Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ văn hóa CHÍNH TRỊ của cán bộ cấp xã ở HUYỆN tân sơn, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.99 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ

3

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ CẤP XÃ Ở
HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về văn hóa chính trị của cán bộ

10

cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
1.2. Thực trạng văn hóa chính trị của cán bộ xã ở huyện

10

Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay
Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN

31

HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ CẤP XÃ Ở
HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ cấp

51

xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay
2.2. Giải pháp cơ bản nâng cao văn hóa chính trị của cán



51

bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

56
81
83
88


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá chính trị là một phương diện của văn hóa, là sự thẩm thấu của
văn hóa vào chính trị, do các chủ thể HĐCT sáng tạo, đấu tranh mà có. Thông
qua hoạt động thực tiễn chính trị, các chủ thể tạo ra hệ thống các giá trị văn hóa,
phản ánh đặc trưng bản chất VHCT của mình. Văn hóa chính trị có vai trò quan
trọng trong điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể chính trị, giữa con người với tổ
chức, cộng đồng xã hội trong đời sống chính trị và đời sống xã hội sao cho phù
hợp với những giá trị chân, thiện, mỹ.
Trong điều kiện thể chế chính trị ở Việt Nam, thì VHCT là nhân tố quy
định trình độ tư duy hành động và kỹ năng lãnh đạo, quản lý đối với đội ngũ
cán bộ các cấp. Trong đó, đội ngũ cán bộ cấp xã là lực lượng trực tiếp quán
triệt, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương mình. Vì vậy, VHCT của cán bộ
cấp xã không chỉ là điều kiện để họ thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ theo

đúng địa phương phát triển, mà còn giúp họ nâng cao phẩm chất, năng lực
công tác đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đối mối HTCT ở nước ta.
Tân Sơn là một huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Thọ, được thành lập
theo Nghị định 61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ. Trong những
năm qua, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung, trình độ VHCT nói riêng
đã được quan tâm, chú trọng. Đại đa số cán bộ cấp xã có tri thức chính trị, năng
lực, hành vi chính trị chuẩn mực, góp phần xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh và
nâng cao đời sống mọi mặt ở địa phương. Tuy nhiên, VHCT của một bộ phận
cán bộ cấp xã còn nhiều mặt hạn chế. Trình độ tri thức chính trị, tình cảm,
niềm tin chính trị còn thấp, bản lĩnh chính trị và hành vi trong quan hệ chính
trị còn thiếu chuẩn mực văn hóa. Trong thực thi nhiệm vụ ở địa phương còn
có những biểu hiện chuyên quyền, quan liêu, sách nhiễu, xa dân, thiếu

2


trọng dân… Thực trạng đó, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể địa phương và chế độ.
Hiện nay, nước ta đang bước vào giai đoạn mới. Những thách thức đặt ra
đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao văn hóa trong HĐCT,
kinh tế, xã hội là không hề nhỏ. Trong Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú
trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và
đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh” [4, tr.128]. Vì vậy, sự nghiệp xây dựng, phát triển KT - XH
ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ đã đặt ra yêu cầu phải nâng cao VHCT, nâng cao
tính văn hóa trong từng tổ chức và con người; trong đó VHCT của cán bộ cấp xã
cần được quan tâm, chú trọng. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Văn
hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay”

làm luận văn tốt nghiệp có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu về văn hóa chính trị
Từ các góc độ tiếp cận khác nhau các tác giả đã phân tích, làm rõ giá trị
của VHCT theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
được thể hiện ở các công trình tiêu biểu sau đây:
Trong cuốn sách “Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo ở nước ta hiện nay” [58] của tác giả Phạm Ngọc Quang đã nghiên cứu về
lĩnh vực VHCT ở Việt Nam. Tác giả đã đề cập khá toàn diện khái niệm, cấu trúc,
chức năng, đặc điểm của VHCT, đồng thời khái quát thực trạng VHCT ở Việt
Nam, tác động của nó đối với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay.
Trong cuốn sách:“Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại”
[55], của tác giả Nguyễn Hồng Phong đã tập trung nghiên cứu có tính chiến
lược của nhân tố nội sinh trong việc khai thác các nguồn lực ngoại sinh để
phát triển đất nước. Tác giả làm rõ vị trí, vai trò của VHCT trong truyền thống

