Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện sốp cộp tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.6 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRẦN THỊ HOÀI THƯƠNG

BỒI DƯỠNG TƯ DUY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN SỐP CỘP TỈNH SƠN LA
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Chín

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRẦN THỊ HOÀI THƯƠNG

BỒI DƯỠNG TƯ DUY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN SỐP CỘP TỈNH SƠN LA
HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60.22.03.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Chín

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Phạm Văn
Chín - Người thầy đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Đồng thời, em gửi lời cảm ơn đến Ban Chủ nhiệm khoa, tập thể cán bộ,
giảng viên khoa Triết học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể
trực thuộc Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện Sốp Cộp đã luôn động viên,
khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành tốt luận
văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Trần Thị Hoài Thương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài “ Bồi dưỡng tư
duy lý luận cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay” là
công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm
Văn Chín.

Các số liệu trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả

Trần Thị Hoài Thương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................ Error! Bookmark not defined.
1. Lý do chọn đề tài ........................................... Error! Bookmark not defined.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................... Error! Bookmark not defined.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu............. Error! Bookmark not defined.
5. Giả thuyết khoa học ...................................... Error! Bookmark not defined.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................... Error! Bookmark not defined.
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:................................................................... 6
8. Phương pháp nghiên cứu .............................. Error! Bookmark not defined.
9. Tóm tắt những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của Error! Bookmark
not defined.
10. Cấu trúc của luận văn ................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG TƯ DUY LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN SỐP CỘP TỈNH
SƠN LA HIỆN NAY ......................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Cơ sở lý luận .............................................. Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Thực chất của việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị .............. Error!
Bookmark not defined.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bồi dưỡng tư duy lý luận
chính trị cho cán bộ ..................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................ Error! Bookmark not defined.

1.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện Sốp
Cộp, tỉnh Sơn La.......................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ cấp xã của huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La
hiện nay ....................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Sự cần thiết phải bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở
huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay ......... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 1 ................................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BỒI DƯỠNG TƯ DUY
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN SỐP CỘP
TỈNH SƠN LA HIỆN NAY .............................. Error! Bookmark not defined.


2.1. Thực trạng việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở
huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay ............. Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Những kết quả đã đạt được trong bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho
cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nayError! Bookmark not
defined.
2.1.2. Một số hạn chế trong việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ
cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay ......... Error! Bookmark not
defined.
2.1.3. Nguyên nhân của những của những thành tựu và hạn chế trong bồi
dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn
La hiện nay .................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị
cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nayError! Bookmark
not defined.
2.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao trình độ nhận
thức cho đội ngũ cán bộ .............................. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị đối với Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị huyện ................................. Error! Bookmark not defined.

2.2.3. Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã gắn với tổng kết
thực tiễn ....................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Đổi mới cơ chế chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ............. Error!
Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 2 ................................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......... Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Vì
vậy, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới đòi hỏi Đảng ta
phải xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo
đức và tư duy lý luận chính trị sắc bén, từ đó đưa ra những quyết sách, những
chủ trương phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhằm đưa đất nước tiến kịp với xu
thế chung của thời đại.
Việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ có ý nghĩa
quan trọng trong vấn đề phát triển kinh tế xã hội, an ninh, trật tự ở địa phương,
thúc đẩy sự phát triển chung của toàn xã hội. Cán bộ cơ sở có nắm chắc, hiểu
sâu lý luận chính trị thì mới nắm vững các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước để từ đó vận dụng sáng tạo và
cụ thể vào tình hình của địa phương. Bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị còn giúp
cho đội ngũ cán bộ có cơ sở tổng kết hiệu quả thực tiễn từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm quý báu, góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, phát triển những
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thực tiễn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ đã chứng minh, đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ xã nói
riêng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong các tổ chức đảng, nhà nước và các tổ

chức chính trị xã hội ở cơ sở. Họ là những người trực tiếp bám cơ sở, gần dân
nên họ chính là cầu nối đặc biệt giữa Đảng với nhân dân. Họ vừa là người lãnh
đạo, vừa là người trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện, kiểm nghiệm tính đúng
đắn khả thi các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Vì vậy, đội ngũ này phải là những người có lập trường giai cấp và lý luận

