Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Đời sống và nghệ thuật trong sáng tác của paul auster nhìn từ tâm thức hậu hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.08 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

TRỊNH LAN ANH

ĐỜI SỐNG VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG SÁNG TÁC CỦA PAUL AUSTER
NHÌN TỪ TÂM THỨC HẬU HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

TRỊNH LAN ANH

ĐỜI SỐNG VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG SÁNG TÁC CỦA PAUL AUSTER
NHÌN TỪ TÂM THỨC HẬU HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trương Đăng Dung

HÀ NỘI, 2016



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy tôi, PGS- TS Trương Đăng
Dung – người đã trực tiếp dạy bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể quý thầy cô giáo ở Trường ĐHSP
Hà Nội 2, Viện Văn học Việt Nam, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội đã
giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Và xin được cảm ơn, chia sẻ niềm vui này với những người thương yêu
đã luôn bên tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Trịnh Lan Anh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá
nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS- TS Trương Đăng Dung.
Trong khi nghiên cứu luận văn, tôi đã kế thừa thành quả khoa học của các nhà
khoa học và đồng nghiệp với sự trân trọng và biết ơn.
Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được
đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu
của luận văn.

Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn


Trịnh Lan Anh


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG ...................................................................................................... 9
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ SÁNG
TÁC CỦA PAUL AUSTER .......................................................................... 9
1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại, tổng quan về mặt triết học .................................. 9
1.1.1. Các quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại ............................................. 9
1.1.2. Những điều kiện hình thành của chủ nghĩa hậu hiện đại .................... 12
1.2. Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. .................................................... 26
1.2.1. Trong văn học thế giới .......................................................................... 26
1.2.2. Trong văn học Việt Nam ...................................................................... 27
1.3. Sáng tác của Paul Auster .......................................................................... 30
1.3.1.Cuộc đời ................................................................................................. 30
1.3.2. Quá trình sáng tác.................................................................................. 32
1.3.3. Paul Auster- cây bút đại diện của các hình thức văn chương hậu hiện đại . 33
Chương 2. BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG TRONG SÁNG TÁC CỦA
PAUL AUSTER ............................................................................................ 42
2.1. Yếu tố ngẫu nhiên của đời sống ............................................................... 42
2.1.1. Ngẫu nhiên như là một thuộc tính ......................................................... 42
2.1.2. Đặc tính của cái ngẫu nhiên .................................................................. 48
2.2. Yếu tố bi hài của đời sống........................................................................ 54
2.2.1. Khái niệm bi hài .................................................................................... 54
2.2.2. Đặc tính của cái bi hài .......................................................................... 55



2.3. Những giới hạn của đời sống ................................................................... 59
Chương 3. BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
PAUL AUSTER ............................................................................................. 64
3.1. Mối quan hệ giữa hiện thực và hư cấu ..................................................... 64
3.1.1. Thuật ngữ “Hư cấu” và “Siêu hư cấu” .................................................. 64
3.1.2. Xóa nhòa ranh giới giữa hiện thực và hư cấu ....................................... 70
3.1.3.Vạch trấn quá trình hư cấu ..................................................................... 75
3.2. Mối quan hệ giữa sự viết và diễn giải văn bản ........................................ 79
3.3. Những giới hạn của nghệ thuật ................................................................ 90
KẾT LUẬN ................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Phản ánh nghệ thuật là một vấn đề quan trọng của mĩ học nói
chung và lí luận văn học nói riêng. Sự phát triển của văn học nghệ thuật cho
thấy sự vận động của tư duy nghệ thuật được thể hiện qua những quan niệm
của nhà văn về đời sống và phương thức phản ánh đời sống. Có thể nói, qua
thế giới nghệ thuật của nhà văn, chúng ta thấy được tư tưởng thẩm mĩ mà nhà
văn ấy gửi gắm qua nội dung phản ánh và các thủ pháp phản ánh mà nhà văn
đã lựa chọn. Hiểu theo một cách khác thì phản ánh nghệ thuật thực chất là vấn
đề giữa văn học và hiện thực. Các nhà lí luận từ Platon, Aristote cho đến
Lukacs rồi Caudwell, trong các nghiên cứu về đặc trưng phản ánh nghệ thuật
của họ cũng đưa ra rất nhiều quan điểm không giống nhau và còn tiếp tục gây
nhiều tranh cãi. Câu hỏi đặc trưng của phản ánh nghệ thuật là gì không chỉ là

vấn đề của các nhà lí luận mà cũng là thách thức với các nhà sáng tác. Nhiều
nhà văn đã thông qua sáng tác để nói lên quan niệm của mình về vấn đề lí luận,
trong đó nổi bật là Paul Auster. Paul Auster, trong các tác phẩm của mình
không chỉ nói về vấn đề sáng tác mà còn nói lên những quan điểm về vấn đề lí
luận mà cụ thể là vấn đề phản ánh văn học, mối quan hệ giữa đời sống và nghệ
thuật. Nói theo một cách khác, Paul Auster đã sử dụng sáng tác như một diễn
ngôn khác để trình bày vấn đề về lí luận.
1.2. Paul Auster được tôn vinh là nhà văn đương đại kiệt xuất nhất Hoa
Kỳ và là nhà văn hậu hiện đại bậc thầy của thế giới. Paul Auster sinh ngày 33-1947 tại Newark, New Jersey trong một gia đình Do Thái trung lưu. Ông
say mê đọc sách từ tấm bé và khao khát sáng tác để trở thành nhà văn. Sau khi
tốt nghiệp đại học Columbia, ông làm nhiều nghề tự do để kiếm sống và viết
các bài nghiên cứu cho các tạp chí. Tháng 6-1969, Auster tốt nghiệp cử nhân