3


và hiện đại, nhất trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế; nhấn mạnh tầm
quan trọng nâng cao VHCT cho đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta.
Cuốn sách: “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây dựng văn hóa
chính trị Việt Nam” [40], của tác giả Nguyễn Minh Khoa đã giới thiệu về
nội dung tư tưởng VHCT Hồ Chí Minh và ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện
nay. Tác giả khẳng định VHCT nước nhà đang phải đối mặt với những
thách thức, bất cập, hạn chế nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống, nhất là sự tha
hóa xuống cấp về tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất những giải pháp nâng cao VHCT cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Trong cuốn sách “Sự tác động của văn hóa chính trị đến quản lý công ở

Việt Nam hiện nay” [15], của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đã trình bày những
vấn đề lý luận chung về VHCT, đánh giá về sự tác động tích cực và tiêu cực của
VHCT đến quản lý công ở Việt Nam; đánh giá thực trạng, chỉ ra các yêu cầu và
giải pháp phát huy vai trò của VHCT đến quản lý công ở Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu về VHCT của Hoa kỳ có cuốn sách: “Hoa Kỳ tiến trình văn
hóa chính trị” [3], của tác giả Đỗ Lộc Diệp (chủ biên). Tác giả bàn một số khía
cạnh bản sắc VHCT của Hoa Kỳ; môi trường VHCT, Quốc hội và tiến trình lập
pháp, tổng thống và ngành hành pháp, bầu cử tổng thống và ngành tư pháp,
đảng phái chính trị, chế độ liên bang. Cuốn sách đã cung cấp những luận cứ
khoa học chứng minh rằng vấn đề VHCT đó là nguyên tắc khách quan và quy
luật tất yếu các quốc gia, giai cấp cầm quyền đều quan tâm đến VHCT .
* Các công trình nghiên cứu về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
chủ chốt các cấp trong hệ thống chính trị
Trong luận án tiến sĩ: “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và
thực tiễn” [41], tác giả Nguyễn Hữu Lập đã trình bày về VHCT và VHCT
thời đại Hồ Chí Minh; đồng thời chỉ ra những giá trị và đặc trưng cơ bản của
VHCT Hồ Chí Minh. Trong đó, đóng góp mới về mặt lý luận của luận án đã

4


xây dựng quan niệm về VHCT Hồ Chí Minh, tác giả cho rằng: văn hóa chính
trị Hồ Chí Minh, bao gồm tổng hòa các giá trị về tư tưởng và hành vi chính trị
mang tính chân, thiện, mỹ mà Người sáng tạo ra trong suốt quá trình đấu
tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người trên lập trường giai cấp công nhân; là sự tích hợp, vận dụng, phát triển
các giá trị VHCT của dân tộc, nhân loại, và chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất định hướng xây dựng VHCT Hồ
Chí Minh cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thái Sinh trong đề tài “Phát triển văn hóa chính trị của