1


chính trị kiên định, có phẩm chất đạo đức và năng lực công tác, nhất là phải có
trình độ lý luận chính trị vững vàng nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong
thời kỳ mới.
Sốp Cộp là huyện biên giới đặc biệt khó khăn nằm ở phía Tây Nam của
tỉnh Sơn La với trên 120 km đường biên tiếp giáp với nước Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào. Huyện có 8 đơn vị hành chính cấp xã với 127 bản. Đội ngũ cán
bộ xã ở huyện Sốp Cộp nói chung luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tuy nhiên, do là huyện miền núi với trên
93% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, an ninh
chính trị tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp nên đội ngũ cán bộ xã của huyện chủ
yếu trưởng thành từ thực tế, còn thiếu kiến thức chuyên môn, lý luận chính trị
nên trong nhận thức và chỉ đạo thường mắc phải bệnh kinh nghiệm, giáo điều.
Năng lực lãnh đạo và quản lý còn yếu, xử lý công việc máy móc, kém hiệu quả.
Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của cấp ủy và chính
quyền địa phương.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn, góp phần xây dựng thành công nông thôn mới thì đội ngũ cán
bộ xã phải không ngừng nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Có như vậy mới nắm bắt được quy luật phát triển của thời đại, vận dụng một
cách đúng đắn, sáng tạo, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước vào địa phương mình lãnh đạo, quản lý. Với những

lý do trên, tôi chọn đề tài “Bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp
xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


Bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ là vấn đề đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Liên
quan đến vấn đề này cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố.
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới có rất nhiều tác giả với nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề tư duy, năng lực tư duy của các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học. Tiêu biểu như “Đổi mới tư duy và
phong cách tư duy” của Nguyễn Văn Linh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987; “Năng
lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp
chí Cộng sản số 10/1987; “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận” của
Học viện Nguyễn Ái Quốc năm 1988….Công trình này đã bàn tới vấn đề bản
chất của tư duy, năng lực tư duy cũng như tính tất yếu và định hướng chủ yếu
trong đổi mới tư duy ở nước ta.
Khắc phục những căn bệnh thường thấy ở đội ngũ cán bộ nước ta như
bệnh kinh nghiệm, giáo điều là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong quá trình
đổi mới tư duy, nâng cao năng lực, trình độ tư duy. Nội dung này được bàn đến
trong các luận án, các tạp chí như luận án “Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội
ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Trần Văn
Phòng, Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Lê Hữu Nghĩa
“ Một số căn bệnh trong tư duy của cán bộ ta”, Tạp chí Triết học, số 2/1988
phân tích nguồn gốc và biểu hiện của các căn bệnh này ở nước ta, từ đó đề ra
các giải pháp khắc phục.
Nghiên cứu việc đổi mới trong công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng
cho cán bộ bao gồm đổi mới cả nội dung và phương pháp giáo dục. Tiêu biểu

Vũ Ngọc Am: “Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng cho cán bộ
cơ sở”, Nxb Chính trị quốc gia 2003; “Một số vấn đề đổi mới phương pháp giáo
dục lý luận chính trị”, Nxb Thông tấn 2009; Nguyễn Thái Sơn “Đổi mới công