2

ngành tiếng Anh và văn học so sánh. Một năm sau, ông hoàn thành chương
trình đào tạo thạc sĩ cùng chuyên ngành. Thời gian này, Auster bắt đầu viết
các cuốn tiểu thuyết Tại xứ sở của những cái cuối cùng (In the Country of
Last Things) và Cung điện mặt trăng (Moon Palace). Năm 1985, Auster thực
sự được độc giả chú ý khi cho in tác phẩm Thành phố thuỷ tinh (City of
Glass) một cuốn tiểu thuyết giả trinh thám mang đậm phong cách hậu hiện
đại. Tiếp đó là Những bóng ma (Ghost, 1986) và Căn phòng khoá (The locked
Room, 1986). Những tác phẩm này được tập hợp vào năm 1987 thành Bộ ba
New York (The New York Trilogy). Các tác phẩm của ông thể hiện thành
công cuộc sống đa diện của kỉ nguyên hậu hiện đại bằng lối trần thuật mang
đậm tính triết học, chuyển tải cái nhìn hài hước, có lúc mỉa mai đầy chua xót
về cuộc đời và con người trong thời kỳ các giá trị vật chất lên ngôi, và tinh
thần của nhân loại cùng quẫn vì những tính toán nhỏ nhoi, những tín điều, suy
nghĩ thảm hại của những kẻ lắm quyền, lắm tiền và những nỗ lực cay đắng

trong tuyệt vọng của những kẻ thấp cổ bé họng hòng tìm vận may trong thế
giới của những gã nhà giàu. Một cái nhìn mang tính bi quan nhưng không
phải không có lý trong một thời kì mà địa vị xã hội của cá nhân dường như đã
được khẳng định trật tự. Đồng thời, qua các sáng tác của mình, Paul Auster
luôn trình bày những quan điểm về lí luận. Mà cụ thể là chức năng phản ánh
của văn học. Ông luôn hoài nghi sứ mệnh của nghệ thuật, theo những quan
niệm truyền thống, hoài nghi khả năng phản ánh hiện thực của văn học khi nó
bị gắn với những trách nhiệm cao siêu, những quy ước ý nghĩa tự nó. Theo
ông, điều đó triệt tiêu nhanh chóng những cội nguồn sáng tạo của cả nghệ sĩ
và cả người đọc. Tác phẩm của Paul Auster không phải là nơi trưng bày
những bài học đạo đức, những ý nghĩa đời sống hay thế giới tâm hồn nhà
văn…như tham vọng của văn học truyền thống, mà là nơi thể hiện những tìm
kiếm không bao giờ ngơi nghỉ. Do vậy mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời


3

sống trong sáng tác của Paul Auster luôn là mối quan hệ bình đẳng, dân chủ
và không ngừng khám phá lẫn nhau. Đây là điểm khác biệt của Paul Auster
so với quan niệm về phản ánh trước đó nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Và là lí do mà chúng tôi lựa chọn đề tài “Đời sống và nghệ thuật trong sáng
tác của Paul Auster nhìn từ tâm thức hậu hiện đại”
1.3. Đề tài “Đời sống và nghệ thuật trong sáng tác của Paul Auster
nhìn từ tâm thức hậu hiện đại” hướng tới những khảo sát, phân tích ở một
hiện tượng văn học cụ thể để làm rõ mối quan hệ giữa đời sống và nghệ thuật
qua lăng kính của một nghệ sĩ bậc thầy của trào lưu văn học hậu hiện đại. Sự
lựa chọn này, còn có ý nghĩa trong việc nối kết các các vấn đề thuần túy lý
thuyết với thực tiễn sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Giúp chúng ta có sự so
sánh về đặc trưng phản ánh nghệ thuật của các nhà lí luận mác xít phương
Tây, nhà lí luận mác xít ở Việt Nam với đặc trưng phản ánh nghệ thuật hậu

hiện đại. Đồng thời, chúng tôi mong muốn đem lại một cái nhìn thỏa đáng khi
tiếp cận chủ nghĩa hậu hiện đại từ góc độ lý thuyết lẫn góc độ thực tiễn.
1.4. Nghiên cứu một hiện tượng văn học nước ngoài đồng thời giúp
chúng tôi có những nhìn nhận, đánh giá, đối sánh khi nhìn về nền văn học dân
tộc. Đặc biệt, những vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn đang có tính thời
sự đối với văn học Việt Nam giai đoạn sau đổi mới đến nay. Cái đậm đặc
trong chủ nghĩa hậu hiện đại của Paul Auster giúp chúng ta hiểu rõ hơn chủ
nghĩa hậu hiện đại và dòng chảy văn học thế giới, đồng thời soi sáng văn học
Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam, Paul Auster là tác giả tương đối mới nên việc nghiên cứu
tiểu thuyết của ông không nhiều. Đầu tiên là những bài giới thiệu sách, vài bài
cảm nhận trên Internet, hoặc những bài điểm tên tác giả một cách sơ sài trên


4

một số công trình nghiên cứu tổng thể. Tuy vậy, nhìn chung, các tác giả đều
thừa nhận đây là một đại biểu xuất sắc của văn học hậu hiện đại Mĩ.
Năm 2007, Trịnh Lữ bắt đầu dịch ba tiểu thuyết Thành phố thủy tinh,
Những bóng ma, Căn phòng khóa kín trong tập Trần trụi với văn chương (tác
giả luận án dịch là Bộ ba New York để sát nghĩa hơn với tên gốc The New
York Trilogy), cũng năm đó, bản dịch Nhạc đời may rủi ra mắt. Cùng với sự
ra đời của mỗi bản dịch, trong phần Lời người dịch, Trịnh Lữ thường có
những trang viết ngắn vừa để giới thiệu sách, chia sẻ những câu chuyện bên
lề, vừa có một số trích dẫn quan trọng ý kiến của giới phê bình Âu - Mĩ mà
ông chắt lọc. Trong Trần trụi với văn chương: “Giới phê bình phương Tây
gọi New York Trilogy là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “giả tưởng phản
trinh thám”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”. “Một hỗn hợp
của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”.

