nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư. Cùng với sự gia tăng đầu tư
của tư nhân trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, cơ cấu các thành phần kinh
tế cũng có sự phân bố lại theo hướng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng có vị trí quan trọng trong KTDL nói riêng, trong nền
kinh tế nói chung.
Bên cạnh đó, sự phát triển KTDL cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu
vùng kinh tế thông qua việc “đánh thức” các tiềm năng du lịch ở những địa
bàn có tiềm năng, nhưng chưa được phát triển. Qua đó mà thúc đẩy sự phân
bố lại sức sản xuất giữa các vùng, miền trên địa bàn từng tỉnh (thành phố)
cũng như trên phạm vi cả nước; góp phần hình thành cơ cấu kinh tế theo
vùng, miền một cách hợp lý hơn.
Sự phát triển KTDL còn dẫn tới gia tăng các hình thức liên kết giữa
các tỉnh (thành) và giữa các vùng, giữa các nước để mở các tour du lịch.
Chính điều này góp phần củng cố và làm gia tăng các mối quan hệ kinh tế
giữa các địa phương, các vùng kinh tế và các quốc gia lại với nhau để đáp ứng
nhu cầu đi du lịch của du khách nội địa và du khách quốc tế.
21


Ba là, KTDL góp phần quảng bá tiềm năng, thế mạnh, hình ảnh của
địa phương, cũng như của quốc gia ra khỏi vùng lãnh thổ (địa phương hay
quốc gia).
Khi tham quan du lịch, du khách được tiếp cận với danh lam, thắng
cảnh, di tích lịch sử, văn hóa truyền thống, các mặt hàng công nghiệp, thủ
công nghiệp, nông nghiệp... của các địa phương và các nước có tài nguyên du
lịch. Với sự hài lòng của du khách về các tour du lịch, các sản phẩm du lịch

mà họ được thưởng thức, du khách thường giới thiệu cho những người thân
và bạn bè của họ về những địa phương, đất nước, hàng hóa, dịch vụ… mà họ
đã từng sử dụng. Do vậy, KTDL góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh,
sản phẩm của địa phương, của quốc gia ra nước ngoài và các địa phương
khác. Thông qua đó, làm tăng sức hấp dẫn du khách đến với địa phương, quốc
gia làm du lịch. Sự gia tăng số lượng du khách và chi tiêu của họ đối với các
sản phẩm du lịch lại kích thích kinh tế của địa phương và quốc gia làm du lịch
phát triển.
1.2. Quan niệm, chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
1.2.1. Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy
Từ quan niệm về phát triển KTDL được trình bày ở tiết 1.1.1, vận dụng
vào huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng có thể quan niệm: Phát triển
KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng là hoạt động của các chủ thể
làm gia tăng số lượng và chất lượng các quan hệ kinh tế giữa những người
cung ứng và người tiêu dùng sản phẩm du lịch, thông qua việc mở rộng và
nâng cao chất lượng các bộ phận cấu thành KTDL, nhằm đáp ứng lợi ích của
cả người cung ứng và tiêu dùng sản phảm du lịch; góp phần thúc đẩy phân
công lại lao động xã hội, bảo vệ môi trường, bảo tồn và làm phong phú thêm
các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, truyền thống của địa phương, thực
hiện thành công các mục tiêu KT-XH của Huyện.
22


Có thể hiểu nội hàm của quan niệm này trên một số vấn đề sau:
Trước hết, bản chất của sự phát triển KTDL là sự gia tăng số lượng và
chất lượng các quan hệ kinh tế giữa những người cung ứng và tiêu dùng sản
phẩm du lịch dưới tác động có mục đích của các chủ thể phát triển KTDL. Sự
gia tăng đó được bộc lộ ra khi các bộ phận cấu thành KTDL được mở rộng và
nâng cao chất lượng.