3


tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt” Nhà xuất bản Lý luận chính
trị, 2001; Phạm Tất Thắng “Một số vấn đề trong đổi mới công tác tư tưởng, lý
luận”, Tạp chí Cộng sản, số 818 (tháng 12/2010); Phùng Hữu Phú “Đổi mới căn
bản công tác nghiên cứu lý luận đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, số 882 (tháng 4/2016); Vũ Văn Phúc
“Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lý luận trong điều kiện hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, số 888 (tháng 10/2016).
Vấn đề nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung
và đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ các cấp, các tỉnh, vùng miền
nói riêng cũng được rất nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Tiêu biểu Nguyễn
Quốc Thanh “Công tác đào tạo lý luận chính trị và quản lý nhà nước cho cán
bộ cơ sở miền núi ở Quảng Trị” Tạp chí Lý ;uận chính trị, số 3/2005; Thủy Anh
“Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ ở các Trường chính trị tỉnh, thành phố”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5/2005; Nguyễn Xuân Sơn “Tiếp tục nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 2 + 3/2008; Nguyễn Thị Lan Phương “Để nâng cao chất lượng công tác bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2008;
Hầu A Lềnh “Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc”, Tạp chí Cộng sản, số 11/2016.
Đặc biệt cho đến nay, vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nói chung đã có rất nhiều công trình được công
bố. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: “Nâng cao năng lực tư duy của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay” của Hồ Bá Thâm, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 1995, đã làm rõ khái niệm năng lực tư duy và các yếu tố cấu thành,
phương pháp và đặc trưng của tư duy một cách sâu sắc nhằm tìm ra bản chất,
quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật vận động trong cuộc sống. Công trình
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
4


đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Nguyễn Phú Trọng – Trần Xuân Sầm,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Trong công trình này, tác giả đã nêu lên
những vấn đề lý luận, phương pháp luận, quan điểm và giải pháp nâng cao trình
độ lý luận cho đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tác giả Nguyễn Đức Quyền “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3
(166) tháng 3/2005. Bài viết đã đưa ra những nguyên tắc và giải pháp cơ bản để
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước
ta hiện nay; Tác giả Mai Đức Ngọc “Phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Tuyên giáo, số 4/2017. Trong bài này, tác giả
đã chỉ ra sự cần thiết và con đường phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên ở nước ta hiện nay.
Có thể thấy các công trình nghiên cứu trên đã đặt ra rất nhiều các vấn đề cả
về lý luận và thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ, công chức
nhưng chỉ dành cho một số nhóm xã hội ở nước ta nói chung. Còn đối với việc
bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn
La hiện nay thì chưa có công trình nào trực tiếp đề cập, nghiên cứu một cách sâu
sắc và toàn diện. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào
việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, từng bước khắc phục
tình trạng yếu kém về cả lý luận và thực tiễn của đội ngũ cán bộ xã ở huyện Sốp
Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của việc bồi dưỡng tư duy lý
luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay; từ đó
đánh giá được thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

5


bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn
La hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là đội ngũ cán bộ xã ở huyện Sốp Cộp,
tỉnh Sơn La.
4.2.

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn chú trọng nghiên cứu việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị
cho cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nghiên cứu việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở
huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở
nói chung và đội ngũ cán bộ xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay nói
riêng.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ các khái niệm, chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của việc bồi dưỡng
tư duy lý luận chính trị cho cán bộ xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay.
Đánh giá đúng thực trạng của việc bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị cho
cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La hiện nay. Từ đó đề xuất giải pháp

cơ bản nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ
xã ở huyện Sốp Cộp.
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:

6


Luận văn tập trung phân tích và làm sáng tỏ năng lực tư duy lý luận chính trị
và việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện
Sốp Cộp hiện nay, trọng tâm là giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác – Lênin,
đặc biệt nguyên lý về lý luận nhận thức và lôgíc học, quan điểm của Đảng về
giáo dục và những thành tựu của các nhà nghiên cứu trong nước liên quan đến
vấn đề nâng cao năng lực tư duy biện chứng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng
hợp, diễn dịch và quy nạp, lịch sử - lôgíc, hệ thống hoá, khái quát hoá, khảo sát
kết hợp với thống kê, so sánh, xử lý tài liệu…
9. Tóm tắt những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của
luận văn
9.1. Những luận điểm cơ bản
- Tư duy lý luận chính trị và thực chất của việc bồi dưỡng tư duy lý luận
chính trị.
- Bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ nói chung và cán
bộ xã nói riêng là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các
cấp đặc biệt quan tâm.
- Bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp,
tỉnh Sơn La hiện nay là đòi hỏi tất yếu khách quan.
9.2. Những đóng góp mới của luận văn
- Về mặt lý luận:


7


+ Luận văn đã nghiên cứu một cách hệ thống các lý luận của việc bồi
dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.
+ Luận văn chỉ ra thực trạng và giải pháp nhằm bồi dưỡng tư duy lý luận
chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.
- Về mặt thực tiễn:
+ Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy lý luận chính trị ở các trung tâm Bồi dưỡng chính trị cấp huyện, trường
Chính trị tỉnh.
+ Ngoài ra có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng các kế hoạch, nghị
quyết nhắm nâng cao chất lượng việc bồi dưỡng tư duy lý luận chính trị cho cán
bộ xã ở huyện Sốp Cộp nói riêng và các huyện miền núi của tỉnh Sơn La nói
chung.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội
dung luận văn bao gồm 02 chương, 04 tiết.

8


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG TƯ DUY LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN SỐP CỘP,
TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Cán bộ và cán bộ cấp xã
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về cán bộ nhưng về cơ bản, cán
bộ là khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trò, cương vị trong
một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và quan hệ trong
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành góp phần định hướng sự phát triển của tổ
chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng” [ 38, tr.269].
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: cán bộ là người làm công tác nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, đoàn thể; người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ.
Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là những người thoát ly,
làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể và lực lượng vũ trang. Trong
đời sống hàng ngày, cán bộ là danh từ chung thường được người dân chỉ về
những người là cán bộ, công nhân viên chức làm việc trong các cơ quan nhà
nước nói chung. Đó có thể là giáo viên, y tá, bác sỹ hay công chức các cơ quan,
đoàn thể, là những người có quyền hành (cán bộ lãnh đạo, cán bộ cao cấp, cán
9


bộ quản lý, cán bộ nguồn...), hay đang xử lý, giải quyết một vụ việc cho người
dân.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm
2008 thì “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [48, tr.7].
Ở nước ta hiện nay, đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị được chia thành

nhiều cấp: cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố; cấp quận, huyện; và cuối cùng
là cấp xã, phường, thị trấn. Cán bộ ở xã, phường, thị trấn được gọi chung là cán
bộ cấp cơ sở.
Cán bộ cấp cơ sở hay cán bộ xã là cán bộ có chức năng, nhiệm vụ tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước cho phù hợp
với tình hình thực tế ở địa phương.
Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ với các quan
hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, huyết thống, phong tục tập quán và những sinh hoạt
chung khác. Nó có vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, đó là
nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân; cụ thể hóa
các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay thì cấp cơ sở là nơi có tiềm năng, thế mạnh lớn
về kinh tế, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, góp phần thúc đẩy sự phát triển
chung của đất nước. Người lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ trên ở
cơ sở chính là đội ngũ cán bộ ở cơ sở hay cán bộ cấp xã.
Vậy cán bộ cấp xã là gì?

10


Theo khoản 3, Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định “Cán
bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị
- xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [48, tr.8].
Khoản 2, Điều 61 Luật cán bộ, công chức năm 2008 cũng quy định đội
ngũ cán bộ cấp xã ở nước ta hiện nay có các chức vụ sau:
Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn
có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt
Nam);
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [48, tr.36].
Với những vị trí trên có thể khẳng định đội ngũ cán bộ cấp xã có vai trò
đặc biệt quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Họ
phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Luật cán bộ, công chức quy định, đó là:
Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến
11


và chịu sự giám sát của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong thực hiện nhiệm
vụ họ phải: Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao; có ý thức tổ chức kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp
hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị, báo cáo người có thẩm
quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
bảo vệ bí mật nhà nước; chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ;
giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu
quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao; chấp hành quyết định của cấp trên và
các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Họ chính là những người phụ
trách chính trong một tổ chức, một tập thể, quyết định đến việc thực hiện các
nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và họ cũng chính là

những người “đứng mũi chịu sào”, chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân
trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cơ
sở.
1.1.1.2.Tư duy và tư duy lý luận chính trị
Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Xét về thực chất tư duy là chức năng đặc biệt, riêng có của bộ óc con
người. Đó là quá trình ý thức của con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực. Là
hình thức cao của sự phản ánh tích cực, chủ động, có mục đích về hiện thực
khách quan và được biểu hiện là sự nhận thức có tính trung gian gián tiếp, khái
quát về các mối quan hệ của sự vật và hiện tượng. Tư duy với tư cách là thuộc
tính không thể thiếu trong hoạt động chủ quan của con người được thể hiện
trong hoạt động sáng tạo và trong việc dự đoán các sự kiện, hiện tượng của Thế