Theo Trịnh Lữ, bộ ba tiểu thuyết này là dạng đặc biệt của trinh thám hậu hiện
đại bởi vẫn dùng những yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cổ điển,
nhưng Paul Auster đồng thời sáng tạo ra những hình thức mới với lối văn
phong hậu hiện đại châm biếm, mỉa mai.Với Người trong bóng tối, dịch giả
quan tâm tới “chất tự sự sâu lắng kết nối rất tự nhiên mọi yếu tố hậu hiện đại
vốn có trong tác phẩn của ông: những thực tại song hành, tính chất liên văn
bản (đặc biệt là giữa văn học và điện ảnh), cấu trúc phi trung tâm về đề tài và
cốt truyện….” [7, tr.8]. Dẫu đây chỉ là những lời giới thiệu mang tính chất
bao quát nhưng cũng đã cho thấy cái nhìn lưu tâm của dịch giả về bút pháp
hậu hiện đại của tiểu thuyết gia.
Tạp chí nghiên cứu Văn học số 6/2009 đã đăng tải bài “Paul Auster và
Nhạc đời may rủi” của Lê Huy Bắc. Theo tác giả bài báo, tiểu thuyết của Paul
Auster đã thể hiện thành công “cuộc sống đầy đa diện của kỷ nguyên hậu hiện
đại bằng lối trần thuật mang đậm tính triết học, chuyển tải cái nhìn hài hước,


5

có lúc mỉa mai đầy chua xót về cuộc đời và con người trong thời kỳ các giá trị
vật chất lên ngôi, và tinh thần của nhân loại cùng quẫn….” [21,tr. 16]. Tác giả
được phân tích khá tỉ mỉ, đặc biệt đi sâu vào các lớp ý nghĩa của các biểu
tượng. “Giống như nhiều tác giả hậu hiện đại khác, hình tượng của Paul
Auster cũng mang tính biểu tượng cao. Nhân vật không chỉ tồn tại cho chính
họ mà còn cho một quan niệm nhân sinh, quan niệm đạo đức về cuộc đời”
[21, tr. 19] Paul Auster được khẳng định là nhà văn hậu hiện đại bậc thầy của
thế giới.
Đáng kể nhất là luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thanh
Hiếu, viện khoa học xã hội Việt Nam. Trong luận án “Đặc trưng bút pháp hậu
hiện đại trong sáng tác của Paul Auster” tác giả đi sâu vào các đặc trưng cơ
bản nhất trong bút pháp hậu hiện đại của Paul Auster. Từ cách xử lý của tác

giả người Mỹ này, người đọc có thể nhận ra một hướng đi khác của chủ nghĩa
hậu hiện đại: bên cạnh những tân kỳ, phá cách về kỹ thuật, thủ pháp; hậu
hiện đại còn là sự giản dị về mặt hình thức. Căn cốt của nó, do vậy, là ở tính
chất đặc thù trong cách nhìn, cách khám phá, tri nhận của mỗi nhà văn. Kết
quả nghiên cứu của luận án góp phần lý giải sức hấp dẫn của tiểu thuyết Paul
Auster, khẳng định vị trí riêng của ông trong văn học Mỹ và văn học hậu hiện
đại thế giới, từ đó, có những đối sánh thú vị với một số hiện tượng đáng chú ý
trong văn học Việt Nam đương đại.
Những thông tin trên cho thấy việc nghiên cứu tiểu thuyết của Paul
Auster ở Việt Nam còn ít. Mặt khác, trong các nghiên cứu về Paul Auster
mặc dù có đề cập đến mối quan hệ giữa đời sống và nghệ thuật nhưng sơ
lược. Chưa có nghiên cứu nào đề cập đến như một vấn đề cốt lõi của nghiên
cứu. Vì thế, luận văn của chúng tôi muốn làm rõ hơn mối quan hệ giữa đời
sống và nghệ thuật thông qua lăng kính thẩm mĩ của Paul Auster.


6

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Thông qua việc nghiên cứu một số sáng tác của Paul Auster, làm rõ
vấn đề phản ánh đời sống và nghệ thuật trong sáng tác của Paul Auster nhìn
từ tâm thức hậu hiện đại. Đây chính là cơ sở để tác giả chọn lựa các chiến
lược, thủ pháp phù hợp và cũng là sự phân biệt Paul Auster với các nhà văn
hậu hiện đại khác.
3.2. Khẳng định bản chất của đời sống trong sáng tác của Paul Auster
không phải là sự sao chụp tự nhiên mà là cái ngẫu nhiên đầy trùng hợp và bất
ngờ, cùng với cái hài hước và bi đát của nó.
3.3. Khẳng định siêu hư cấu là một đặc trưng nổi bật của Paul Auster
nhằm phơi bày hiện thực. Từ đó đề cao vai trò của người đọc trong việc diễn
giải văn bản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn của tác giả tập trung phân tích những đặc điểm nổi bật trong
việc phản ánh đời sống và nghệ thuật của Paul Auster nhìn từ tâm thức hậu
hiện đại ở thể loại tiểu thuyết. Tác giả chỉ khai thác những đặc trưng chính
yếu, như là những chìa khóa quan trọng giúp nhận diện tiểu thuyết Paul
Auster trong nền văn chương hậu hiện đại thế giới. Đó là cảm quan đời sống
với những yếu tố ngẫu nhiên và bi hài cùng với những giới hạn của nó. Đó là
cảm quan nghệ thuật với mối quan hệ giữa hiện thực và hư cấu, giữa sự viết
và diễn giải.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tiểu thuyết của Paul Auster
đã được xuất bản. Một số sáng tác của các nhà văn hậu hiện đại tài năng khác
sẽ được tác giả nhắc đến như là những đối sánh để tìm ra các điểm gặp gỡ và
khác biệt.


7

Tính đến nay, Paul Auster đã xuất bản mười sáu tiểu thuyết. Tuy nhiên,
cũng như bất kỳ nhà văn vĩ đại nào, không phải tất cả trong số đó đặc sắc.
Chính vì thế, chúng tôi đã chọn lọc một số tác phẩm nhất định và xem đó là
“phạm vi nghiên cứu trực tiếp” của luận văn. Điểm chung của những tiểu
thuyết được lựa chọn xuất phát từ hai lý do: thứ nhất, chúng được các nhà
nghiên cứu uy tín đánh giá là các tác phẩm hậu hiện đại xuất sắc; thứ hai, các
dịch giả đã chuyển ngữ số tiểu thuyết này sang tiếng Việt nên công chúng
trong nước đã phần nào được thưởng thức tác phẩm của ông.
Cụ thể là các tiểu thuyết Thành phố thủy tinh (City of glass), Căn
phòng khóa kín (The locked room), Nhạc đời may rủi (The music of chance),
Moon Palace, Người trong bóng tối (Man in the dark).