người sỹ quan biên phòng trong tình hình mới” [60], đã tiếp cận văn hóa xã hội
của người sỹ quan biên phòng ở phạm vi cấu trúc và các yếu tố tác động tới sự
phát triển của VHCT. Trên cơ sở đó, tác giả coi VHCT của người sỹ quan biên
phòng là khâu cốt lõi để đấu tranh mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự chống
phá quyết liệt của bọn phản động, bọn tội phạm và coi VHCT là lòng cốt
trong nhân cách người sĩ quan biên phòng.
Trong đề tài khoa học “Văn hoá chính trị và những phương hướng cơ
bản nhằm bồi dưỡng văn hoá chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta
hiện nay”, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Quang đưa ra quan niệm về VHCT:
Văn hoá chính trị là một phương diện của văn hoá; nó nói lên tri thức, năng
lực sáng tạo trong HĐCT dựa trên sự nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị
hiện thực, cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi
ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển
lịch sử [58 tr.74].
Trong luận văn thạc sĩ:“Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Kon Tum hiện nay” [13], tác giả Nguyễn Minh Đức đã đưa ra khái
niệm VHCT của cán bộ chủ chốt huyện ở tỉnh Kon Tum; đồng thời, chỉ ra
thực trạng và đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nâng cao VHCT
của cán bộ chủ chốt ở tỉnh Kon Tum hiện nay.

5


Ngoài ra còn có khá nhiều bài viết đã công bố trên các báo, tạp chí,
kỷ yếu hội thảo khoa học có liên quan đến VHCT như: Bài “Phát huy ưu
thế của nền văn hoá chính trị Việt Nam tạo động lực cho công cuộc đổi
mới” của tác giả Trần Ngọc Hiên [17]. Bài: “Văn hóa và văn hoá chính trị
từ cách tiếp cận của triết học chính trị mácxít”, của Nguyễn Văn Huyên
[18]. Bài: “Văn hóa Đảng - nhận thức và vấn đề đặt ra”, của Đỗ Nguyên
Phương [56].

Qua phân tích kết quả nghiên cứu của các công trình trên cho thấy, các
tác giả đã bàn đến VHCT với nhiều góc độ, phương diện khác nhau, có nhiều
khái niệm khác nhau về VHCT nhưng về cơ bản đều thống nhất với nhau ở
phương pháp tiếp cận VHCT; sự đề cao tính trí tuệ, sáng tạo, nhân văn và mục
đích cuối là giá trị chân, thiện, mỹ trong HĐCT của các chủ thể. Các công trình
khoa học cũng khẳng định VHCT được nghiên cứu và ứng dụng ở Việt Nam
bước đầu đã đem lại hiệu quả thiết thực; việc nghiên cứu và ứng dụng chủ yếu ở
khía cạnh văn hoá Đảng, văn hoá lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, các công trình
nghiên cứu trên đã chỉ ra ở Việt Nam hiện nay, chính trị đang trở thành công việc
của nhân dân; VHCT phải hình thành, phát triển cùng tư tưởng, hành vi của mọi
người dân và có vai trò quan trọng để mỗi người dân trở thành chủ thể thực thụ
của Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”.
Như vậy, các công trình khoa học trên đây đã bàn đến VHCT, với nhiều
góc độ, phương diện khác nhau, chỉ ra quan niệm, cấu trúc, nội dung cơ bản
của VHCT; vai trò của VHCT trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, xây
dựng HTCT ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình nào bàn đến
VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ một cách hệ thống,
chuyên sâu. Vì thế, vấn đề: “Văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện
Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu là
một công trình khoa học độc lập không hề trùng lặp với các công trình đã
công bố.

6


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về VHCT của cán bộ cấp xã ở
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ; trên cơ sở đó, đề xuất những yêu cầu và giải
pháp nhằm nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ này hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện
Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
- Đánh giá thực trạng VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
- Đề xuất một số yêu cầu, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao VHCT của
cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú
Thọ, bao gồm: Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân
dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ, Chủ tịch Hội nông
dân, Chủ tịch Hội cựu chiến binh. Các số liệu được sử dụng từ năm 2012 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về văn hóa, chính trị, cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ
của Đảng.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn được thực hiện dựa vào thực tiễn VHCT của cán bộ cấp xã ở