12


giới. Nó được xuất hiện, hiện thực hóa trong quá trình đặt ra và giải quyết các
vấn đề của lý luận và thực tiễn con người.
Tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người. Hoạt động của bộ óc con người phản ánh hiện thực khách quan qua các
hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận… thông qua các phương pháp: so
sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… Xét về thực chất thì
tư duy là hoạt động đặc biệt của quá trình con người phản ánh thế giới, là quá
trình phản ánh dựa trên sự hoạt động của bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy
luật vận động của thực tại khách quan và định hướng quan hệ đối với thực tại
khách quan đó. Những quy luật của tư duy chính là sự phản ánh các quy luật của
thực tại khách quan. Từ những hình ảnh của sự vật, hiện tượng trong thế giới do
cảm giác mang lại được tư duy lựa chọn, loại bỏ những mặt, những yếu tố bên

ngoài, ngẫu nhiên trên cơ sở sáng tạo để tìm ra những cái cơ bản, tất yếu, những
quan hệ bản chất, bên trong mang tính quy luật. Từ đó, hình thành lên những
khái niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng, xây
dựng lên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng vận động và phát
triển của các sự vật. Với ý nghĩa như vậy, tư duy chỉ có ở con người, là trình độ
cao nhất của nhận thức trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Nhưng đó
không phải là sự phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người tác động và phản
ánh thế giới một cách chủ động và sáng tạo.
Nếu con người chỉ dừng lại ở các hình thức như cảm giác, tri giác…thì
nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì họ không thể bằng các hình thức đó
mà hiểu được những vấn đề phức tạp hơn trong tự nhiên cũng như trong hiện
thực xã hội. Với tư cách là kết quả của sự vận động, năng động của ý thức, tư
duy bao giờ cũng là sự phản ánh trung gian, gián tiếp, khái quát tích cực về thế
giới khách quan, ở giai đoạn cao của nhận thức, sự vật được phản ánh một cách
gián tiếp, khái quát trong các khái niệm, phán đoán thông qua các thao tác trung
13


gian hóa, trừ tượng hóa và khái quát hóa. Nhờ các thao tác này, tư duy đã thể
hiện được sức mạnh của mình.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan, đó là
quá trình năng động, sáng tạo. Tính sáng tạo của tư duy là ở chỗ nó mang lại
những tri thức mới về bản chất, cái bên trong, những quy luật của hiện thưc
khách quan vốn rất đa dạng, phong phú và biến đổi không ngừng. Nhờ tính sáng
tạo mà tư duy phân tích và phân loại sự vật, nắm bắt những tri thức ẩn chứa bên
trong sự vật, hiện tượng. Tư duy giúp con người hiểu đúng về sự vật và đưa ra
những biện pháp để tác động chính xác vào chúng. Nhờ bản chất sáng tạo mà tư
duy là quá trình luôn tìm đến cái mới, nhận thức ngày càng đúng đắn và đầy đủ
hơn về thế giới khách quan.
Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực

tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng
sai của tư duy. Mục đích của tư duy hướng đến là phục vụ cho thực tiễn; quá
trình tư duy sẽ tìm ra những cách thức để hiện thực hóa mình thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Để có thể tác động và biến đổi hiện thực con
người phải nhận thức và hiểu biết về nó. Việc tác động, biến đổi hiện thực là cơ
sở cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không ngừng. Bởi vì
xuất phát từ hoạt động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự vật, hiện tượng trong
thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc tính, tính chất… Trên cơ sở đó, con người
mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là quá trình không có giới hạn cuối
cùng của hoạt động nhận thức của con người. Hơn nữa hoạt động của tư duy còn
là hoạt động sử dụng, kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới,
phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế giới
khách quan. Đồng thời hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức
thu được vào hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát
triển, từ đó mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế cả nội
14