Các tiểu thuyết khác của nhà văn được phân tích trong mối liên hệ, đối
sánh nên mức độ nhìn nhận, đánh giá sẽ mờ nhạt hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống - cấu trúc:
Đây là phương pháp đặt đối tượng trong một hệ thống hoặc cấu trúc
nhất định để dễ bề nghiên cứu. Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm xem
xét mối quan hệ giữa đời sống và nghệ thuật trong sáng tác của Paul Auster
như một bộ phận cấu thành nên nền văn học hậu hiện đạiv ì thế, bút pháp của
ông chịu sự chi phối của văn học hậu hiện đại Mỹ và thế giới. Đồng thời, luận
văn nhận diện những đóng góp riêng, độc đáo của nhà văn như là nét đặc trưng
không trộn lẫn.
5.2. Phương pháp loại hình:
Phương pháp này gắn liền với sự phân loại. Tác giả sử dụng nó nhằm
phân loại các chiến lược, thủ pháp nghệ thuật của tác giả cũng như phân loại
thời đại văn học mà nhà văn thuộc về mà ở đây, bối cảnh được đề cập là văn
học hậu hiện đại Mỹ.


8

5.3. Phương pháp so sánh
Bởi đề tài nhấn mạnh cái riêng biệt, độc đáo nên việc đối sánh tiểu
thuyết của Paul Auster với các bậc tiền bối hiện đại và những đồng nghiệp
hậu hiện đại đương thời là một công việc cần thiết. Phương pháp này được sử
dụng ở tất cả các nội dung nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn phân tích những lựa chọn của Paul Auster trong việc tạo
dựng một lối đi riêng giữa dòng chảy hậu hiện đại nhiều ngả hướng, từ đó, dễ
dàng nhận diện quan niệm về đời sống và nghệ thuật của ông. Để làm được
điều đó luận văn khảo sát từ tâm thức hậu hiện đại.

7. Cấu trúc của đề tài
Chương 1: Khái lược về chủ nghĩa hậu hiện đại và sáng tác Paul Auster
Chương 2: Bản chất của đời sống trong sáng tác của Paul Auster
Chương 3: Bản chất của nghệ thuật trong sáng tác của Paul Auster


9

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ SÁNG TÁC
CỦA PAUL AUSTER

1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại, tổng quan về mặt triết học
1.1.1. Các quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại
Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là một hệ thống lý thuyết
được xây dựng ở thời kỳ hậu hiện đại. Nó ra đời khi chủ nghĩa hiện đại hết vai
trò toàn trị, đã biến thành các “đại tự sự”: Hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với
các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của sự tiến bộ của các khoa học; nhưng
sự tiến bộ này đến lượt nó lại tiền giả định sự hoài nghi đó tương ứng với sự già
cỗi của cơ chế siêu tự sự trong việc hợp thức hoá là sự khủng hoảng của nền triết
học siêu hình học, cũng như sự khủng hoảng của thiết chế đại học phụ thuộc vào
nó. Chức năng tự sự mất đi các hình thức mang chức năng: các anh hùng lớn,
các hiểm họa lớn chuyến tải thành các mục đích lớn. Nó tan ra thành từng mảng
các yếu tố ngôn ngữ mang tính tự sự, nhưng cũng là tính sở thị, tính chỉ thị, tính
miêu tả,v.v…. Như vậy, khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại là một khái niệm
mở. Vì vậy, ngoài việc xác định lịch sử ra đời của nó, thì một trong những
điều quan trọng nữa là phải xác định nội hàm của khái niệm “chủ nghĩa hậu
hiện đại”. Trong thực tế, đã có rất nhiều quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại,
thậm chí là đối ngược nhau. Hiện trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau

cùng cộng hưởng lại. Thứ nhất, hậu hiện đại không đơn thuần là một trào lưu
trong một phạm vi của một lĩnh vực nào đó, mà mỗi ngành lại có một quan
niệm riêng về hậu hiện đại, thích ứng với nội dung và tiến trình vận động của
nó: “Chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu liên ngành, không dựa trên một
bản thể luận theo cách hiểu của triết học truyền thống,nói cách khác nó thiếu


10

một cơ sở làm nền tảng cho mọi lý luận” [14, tr.134]. Chính vì tính liên
ngành, bao quát một phạm vi quá rộng, từ lịch sử đến kinh tế, từ kiến trúc đến
văn học, từ “điều kiện” đến “tâm thức”… đã làm cho “hậu hiện đại” trở thành
một khái niệm có tính nguyên hợp và “có điều kiện” (trong những hoàn cảnh
cụ thể). Ngay bản thân các tác phẩm của Lyotard cũng chỉ xem xét vấn đề
“điều kiện” hậu hiện đại, chứ không có tham vọng hoàn thiện một hệ lý thuyết
trong tính hoàn chỉnh, từ bản thể luận đến nhận thức luận. Steven Seidman đã
nhận xét, một khi lĩnh vực mà chúng ta quan tâm là gì, thì sẽ tồn tại một cách
hiểu hậu hiện đại tương ứng. Thứ hai, bản chất của hậu hiện đại là giải khu
biệt hoá, giải hợp thức hoá các hệ hình lý thuyết có tính chất đại tự sự. Vì vậy,
lý thuyết hậu hiện đại đề cao tính hỗn độn, bất định và phi trung tâm hoá, và
cả mỹ học hậu hiện đại cũng chủ trương giải - thẩm mỹ hoá.
Về phương diện triết học: J. Lyotard trong công trình Hoàn cảnh hậu
hiện đại (1979) coi hậu hiện đại là sự nỗ lực chống lại các “đại tự sự” (tức các
“lý thuyết phổ biến”) của chủ nghĩa duy lý thời Khai Sáng cùng các di sản của
nó. H.Foster phân chia ra hai loại chủ nghĩa hậu hiện đại: một loại mang tính
tân bảo thủ (theo kiểu nhân văn chủ nghĩa) và một loại mang tính hậu cấu trúc
chủ nghĩa, nhưng cả hai loại đều chủ trương triệt tiêu hoặc giải thể chủ thể
(1984). Fredric Jameson cho rằng “sự tha hoá của chủ thể” trong chủ nghĩa
hiện đại đã được thay thế bằng“sự phân mảnh của chủ thể” trong chủ nghĩa
hậu hiện đại ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản muộn, hơn thế, đó còn là một “sự

phân mảnh mang tính tinh thần phân liệt” (1983-1984). U. Eco xem hậu hiện
đại “là một phạm trù tinh thần, hoặc tốt hơn, một Kunstwollen - một phương
thức thao tác” [1996].
Về phương diện chính trị: Ihab Hassan coi chủ nghĩa hậu hiện đại là
một thứ chủ nghĩa hiện đại muộn (còn gọi là chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ),
mang tính phi lý tính, phi xác định, hỗn loạn, nhưng cũng mang tính nhập