7


huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ thông qua các báo cáo, sơ kết, tổng kết, những
đánh giá trong nghị quyết của các Đảng ủy và chính quyền cấp xã, huyện; kết

quả điều tra xã hội học của tác giả về VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân
Sơn, tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra, luận văn còn kế thừa những kết quả nghiên cứu
của các công trình có nội dung liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, khảo sát
điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng rõ thêm lý luận về
VHCT và VHCT của đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ trong việc xây dựng,
nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy các môn học có liên quan ở các trường
đào tạo cao đẳng, đại học hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, công trình đã công bố liên quan
đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phục lục.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
CỦA CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY


1.1. Một số vấn đề lý luận về văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
1.1.1. Văn hóa chính trị
Văn hoá là một khái niệm có nội hàm rộng, đã có nhiều tác giả quan tâm,
điều tra nghiên cứu. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, nhiều ngành khoa học mới ra
đời và bằng cách tiếp cận khác nhau người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa về văn
hoá. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hoá: “Văn hoá nên được
đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, trí thức
và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,
ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống
giá trị, truyền thống và đức tin” [66, tr.132 ]. Trong Từ điển Triết học, văn hoá
được định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình
độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [67, tr.656].
Văn hoá có nghĩa là cái đẹp, cái có giá trị và giá trị vĩnh hằng của văn hóa
là chân, thiện, mỹ. Văn hoá thể hiện khát vọng sống của con người hướng tới
những giá trị nhân văn, nhân đạo. Bản chất của văn hoá là sáng tạo và nhân văn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá” [52, tr.458].
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa và có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về văn hóa, nhưng chung quy lại thì các định nghĩa về
văn hóa đều coi văn hóa là sự sáng tạo của con người. Trong văn hóa, chúng ta

9


tìm thấy được những giá trị vật chất và giá trị tinh thần của xã hội trong tiến trình

phát triển của lịch sử qua các thời kỳ khác nhau. Hiện nay, vấn đề văn hóa được
tiếp cận một cách đa dạng, đa diện, phản ánh các góc độ, chiều cạnh khác nhau.
Tiếp cận theo loại hình văn hóa thì có: văn hóa vật chất, văn hóa tư tưởng, văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Theo chủ thể sáng tạo văn hóa, thì có văn hóa
cá nhân, văn hóa cộng đồng, dân tộc, giai cấp. Theo lĩnh vực thì có: văn hóa tư
tưởng, văn hóa dân chủ, văn hóa ứng xử, văn hóa giao thông và VHCT.
* Văn hóa chính trị
Chính trị, là một lĩnh vực của đời sống xã hội kể từ khi xã hội phân
chia giai cấp và tổ chức ra nhà nước, là lĩnh vực hoạt động rộng lớn và quan
trọng của con người. V.I.Lê nin đã chỉ rõ: “Chính trị là lý luận và thực tiễn,
khoa học và nghệ thuật giành giữ và thực thi quyền lực chính trị, thực hiện lợi
ích giai cấp, dân tộc và quốc gia” [14, tr.23]. Bản chất giai cấp của HĐCT là
hoạt động thực hiện lợi ích giai cấp. Những lợi ích giai cấp khác nhau thì mục
tiêu chính trị cũng khác nhau. Theo V.I. Lênin: “Chính trị có tính logic khách
quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân
khác, của Đảng này hay Đảng khác” [43, tr.134]. Luận điểm trên cho thấy,
chính trị không phải hình thành theo ý muốn của mỗi chủ thể, mà là gắn với
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên
quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc và
quốc gia mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng
quyền lực nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt
động và sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước. Theo đó,
chính trị là hiện tượng lịch sử, gắn liền với xã hội loài người khi xuất hiện giai
cấp và nhà nước, phản ánh mối quan hệ lợi ích, địa vị kinh tế giữa các giai cấp
và nhà nước, thông qua việc chi phối và thực thi quyền lực chính trị, mà quyền
lực nhà nước là chủ yếu nhất, để cai trị, quản lý xã hội, duy trì sự tồn tại và phát
triển của xã hội theo ý chí của giai cấp thống trị.