dung, hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử xã hội. Lịch sử
không phải bắt đầu từ tư duy mà chính là từ hoạt động thực tiễn của con người.
Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội, là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này càng phát triển thì
tư duy, trí tuệ của con người cũng phát triển theo.
Như vậy thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ động
nhận thức và cải tạo thế giới. Tư duy của con người là do hiện thực khách quan
quy định; nhưng hoạt động thực tiễn của con người lại là cơ sở, động lực cơ bản
cho sự xuất hiện và phát triển của tư duy. Thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm
tra, điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ
những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục của tư duy con người.
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy luôn

vươn tới những giá trị mới thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn. Khi hoạt
động thực tiễn còn ở mức độ thấp thì ứng với nó là tư duy ở trình độ thấp. Khi
hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì phương pháp, trình độ tư duy
cũng được nâng cao.
Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức
khái niệm, phán đoán, suy luận. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, tư duy phải
được diễn đạt thành ngôn ngữ, bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là
phương tiện để diễn đạt kết quả của nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển
kết quả của nhận thức. Nhờ thế mà con người có thể sáng tạo ra những khái
niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và
vì thế mà hiểu biết sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ
sẽ không có phương tiện để biểu đạt tư duy và tư tưởng của loài người không thể
lưu giữ, kế thừa và phát triển được.

15


Thế giới là vô cùng, vô tận, thực tiễn luôn đổi mới. Điều đó đòi hỏi tư duy
phải năng động, không ngừng sáng tạo để tìm ra những cái mới, những tình
huống có vấn đề trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, từ đó đưa ra những giải
pháp đáp ứng cho nhu cầu của cuộc sống. Vì vậy, tư duy là một quá trình vô tận,
vận động và phát triển không ngừng. Tư duy của con người không phải là bất
biến mà nó có quá trình biến đổi và phát triển để đạt tới trình độ cao hơn. Theo
Ăngghen, tư duy của con người vừa tối cao, vừa không tối cao. Xét theo sự thực
hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo
bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Khi đề cập
đến khả năng nhận thức của con người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng, chỉ
có những cái con người chưa biết chứ không có cái con người không thể biết.
Tư duy là sản phẩm của lịch sử, nó xuất hiện trong lịch sử, cùng với quá
trình hoạt động thực tiễn của con người. Đó là sự kết hợp giữa sự kế thừa các lối

tư duy truyền thống với lối tư duy hiện tại. Vì vậy, ở những thời đại khác nhau,
với những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, thì trình độ của tư duy cũng ở
những mức độ khác nhau.
Tư duy là sự phản ánh khái quát, gián tiếp hiện thực khách quan, những
mối liên hệ bản chất bên trong của sự vật, đem lại những tri thức mới về tính
quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Tư duy là quá trình sáng
tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi những nhận thức mới và
không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn
của con người. Tư duy của con người không bất biến mà ngược lại nó phát triển
không ngừng, luôn vươn tới những nhận thức mới. Tư duy thuộc hoạt động nhận
thức ở trình độ cao.
Theo Từ điển Tiếng Việt “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái
quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là

16


những kiến thức được khái quát và hệ thống hóa trong lĩnh vực nào đó” [44,
tr.544-545].
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại cho rằng “Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ
lại trong quá trình lịch sử” [38, tr.789].
Theo Triết học Mác - Lê nin thì lý luận là một hệ thống các tri thức được
khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn phản ánh những mối quan hệ bản chất,
tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và
được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy
luật…Ngày nay, lý luận được hiểu là “Hệ thống các quan điểm, tư tưởng được
khái quát từ thực tiễn, từ thế giới khách quan” [41, tr.54].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về lý luận nhưng tất cả đều
khẳng định lý luận được hình thành từ thực tiễn, là sự tổng hợp các tri thức về tự