11

cuộc (1971). J. Lyotard xem hậu hiện đại là sự đánh mất niềm tin vào các “đại
tự sự”, là sự nỗ lực chống lại các “đại tự sự” (tức các lý thuyết phổ biến),
(1979). Giống như J. Lyotard, James Kurth cũng coi chủ nghĩa hậu hiện đại
trong triết học chính trị là sự bác bỏ các giá trị hiện đại chủ nghĩa của chủ
nghĩa duy lý thời Ánh Sáng (2001). L. P.Evstigneva và R. Evstigneev quan
niệm đặc trưng của xã hội hậu hiện đại là tính đối thoại, còn đặc trưng của xã
hội công nghiệp hiện đại là độc thoại (2000)…
Về phương diện lịch sử: J. Baudrillard xem hậu hiện đại là “thời gian,
khi loài người đạt tới sự cáo chung của lịch sử”, đó là thế giới của những sự
mô phỏng và chỉ là mô phỏng mà thôi, trong đó con người không còn phân
biệt được giữa hiện thực và mô phỏng (1983). Ông đã coi Công viên
Disneyland và truyền hình mới chính là lịch sử hiện thực nước Mỹ, thậm chí,
cuộc Chiến tranh vùng Vịnh cũng không hề có thực mà chỉ là một “hiện thực
ngoa thực”, hay một “ngoa thực”, một cảnh mô phỏng (hiện thực ảo) giống
như một trò chơi video (1995). Ch. Jencks gọi hậu hiện đại “là thời đại của sự
lựa chọn không ngừng. Đó là thời đại không có sự chính thống nào có thể
được tiếp nhận…, là một thứ hỗn hợp mang tính chiết trung của bất cứ truyền
thống nào với những gì mới qua”. G. Lipovetsky cho rằng hậu hiện đại là “sự
quay trở về với nguồn gốc của con người”…
Về phương diện văn hoá: L. Fiedler xem hậu hiện đại chỉ chú trọng đến

những nền phản văn hoá mới mang tính phản lý tính (1965). J. Lyotard xem
hậu hiện đại là giai đoạn mà thân phận của tri thức bị phụ thuộc vào các
phương tiện truyền thông đại chúng (1979). Umberto Eco xem hậu hiện đại là
“sự xem xét lại một cách mỉa mai cái điều đã được phát biểu trong một thời
đại của sự ngây thơ đã bị đánh mất” (1983). Baudrillard xem văn hoá hậu
hiện đại là thế giới của những “vật ngụy tạo” (1995). A.E. Chuchin-Rusov
xem văn hoá hậu hiện đại là môi trường có thể làm cho con người “vui sướng


12

cảm thấy tự do bay bổng trong “chiều cạnh thứ tư của văn hoá”, không biết
đến mọi giới hạn về thời gian và lãnh thổ” (1999). M. Epstein xem văn hoá
hậu hiện đại là kết quả của sự “phì đại” trên mọi lĩnh vực, tạo ra một không
gian văn hoá giả . J. Collin nhìn nhận văn hoá hậu hiện đại từ góc độ kết hợp
văn hoá đại chúng với văn hoá địa phương. M. Featherstone xem văn hoá hậu
hiện đại là văn hoá tiêu thụ được thẩm mỹ hoá. D. Kellner và S. Best xemvăn
hoá hậu hiện đại chính là văn hóa kỹ trị…
Về phương diện nghệ thuật (kiến trúc, hội hoạ): R.Veturi đã đề xuất
phương châm mới trong kiến trúc: “Ít hơn, tức là nhàm chán”. Kiến trúc hậu
hiện đại theo ông là “sự phong phú, kỳ quặc, châm biếm và cả sự bối rối của
cái thế giới nó chiếm lĩnh và cố gắng thể hiện”. Ch. Jenks xem kiến trúc hậu
hiện đại là một phong trào lai tạp mới, “một sự pha trộn nhiều phong cách”.
D. Kolb xem kiến trúc hậu hiện đại là một nền nghệ thuật mang tính châm
biếm, cho nên cần có một thái độ phê phán nó. Ch.Masters xem kiến trúc hậu
hiện đại và nghệ thuật tạo hình là sự kết hợp giữa chất liệu hình thức hiện đại
với các phong cách và motip quá khứ, mang tính chiết trung. Jonathan Glacey
xem kiến trúc hậu hiện đại là một phong trào “phát sinh từ việc đào sâu tìm
hiểu lịch sử và bối cảnh do các kiến trúc sư khắp nơi thực hiện, họ đã phấn
đấu để dung hoà lịch sử và tiền lệ địa phương với đồ án kiến trúc hiện đại”.

N.Pevsner lại xem kiến trúc hậu hiện đại là phong cách kiến trúc phản duy lý.
Trong hội hoạ, theo từ điển Microsoft Encata 99, mỹ thuật hậu hiện đại được
xem là “chủ nghĩa biểu hiện mới”.
1.1.2. Những điều kiện hình thành của chủ nghĩa hậu hiện đại
Điều kiện triết học: Chủ nghĩa hậu hiện đại, khi được hiểu là một
phong trào văn hóa xã hội có tính tổng thể, thì có nghĩa nó được khởi nguồn
từ nhiều điều kiện khác nhau. Tuy vậy, cần phải hiểu rằng, nó được bắt đầu từ
triết học. Đây là vấn đề phức tạp nhất, nhưng cũng quan trọng nhất, và nếu