10



Chủ thể của chính trị là con người trong xã hội có giai cấp, do đó
chính trị cũng là sản phẩm của văn hóa. Hệ thống chính trị, thiết chế chính
trị, cơ chế chính trị và chủ thể chính trị trong một giai đoạn nhất định đều
là sản phẩm của trình độ phát triển văn hóa. Văn hóa chính trị là một
phương diện của văn hóa dưới góc độ chính trị. Văn hóa chính trị phản ánh
trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống chính trị, nó thể hiện thông
qua đường lối, quan điểm, thể chế chính trị hiện hành và hành vi chính trị
của các chủ thể.
Văn hóa với chính trị có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với
nhau. Văn hóa phục vụ chính trị, văn hóa đi vào chính trị với tính cách là
động lực và mục tiêu của HĐCT; chính trị lãnh đạo văn hóa, chính trị gắn
liền với văn hoá và sự tồn tại của chính trị khi nó còn là mặt hợp lý trong
văn hoá; văn hóa và chính trị thống nhất hữu cơ với nhau và tác động qua
lại lẫn nhau.
Theo lôgic của tiếp cận lý luận và thực tiễn xã hội thì VHCT là giá trị
chân, thiện, mỹ tồn tại trong hệ tư tưởng, đường lối, chính sách, trình độ tổ
chức và vận hành thiết chế, thực tiễn chính trị, thể hiện trình độ tri thức chính
trị, tình cảm, thái độ, bản lĩnh, hành vi của chủ thể chính trị trong thực hiện
sứ mệnh lịch sử giai cấp, mục tiêu chính trị cá nhân đáp ứng đòi hỏi của sự
phát triển xã hội.
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai
cấp và nhà nước, nhưng điều đó không có nghĩa VHCT là phép cộng giản đơn
giữa văn hóa với chính trị, mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau giữa
văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. Nghiên cứu VHCT phải đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân để thấy rõ các phương diện tồn
tại của văn hoá trong lĩnh vực chính trị, cần vận dụng bản chất cách mạng và
khoa học, tính nhân văn và nhân đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh để làm rõ VHCT từ bản chất, nội dung của nó.


11


* Cấu trúc của văn hóa chính trị
Thứ nhất, chất lượng tổng hòa của tri thức chính trị.
Chính trị là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi con người khi
tham gia vào đời sống chính trị, HĐCT phải có những tri thức và sự hiểu biết
toàn diện, đúng đắn và sâu sắc về nó. V.I.Lênin quan niệm: “người không biết
chữ là người đứng ngoài chính trị” [46, tr.218]. Trên cơ sở những tri thức và
sự hiểu biết về chính trị, các chủ thể chính trị mới có thể giác ngộ về lập
trường, quan điểm giai cấp đúng đắn, qua đó xác định đúng mục tiêu, thái độ
và động cơ chính trị, phát huy tính tự giác, quyết tâm, sáng tạo cả trong hoạt
động thực tiễn cũng như ở hành vi chính trị. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chừng
nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai cấp
khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa
hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao
giờ người ta vẫn là những kẻ ngốc nghếch, bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp
mình về chính trị” [46, tr.57].
Tri thức chính trị với tư cách là nhân tố cấu thành của VHCT phải là sự
thống nhất hữu cơ giữa tri thức lý luận với tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý
luận đóng vai trò khái quát kinh nghiệm chính trị thực tiễn, để nâng nó lên tầm
cái có tính phổ biến, vạch ra được bản chất và quy luật ẩn dấu đằng sau những
tri thức kinh nghiệm chính trị đã được tích luỹ giúp cho các chủ thể nhận thức
được bản chất các quá trình chính trị, các quy luật chính trị, các lợi ích chính
trị; đằng sau những biến cố, sự kiện chính trị ồn ào, đa dạng và phức tạp. Tri
thức kinh nghiệm sẽ củng cố, làm tăng sức mạnh cho tri thức lý luận. Tri thức
lý luận cũng như tri thức kinh nghiệm đều thống nhất trong một mục tiêu
chung là nâng cao nhận thức chính trị cho chủ thể, nâng cao khả năng đánh giá
và khả năng ứng xử nhạy bén của chủ thể. V.L.Lênin đã chỉ ra: “Không có lý
luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” [45, tr.30]. Theo đó, lý

luận phải bắt nguồn từ thực tiễn, gắn với thực tiễn. Những kinh nghiệm thực
tiễn phải được tổng kết, nâng lên thành lý luận, phải được tri thức lý luận soi
đường mới phát huy được hiệu quả tích cực trong thực tiễn chính trị.