Thứ hai, chủ thể phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng là cấp ủy, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trong Huyện. Cấp ủy
các cấp trong phạm vi Huyện lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển
KTDL ở địa phương thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các quan
điểm, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương
và của Thành ủy, Huyện ủy) về phát triển KTDL. UBND huyện có chức năng
quản lý nhà nước về KTDL trên địa bàn Huyện, tổ chức triển khai thực hiện
các nghị quyết của Đảng, cơ chế, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước và của UBND Thành phố liên quan đến hoạt động kinh doanh du
lịch; xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án phát triển
KTDL trên địa bàn; xây dựng cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực đầu
tư xây dựng KCHT phục vụ du lịch; khuyến khích các tầng lớp nhân dân đầu
tư phát triển KTDL và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về phát
triển dịch vụ du lịch và các hoạt động liên quan, nhằm đảm bảo cho mọi hoạt
động kinh doanh du lịch trên địa bàn vận hành thuận lợi, đúng với các quy định
của luật pháp. Các tầng lớp nhân dân trong Huyện trực tiếp đầu tư kinh doanh
các dịch vụ du lịch bằng nhiều quy mô (doanh nghiệp hoặc hộ gia đình), hình
thức đa dạng và phù hợp với năng lực tài chính, tổ chức và quản lý của mình.
Thứ ba, mục đích phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng là để khai thác tiềm năng du lịch của Huyện; thông qua đó, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng và lao động của các
ngành dịch vụ trong cơ cấu thu nhập quốc dân của Huyện, tạo thêm nhiều
23


việc làm cho nhân dân, nâng cao thu nhập của các doanh nghiệp và hộ gia
đình làm KTDL; đồng thời, tăng thêm nguồn thu vào ngân sách để góp phần
thực hiện thành công các mục tiêu KT-XH của Huyện. Bên cạnh đó, mục đích
phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng còn phải đi theo
hướng phát triển bền vững. Theo đó, Huyện không đánh đổi sự tăng trưởng từ

KTDL với sự hủy hoại môi trường, nên phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy
phải nhằm tới cả 3 mục tiêu: tăng trưởng kinh tế, giải quyết thành công các
vấn đề xã hội và giữ gìn môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần
bảo tồn và làm phong phú thêm các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, truyền
thống của địa phương.
Thứ tư, phương thức phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố
Hải Phòng là tác động từ các chủ thể phát triển KTDL đến các bộ phận cấu
thành KTDL, để phát triển các hình thức kinh doanh phù hợp với tài nguyên
du lịch của Huyện. Theo đó, cấp ủy, UBND các cấp trong Huyện phải tăng
cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về sự
cần thiết phải phát triền KTDL trên địa bàn. UBND huyện xây dựng và ban
hành quy hoạch, các cơ chế, chính sách tạo môi trường khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư các hoạt động kinh doanh du lịch. Chính quyền các
cấp, cùng các nhà đầu tư chăm lo xây dựng và phát triển KCHT (điện, nước,
đường giao thông, viễn thông, khách sạn, nhà hàng…) và nguồn nhân lực
phục vụ du lịch. Bên cạnh đó, để phát triển KTDL, phải đẩy mạnh quảng bá
tiềm năng du lịch của Huyện; các tầng lớp nhân dân chủ động đầu tư, thực
hiện liên kết, hợp tác với các địa phương và các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch khác trong khu vực và trên cả nước để phát triển KTDL trên địa bàn
huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Thứ năm, nội dung phát triển kinh tế du lịch ở huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng bao gồm việc: nghiên cứu, phát hiện ra những sản phẩm du
lịch phù hợp với thị hiếu khách du lịch; đầu tư, tôn tạo, xây dựng các sản
24


phẩm du lịch, các khu du lịch và điểm du lịch; tổ chức kết nối các mối quan
hệ, các hình thức kinh doanh và các lĩnh vực liên quan đến hoạt động du lịch;
tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch, như: lữ hành, lưu trú du lịch, vận
chuyển khách du lịch và các dịch vụ liên quan khác (ăn uống, nghỉ ngơi, giải