13

không có được cái nhìn tổng thể về nó thì sẽ không bao giờ hình dung và hiểu
được về chủ nghĩa hậu hiện đại. Xét về hoàn cảnh, chủ nghĩa hậu hiện đại
được hình thành khi mà nền triết học Phương Tây đang chịu tác động (chi
phối) bởi chủ nghĩa cấu trúc, hiện tượng luận, phân tâm học, chủ nghĩa hiện
sinh, chủ nghĩa thực chứng. Xét về mặt tư tưởng, cơ sở của chủ nghĩa hậu hiện
đại đến từ nhiều lĩnh vực, từ triết học về ngôn ngữ cho đến triết học về khoa
học, từ triết học về nữ quyền cho đến phân tâm học. Theo cách hiểu này, chúng
ta có thể tạm phân chia một số khuynh hướng tư tưởng cơ bản sau.
Triết học ngôn ngữ: Dõi theo trục lịch đại của sự phát triển xã hội loài
người từ góc độ văn hóa (trong nghĩa phổ quát của từ này), chúng ta thấy mỗi
thời đại đều xác lập nên những đặc trưng riêng của nó. Cái văn cảnh đặc thù
bao bọc đời sống lịch sử cụ thể của văn hóa thời đại gồm nhiều thành tố, yếu
tố đan cài, xếp lớp với nhau rất đa dạng và cũng rất phức tạp.
Trước đây, sự định dạng hệ hình văn hóa của từng thời đại thường được
xem xét từ các điều kiện: học thuyết chính trị, cơ cấu xã hội, sự kiện lịch sử,
phát minh khoa học - kỹ thuật, vấn đề tôn giáo, loại hình nghệ thuật… Trong
khi đó, ngôn ngữ - cái chứa đựng trong nó gần như toàn bộ đờisống thời đại,
vừa là văn cảnh vừa là nội dung của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã

hội, mang tính liên kết duy nhất của mọi yếu tố tồn tại, thì chưa thật sự được
nhìn nhận đúng và đầy đủ. Phải đến chủ nghĩa hiện đại và tiếp theo là chủ
nghĩa hậu hiện đại, ngôn ngữ mới từng bước được đặt định đúng vị trí và tầm
quan trọng của nó, khi ngôn ngữ trở thành trung tâm nghiên cứu của triết học,
phân tâm học và khoa học văn học.
Với vai trò là người sáng lập triết học ngôn ngữ (cùng với B. Russell),
L.Wittgenstein (người Áo, 1889 - 1951) đã thực hiện một bước ngoặt lớn
trong triết học phương Tây thế kỷ XX. Không nhìn những vấn đề của triết học
dưới hai phạm trù cơ bản là vật chất và tinh thần, L.Wittgenstein đã nhìn nhận


14

thế giới dưới các quy tắc và đặc điểm của ngôn ngữ. Năm 1953, trong cuốn
Truy tầm triết học (xuất bản sau khi tác giả mất), nhà triết học thừa nhận tính
đa chức năng của ngôn ngữ, đồng thời đưa ra khái niệm về “trò chơi ngôn
ngữ”. Khái niệm này đã biến mọi nhận thức luận của con người, dù là khách
quan nhất, đều chỉ là các diễn ngôn của trò chơi ngôn ngữ. Thế giới mang
diện mạo không phải như cách con người (khách quan) nhìn thấy nó, mà là
như cách mà con người (chủ quan) kể về nó. Trò chơi là một loạt những ứng
xử đề cao tính sáng tạo cụ thể của người chơi, hơn là truy tầm những quy tắc,
cũng như hoài niệm về người sáng tạo ra những quy tắc đó. L.Wittgenstein
đã viết: “Vì mọi định nghĩa tổng quát cũng có thể bị hiểu sai. Điểm chính ở
đây là cách chúng ta chơi trò chơi. (Tôi muốn nói trò chơi ngôn ngữ với từ
“trò chơi”)” [15, tr.64]. Tầm quan trọng của lý thuyết Wittgenstein đối với
nhận thức hậu hiện đại là ở chỗ: “… bằng các nghiên cứu của mình ông đã
vạch ra cho trò chơi ngôn ngữ một viễn cảnh hợp thức hóa kiểu khác hơn là
kiểu “hiệu quả thực hiện” (performativité). Thế giới hậu hiện đại phải làm
việc với viễn tưởng mới này. Hoài niệm về truyện kể đã mất nay cũng đã mất
đi nơi bản thân đại bộ phận con người…” [28, tr.163].

Cùng thời với L.Wittgenstein là M. Heidegger (người Đức, 1872 1970), một người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết học Hiện tượng luận của E.
Husserl (1859 - 1938). M. Heidegger đã có công lao lớn trong việc hình thành
Tường giải học hiện đại, bộ môn có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà hậu
hiện đại tên tuổi như R. Ingarden, P. Ricoeur, H. Gadamer. Mối quan tâm về
tinh thần và bản chất ngôn ngữ trong mối quan hệ với tồn tại đã được M.
Heidegger xem là một trọng tâm trong nghiên cứu triết học hiện đại. Trong
công trình nổi tiếng Hữu thể và thời gian (1923), ông đã nhìn thấy những giới
hạn của khoa học ngôn ngữ đương thời, một là dùng dằng ở việc “chỉ tiết hợp
hiện vật nội thế được nhận biết nơi suy tư lý thuyết và được diễn tả nơi mệnh


15

đề”, hai là sa vào việc xem “kết quả của việc so sánh sâu sắc nhiều ngôn ngữ
xa lạ như có thể” [36,tr.8]. Theo M. Heidegger, không thể chỉ xem xét ngôn
ngữ trong những chức năng thuần ngôn ngữ, vì ẩn trong các hệ thống hình
thức có tính ổn định bên ngoài luôn tiềm chứa những thay đổi không thể tiên
liệu và sự dịch chuyển nằm sau những cấu trúc ngôn ngữ. Có thể thấy, vấn đề
đâu là căn nguyên của ngôn ngữ luôn thường trực trong suy tư triết học của
M. Heidegger. Gần bốn mươi năm sau của sự xuất hiện Hữu thể và thời gian,
trong tác phẩmTrên đường đến với ngôn ngữ (1959), M. Heidegger đã nhìn
thấy ngôn ngữ chính là “Ngôi nhà của Hữu thể”. Sử dụng thuật ngữ “hữu thể”
của siêu hình học, ông đã “nỗ lực đưa bản chất siêu hình lên bề mặt rồi qua đó
chuyển về gắn với các giới hạn của nó”. Đây là sự ám chỉ về sự giới hạn của
nhận thức, giới hạn này nằm trong chính mối quan hệ giữa ngôn ngữ với hữu
thể được lý giải bởi chủ thể. Không phải chỉ thuần tuý con người tạo ra ngôn
ngữ, mà chính ngôn ngữ cũng đã tạo ra con người. Bản chất của ngôn ngữ
chính là ở nơi tạo lập đời sống con người, là nơi sáng tạo ra thế giới. Tính liên
kết giữa ngôn ngữ và tác phẩm văn học chính là sự minh giải hữu thể toàn vẹn
nhất, và trung tâm tạo nghĩa cho văn bản chính là người đọc, trong một vòng