nhiên, xã hội của con người và nó có vai trò chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Từ những quan điểm trên có thể hiểu lý luận theo nghĩa chung
nhất, đó là hệ thống những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tính quy luật của sự vật,
hiện tượng trong thế giới hiện thực và được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý,
quy luật, phạm trù.
Nhờ có lý luận khoa học chỉ đạo hoạt động thực tiễn nên con người tạo ra
nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khoa học khác nhau. Mỗi lĩnh vực, mỗi ngành đều
có mục đích và đối tượng nghiên cứu riêng như kinh tế, văn hóa, chính
trị…trong đó lĩnh vực chính trị đóng vai trò là trụ cột đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Vậy chính trị là gì?
Cũng như lý luận, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về chính trị.
Khổng Tử là nhà một trong những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng
17


về vấn đề chính trị. Theo ông, chính trị là cách cai trị của người cầm quyền,
quân tử, người cầm quyền cần học tính kỷ luật để cai trị người dân của mình và
nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm.
Chính trị theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là những công việc liên quan đến
thành bang, những công việc của quốc gia. “Là nghệ thuật cai trị đất nước” [ 10,
tr.7].
Bách khoa Triết học lại cho rằng “chính trị - theo nguyên nghĩa của nó là
những công việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai
cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành,
giữu và bảo vệ đất nước” [1, tr.507].
Lê nin lại khẳng định “chính trị là sự biểu hiện tập trung kinh tế” [32,
tr.349].
Ngoài ra còn có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về chính trị như:
chính trị là hệ thống các chính sách và sách lược hành động của các giai cấp hay

chính trị là hoạt động cai trị của con người, một tập đoàn hoặc một cá nhân nhất
định triển khai xung quanh quyền lực nhà nước…
Từ những quan điểm trên có thể khái quát về chính trị như sau: chính trị
là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc những hoạt động của giai
cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì hoạt động quản lý nhà nước.
Như vậy, tựu chung lại có thể hiểu lý luận chính trị là các lý luận trong
lĩnh vực chính trị bao gồm hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách…của một chính đảng, một giai cấp nhằm giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước.
Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái

18


quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử
dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản
chất, tìm ra các quy luật vận động bên trong khách thể nhận thức.
So với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận đóng một vai trò hết sức to lớn
trong nhận thức và cải tạo thế giới. Nhờ có tư duy lý luận mà con người mới
phát hiện ra được các quy luật vận động và phát triển của hiện thực khách quan.
Hướng sự vận động đó vào phục vụ lợi ích của con người. Ph.Ăngghen từng nói
rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể
không có tư duy lý luận”.
Tư duy lý luận chính trị khoa học là tư duy lý luận chính trị mácxít. Về
thực chất, đó là tư duy biện chứng duy vật khoa học (cả trong tự nhiên lẫn trong
xã hội) - một hình thái tư duy được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh
nghiệm thực tiễn, những tri thức khoa học mà loài người đã đạt được từ xưa đến
nay và luôn được vận dụng vào thực tiễn sinh động, phong phú để không ngừng
bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Ngoài ra, tư duy lý luận phải được gắn liền với

sự phát triển của khoa học, bởi lẽ theo Ph.Ăngghen “Cứ mỗi lần khoa học đạt
được thành tựu mới thì triết học phải thay đổi hình thức tồn tại của chính mình”.
Việc gắn tư duy lý luận với sự phát triển của khoa học giúp cho tư duy nắm
được các mối liên hệ bên trong của các sự vật, hiện tượng. Hơn nữa, các thành
tựu của khoa học tự nhiên đã mang lại những cơ sở khách quan, những kết luận
chung cho tư duy lý luận. Ph.Ăngghen chỉ rõ: Những thành tựu khoa học tự
nhiên hiện đại đã chẳng bắt buộc bất kỳ một người nghiên cứu các vấn đề lý
luận cũng phải thừa nhận chúng, bắt buộc với một sức mạnh khiến các nhà khoa
học tự nhiên hiện đại dù họ muốn hay không phải tiến tới những kết luận lý luận
chung, đó sao?". Sự phát triển của khoa học nói chung và những phát minh mới
trong khoa học nói riêng sẽ làm mất đi một số khái niệm và đồng thời xuất hiện

19


×