trí…). Cụ thể:
- Thăm dò, nghiên cứu, phát hiện ra những sản phẩm du lịch phù hợp
với thị hiếu du khách được coi là khâu mang tính đột phá trong phát triển
KTDL ở huyện Kiến Thụy; bởi thông qua khảo sát, thăm dò, nghiên cứu, phát
hiện những tài nguyên du lịch là cơ sở để Huyện chỉ đạo đầu tư, xây dựng các
sản phẩm du lịch nhằm thu hút du khách tới thưởng ngoạn. Trong thực tế, thế
giới luôn tiềm ẩn nhiều bí mật, nên ngay ở những khu du lịch đã được đưa
vào khai thác vẫn tiềm ẩn nhiều điều bất ngờ, mà bằng chứng gần đây là việc
phát hiện ra những quần thể hang động phong phú ở khu du lịch Phong Nha –
Kẻ Bàng (Quảng Bình) hay ở khu du lịch Tam Hang - Bích Động (Ninh
Bình), những khu du lịch nổi tiếng đã có từ lâu. Ở huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng cũng vậy. Với đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng quê đồng
bằng Bắc Bộ, nơi từng là Kinh đô thứ hai của Vương triều Nhà Mạc, Kiến
Thụy có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, nhưng chưa được chú
ý nghiên cứu thấu đáo để đưa vào khai thác du lịch. Do vậy, tổ chức khảo sát,
thăm dò, nghiên cứu điều kiện tự nhiên, xã hội để thiết kế các sản phẩm du
lịch, xây dựng các khu, các điểm du lịch là nội dung đầu tiên của quá trình
phát triển KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng hiện nay.
- Đầu tư, tôn tạo, xây dựng các sản phẩm du lịch, các khu du lịch và
điểm du lịch trên địa bàn Huyện là một nội dung không thể thiếu để phát triển
KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng; bởi lẽ, một tài nguyên thiên
nhiên, một di tích văn hóa, lịch sử là quà tặng của tạo hóa, của ông cha để lại,
nhưng tự nó không thể trở thành một sản phẩm du lịch thu hút đông đảo du
khách được. Kiến Thụy có dòng Đa độ uốn khúc bao quanh các thôn, làng,

25


các cánh đồng lúa, đoạn chảy đến núi Đối, núi Trà Phương thì lòng sông nở
rộng ra như mặt hồ, tạo nên phong cảnh sông nước sơn thủy hữu tình độc đáo

của làng quê Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đặc điểm tự nhiên đó đem
lại cho Kiến Thụy tiềm năng phát triển các tour du lịch “đồng quê”. Thêm
nữa, là nơi phát tích của Vương triều Nhà Mạc, với hiện diện của Khu Tưởng
niệm Vương triều Nhà Mạc được khánh thành vào năm 2010, Kiến Thụy có
nhiều tiềm năng phát triển các loại hình du lịch lịch sử văn hóa, tâm linh. Thế
nhưng, các điều kiện đó không thể tự trở thành một sản phẩm du lịch để thu
hút du khách, nếu như các điều kiện đó không được thiết kế, xây dựng thành
những sản phẩm với sự gắn kết với các chuỗi giá trị từ hoạt động marketting
(quảng bá, giới thiệu), thiết lập các tour du lịch gắn chặt với các hoạt động
kinh doanh: lữ hành, lưu trú, di chuyển, phục vụ ăn uống, nghỉ ngơi, v.v. Do
vậy, để phát triển một sản phẩm du lịch, nhất thiết phải đầu tư, tôn tạo và xây
dựng sản phẩm, xây dựng các khu hoặc các điểm du lịch với hệ thống KCHT
cần thiết để đáp ứng các nhu cầu của du khách trong quá trình tham quan,
thưởng ngoạn. Mặt khác, các sản phẩm du lịch cũng lại phải thường xuyên
được đầu tư, tôn tạo vừa để gìn giữ, không để bị xuống cấp; vừa để tạo ra
những chi tiết mới, thu hút nhiều hơn nữa du khách đến với các điểm du lịch,
khu du lịch của huyện Kiến Thụy.
- Tổ chức kết nối các mối quan hệ, các hình thức kinh doanh và các lĩnh
vực liên quan đến hoạt động du lịch, để phát triển KTDL cũng là một nội
dung quan trọng để KTDL ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng phát
triển. Một sản phẩm du lịch chỉ dừng lại ở việc thăm dò, nghiên cứu, phát
hiện hay đầu tư, tôn tạo vẫn chưa đủ để hấp dẫn du khách. Việc tổ chức kết
nối các mối quan hệ trong hoạt động du lịch, các lĩnh vực liên quan đến hoạt
dộng du lịch là nội dung rất cần thiết để KTDL phát triển. Đó là sự kết nối
quan hệ giữa ngành du lịch với ngành xây dựng, để thiết kế, xây dựng KCHT
du lịch phục vụ nhu cầu của du khách; kết nối giữa chính quyền địa phương,
26



×