tròn quyết định luận. Sau này, những nhà Tường giải học đã xem tác phẩm
văn học (được biểu hiện qua ngôn ngữ) là vật “hai lần có ý hướng” (R.
Ingarden), do đó, phương thức tồn tại của văn bản chính là hoạt động cụ thể
hóa của người đọc. Văn bản mới chỉ là ý hướng của tác giả, đóng vai trò tiền
đề cho sự ra đời của tác phẩm văn học.
Chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ các loại diễn ngôn có tính phán quyết và
toàn trị, vì vậy nó không thừa nhận các “đại tự sự” mang tính chính thống và
bất biến, trong đó có chủ nghĩa cấu trúc. Trường phái ngôn ngữ học cấu trúc
là một trong những hướng phát triển lớn của triết học về ngôn ngữ, được xây
dựng bởi nhà ngôn ngữ học F. de Saussure (người Thụy Sĩ, 1857 - 1931), và


16

được phát triển bởi những người đi sau như C. Levi Strauss, T. Todorov, G.
Genette, R. Jakobson. Chủ nghĩa cấu trúc không truy tìm ý nghĩa của các hệ
thống ngôn ngữ từ những hiện tượng trong đời sống, mà “nghĩa của ngôn ngữ
mang chức năng của một hệ thống” [2,tr.57]. Với chủ nghĩa cấu trúc, quá
trình tạo nghĩa của từ gắn với mối quan hệ giữa “cái biểu đạt” và “cái được
biểu đạt”. Bao giờ cũng vậy, bên cạnh một cái biểu đạt phát ra, thường có một
cái được biểu đạt đang tồn tại làm tương ứng. Quan hệ giữa cái biểu đạt và vật
được biểu đạt mới là võ đoán, chứ không phải giữa cái biểu đạt với cái được
biểu đạt. Cho nên, “Nghĩa là sản phẩm của một hệ thống biểu tượng mà bản
thân nó không có nghĩa” [2, tr.59]. Như vậy, “nghĩa” của ngôn ngữ là con đẻ
của một quá trình tạo nghĩa, chứ không phải được cấp từ hiện thực bên ngoài,
hay chủ ý từ bên trong. Chủ nghĩa cấu trúc vừa loại bỏ nguồn gốc vật chất,
vừa giải thể thuộc tính tinh thần của ngôn ngữ, vì vậy, chủ nghĩa hậu hiện đại
xem nó là một “chủ nghĩa phi lịch sử” trong triết học về ngôn ngữ.
Phê phán chủ nghĩa cấu trúc với những nhìn nhận mang tính hình thức,
bất biến và siêu hình về ngôn ngữ, đặc biệt là sự quan niệm máy móc về quá

trình tạo nghĩa, những nhà hậu cấu trúc như M.Foucault, J.Derrida,
T.Eagleton… lại có một cách nhìn khác về ngôn ngữ. Những nhà hậu cấu trúc
đặc biệt không tin tưởng vào sự tương ứng giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt trong quá trình tạo nghĩa: “Cái biểu đạt không đưa ra cho chúng ta cái
được biểu đạt một cách trực tiếp như tấm gương phản ánh hình ảnh: ở đây
không có cặp đối xứng nhau một cách hài hoà giữa mức độ của cái biểu đạt và
mức độ của cái được biểu đạt trong ngôn ngữ” [24, tr.301]. Các nhà hậu cấu
trúc tin rằng, nghĩa của ngôn ngữ không bao giờ được xác định từ chính hệ
thống của nó, có một cái gì đó luôn vận động và tuôn chảy đằng sau ngôn
ngữ. Đi từ cách hiểu trên, năm 1967, R. Barthes đã tuyên cáo về “cái chết”
của tác giả, nhằm nỗ lực trả lại tính tự do cho quá trình tạo nghĩa trong hoạt


17

động đọc của người tiếp nhận. Từ đó, R. Barthes cũng đề xuất bút pháp “độ
không của lối viết”, nhằm tạo ra những khoảng trống, buộc người đọc phải tự
lấp đầy trong khi tiếp nhận. Nhìn chung, các nhà hậu cấu trúc, mà cụ thể là
những nhà giải cấu trúc như J. Derrida vẫn xem văn bản là trung tâm của thế
giới (dĩ ngôn vi trung), nhưng văn bản lại là một kết cấu “có tính vẫy gọi”,
một văn bản mở. Theo J. Derrida, giải cấu trúc “là đảo lộn và thay thế một
trật tự khái niệm, cũng như trật tự phi khái niệm mà trong đó trật tự khái
niệm được diễn tả” [15, tr.661]. Các nhà hậu cấu trúc vẫn xem ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp xã hội và công cụ nhận thức, nhưng nó lên án sự lạm
dụng và áp đặt ngôn ngữ trong một trật tự mang tính đẳng cấp và ưu tiên, biến
ngôn ngữ thành những điều dối trá hợp thức, làm “thoái hoá ngôn ngữ”. Vì
vậy, họ “coi phê phán ngôn ngữ như phê phán văn hóa và văn minh”.
Qua những nét chính được nêu trên của lý thuyết triết học về ngôn ngữ,
chúng ta có thể thấy mọi nỗ lực của các nhà tiên phong trong lĩnh vực này đều
xoayquanh việc mở rộng giới hạn cho những cách hiểu ngôn ngữ, cách cắt nghĩa

văn bản, phương thức tạo nghĩa của từ ngữ. Chính cơ sở nền tảng chung đó đã
tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời chủ nghĩa hậu hiện đại. Tường giải học xã
hội và triết học lịch sử hậu hiện đại đã khai thác các khía cạnh ngôn ngữ không
chỉ để luận chứng, mà để xây dựng những quan điểm của mình về vấn đề tiến bộ
xã hội.
Có thể nhận thấy dấu ấn đậm nét của triết học ngôn ngữ của L.
Wittgenstein, nhất là lý thuyết về “trò chơi ngôn ngữ”, trong triết học của J.
Lyotard, người được xem là nhà lập thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong
công trình Hoàn cảnh hậu hiện đại, J. Lyotard đã vận dụng các phạm trù của
triết học ngôn ngữ để phân tích xã hội. Dựa vào bộ ba Tri thức, Văn hóa và
Ngôn ngữ, ông đã đề xuất nhiều khái niệm quan trọng về thời hiện đại và hậu
hiện đại, trong đó khái niệm có vị trí trung tâm là “đại tự sự” (siêu tự sự). Nhà