12


Đối với nền chính trị của nước ta, hệ thống tri thức là lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng. Sự
hiểu biết có hệ thống sâu sắc về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và qua điểm, đường lối của Đảng là cơ sở cho hình thành, phát triển
tư duy chính trị, năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh trong
HĐCT, bảo đảm cho các chủ thể hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân
giao cho. Để thực hiện hoá nội dung trên đòi hỏi tất cả các chủ thể chính trị
phải nỗ lực rất lớn, phải vươn lên chiếm lĩnh cho được các thành tựu của tri
thức ngang tầm với những yêu cầu của thời đại mới. Chỉ lúc đó nền chính trị
vô sản mới thực sự là nơi biểu hiện tập trung của những giá trị văn hoá.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Những vấn đề của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được
thực hiện trên một nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học vấn đó, thì
chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi” [45, tr.365].
Thứ hai, tình cảm, thái độ chính trị.
Tình cảm chính trị là yếu tố cơ bản cấu thành VHCT, đó là những cảm
xúc chính trị được thể hiện thông qua quan điểm hành vi của chủ thể đối với
thể chế chính trị hiện hành. Trên cơ sở tình cảm tích cực sẽ tạo ra động cơ
đúng đắn, thôi thúc chủ thể HĐCT hành động vì Đảng, vì dân, đồng thời luôn
cổ vũ họ khát khao cống hiến dù đứng trước khó khăn nào, bất cứ trong hoàn
cảnh nào, gian khổ đến đâu cũng luôn tỏ ý chí bền bỉ để đạt được mục tiêu
chính trị đã xác định. Khi chủ thể HĐCT có tình cảm, niềm tin luôn có thái độ
kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi vi phạm lợi ích giai cấp, luôn thể
hiện được tinh thần của Đảng, của giai cấp, khơi dậy toàn bộ sinh lực của mình

vào HĐCT. V.I.Lênin dạy rằng: “Không có sự xúc động, xúc cảm của con
người thì xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý” [44, tr.447].
Tình cảm chính trị là nội dung quan trọng của chủ thể HĐCT, nếu không có
tình cảm chính trị thì mất niềm tin vào hệ tưởng của giai cấp; dẫn đến dao
động, bế tắc và đổ vỡ khi hoàn cảnh thay đổi, thậm chí đưa con người đến chỗ

13


cơ hội, phản bội khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời hoặc kết quả không như
mong muốn. Tình cảm, niềm tin và sự thuyết phục chính trị được hình thành
từ con đường khoa học tự giác, hoàn toàn xa lạ với sự áp đặt cưỡng bức sẽ
mang tính ổn định, vững chắc.
Thái độ là biểu hiện bên ngoài của suy nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc
gì thông qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động. Thái độ là cách thức, cách
nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một hướng nào đó trước sự vật, hiện
tượng của chủ thể chính trị. Thái độ chính trị là phản ứng đúng hay không
đúng; kiên quyết, dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự; nghiêm túc hay
không nghiêm túc… có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị của chủ thể HĐCT.
Thứ ba, bản lĩnh chính trị.
Bản lĩnh chính trị là một nội dung cơ bản trong VHCT, đó là sự vững vàng,
kiên định trong quan điểm lập trường, không dao động trước bất cứ tác động bên
ngoài nào. Đặc tính này phải được thể hiện trong suốt quá trình phấn đấu, rèn
luyện lâu dài của mỗi cá nhân và được chứng minh, thử thách trong những hoàn
cảnh khó khăn, gay go, phức tạp, những thời khắc kịch tính, trong đời sống chính
trị. Bản lĩnh chính trị còn biểu hiện trước những diễn biến nhanh chóng, những
thay đổi mạng tính bước ngoặt, bất ngờ mà khắc phục vượt qua, bên cạnh tính
kiên định, vững vàng còn nhất thiết phải có sự năng động, sáng tạo, tầm nhìn xa
trông rộng và những kinh nghiệm xử lý tình huống đã được tích lỹ trước.