18

triết học đã xem các luận thuyết lớn được xây dựng dưới thời hiện đại là
những đại tự sự. Thời hiện đại đã dụng công phát triển hệ thống luận thuyết
này, nỗ lực tạo nên một sức mạnh toàn trị. Có nhiều người đã không hiểu rõ
tinh thần triết học của J. Lyotard, cho rằng ông chủ trương triệt phá toàn bộ
các chủ thuyết mà con người đã tạo dựng nên. Cách phân tích triết học của
Trương Đăng Dung là hợp lý hơn cả, khi đánh giá về quan điểm của J.
Lyotard: “ Việc đánh mất niềm tin vào siêu tự sự không phải là sự phê phán
mặt này hay mặt kia; không phải là sự phủ nhận siêu tự sự như là khả năng
sản xuất, mà là sự bác bỏ niềm tin vào khả năng bao quát tất cả của siêu tự sự.
Câu trả lời của hậu hiện đại là các siêu tự sự không đáp ứng được những chờ
đợi của chúng ta liên quan đến chiến lược tổ chức ý nghĩa thông qua chúng”
[36, tr. 4].
Đại diện lớn nhất của chủ nghĩa giải cấu trúc là J. Derrida. Trong tư
tưởng, J. Derrida không đồng ý với quan điểm về bản chất ngôn ngữ của E.

Husserl, “rằng ngôn ngữ chỉ là công cụ để chuyển tải thông điệp”. Vì quá
chú trọng đến việc làm cho sự trải nghiệm chủ quan trở thành nghĩa, và hoạt
động nhận thức hiện tượng độc lập với ngôn ngữ, Husserl cho rằng “ngôn ngữ
chỉ là hệ thống thứ hai”, chỉ là công cụ để chuyển tải thông báo. Đối với E.
Husserl, “trung tâm nghĩa, bản chất nghĩa đã có trong ý thức của người làm
ra nghĩa”. Nhưng theo J. Derrida, “ý thức của tác giả không hề có ưu thế
tuyệt đối bên trên nghĩa của ngôn từ […]. Cái biểu đạt tự nó nói nhiều hơn
bất kỳ sự sử dụng nào của tác giả” [36, tr.9]. J. Derrida cũng đã phê phán lý
thuyết cấu trúc của L. Strauss. Ông cho rằng quan điểm về tính thống nhất của
cấu trúc văn bản của L.Strauss là hoàn toàn nhầm lẫn. Bởi vì, trong văn bản
không bao giờ tồn tại một dạng thức được định hướng cụ thể và bất biến, cấu
trúc là một hệ thống mở và động, gồm nhiều thành tố với những tính chất
khác nhau và không được hiểu giống nhau. Nó luôn luôn vận động tùy theo


19

hoàn cảnh và người cắt nghĩa, giống như một trò chơi. Theo J. Derrida, việc
phân tích văn bản (dựa vào nguyên tắc giải cấu trúc) là phải chỉ ra tính bất ổn
của các lớp nghĩa chứa trong văn bản, chỉ ra những nghĩa bị bỏ sót, những
nghĩa bị che khuất. Trong quá trình lý giải, cắt nghĩa văn bản, việc để cho
nhiều lớp nghĩa trôi qua mà không bị phát hiện, được xem là sự hiển nhiên, và
điều này diễn ra không chỉ ở người đọc “đại chúng”, mà ở ngay các nhà phê
bình văn học “thông suốt” và ngay chính cả tác giả. Do đó, nghĩa không lệ
thuộc vào định hướng của tác giả - chủ thể sử dụng ngôn ngữ trong văn bản,
mà lệ thuộc vào sự hiểu của người đọc hay thế hệ người đọc, với hoạt động cụ
thể của từng cá nhân trong quá trình tiếp nhận. Chẳng hạn, khái niệm “hiện
thực” vẫn được xem là đối tượng nhận thức và phản ánh của văn học, nhưng
thực ra nó chỉ là “ảo ảnh” của một quá trình chủ quan hóa, từ tác giả - tác
phẩm - người đọc. Nghĩa là đã trải qua nhiều lần biến đổi, mà mỗi lần như thế

lại có nhiều lớp nghĩa được tạo ra về cách hiểu “hiện thực”. Điều tương tự
cũng diễn ra với các khái niệm khác như đề tài, chủ đề, hình tượng, giọng
điệu, điểm nhìn, phong cách nghệ thuật…
Tư tưởng của J. Derrida đã được các nhà giải cấu trúc Mỹ (thuộc
trường phái Yale) mở rộng. Được gợi ý từ quan điểm “tuột nghĩa” khỏi văn
bản của J. Derrida, Paul de Man cho rằng đặc trưng của ngôn ngữ văn học ẩn
chứa trong “khả năng của sự đọc sai, hiểu sai”. Theo chủ ý của ông, ở đây
không phải là sự cố ý xuyên tạc, gán ghép nghĩa một cách tùy tiện trong hoạt
động tiếp nhận, mà chính là quá trình tạo nghĩa theo tinh thần hậu cấu trúc, từ
cơ sở văn bản gốc có thể tạo ra vô số nghĩa mới, mà nhà Mỹ học tiếp nhận W.
Iser gọi là “sự sản sinh” nghĩa của văn bản. Điều này cũng liên quan đến khái
niệm “tầm đón đợi” (được H.R. Jauss đề xuất) và những khái niệm khác như
văn cảnh, cách đọc, kinh nghiệm thẩm mỹ, kinh nghiệm sống… Một đóng
góp quan trọng khác của Paul de Man cho nghiên cứu văn học hậu hiện đại là


×