Sự đúng đắn, độc lập, sáng tạo trong cách giải quyết các vấn đề nảy sinh:
trong mọi tình huống khó khăn, bao giờ cũng tồn tại rất nhiều cách ứng xử khác
nhau. Nêu không có bản lĩnh chính trị thì không đánh giá đúng bản chất sự vật,
không hiểu rõ những quy luật vận động khách quan và phân biệt chính xác giữa
hiện tượng với bản chất, giữa hình thức với nội dung… thì không thể làm chủ
được tình hình và khó có thể đưa ra đối sách phù hợp.
Để hình thành bản lĩnh chính trị, phải có nhiều yếu tố điều kiện khách quan
và chủ quan, đặc biệt là trình độ tri thức chính trị thông qua hành động, trải

14


nghiệm thực tiễn và các cơ hội được thử thách và rèn luyện trong môi trường
HĐCT và đời sống chính trị, thời khắc đặc thù, mang tính cao trào kịch tính, khi
con người phải huy động tối đa mọi nội lực: từ phẩm chất đạo đức, năng lực trình
độ, khả năng quyết đoán, nhạy bén, tính kiên trì, lòng tin… để xử lý các tình hống
cụ thể.
Thứ tư, hành vi chính trị.
Hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử, biểu hiện ra bên ngoài
của con người trong một hoàn cảnh thời gian nhất định. Hành vi chính trị là
hành động mang tính chính trị, như tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao
động, học tập, sinh hoạt; đi đầu trong thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên truyền, vận động
nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực về chính trị…
Như vậy, VHCT có một cấu trúc phong phú, đa dạng, là một tổng thể những
yếu tố có quan hệ biện chứng với nhau như: hệ thống tri thức, tình cảm, bản lĩnh
chính trị, thái độ và hành vi chính trị trong HĐCT. Tri thức chính trị là tiền đề,
cơ sở quan trọng để chủ thể chính trị xây dựng tình cảm, bản lĩnh chính trị, thái
độ, hành vi chính trị trong HĐCT. Ngược lại, HĐCT tích cực sẽ góp phần nâng
cao tri thức, bồi dưỡng tình cảm, nâng cao bản lĩnh, thái độ, hành vi chính trị ở

mức cao hơn. Quá trình đó liên tục tiếp diễn sẽ làm cho VHCT của chủ thể
HĐCT ngày càng cao hơn và hướng tới giá trị đức thực chân, thiện, mỹ.
1.1.2. Đặc điểm, quan niệm và vai trò văn hóa chính trị của cán bộ
cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
* Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đội
ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay
Về điều kiện tự nhiên, huyện Tân Sơn là một huyện miền núi thuộc tỉnh
Phú Thọ được thành lập theo Nghị định số 61/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4
năm 2007 của Chính phủ Việt Nam trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính
huyện Thanh Sơn để thành lập 2 huyện: Huyện Thanh Sơn mới và huyện Tân
Sơn. Tân Sơn có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng, tài nguyên khoáng

15


sản phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Huyện
Tân Sơn có 17 đơn vị hành chính, phía Bắc giáp với huyện Yên Lập, phía
Đông giáp huyện Thanh Sơn của tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp huyện Đà Bắc
của tỉnh Hòa Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn của tỉnh Yên Bái và huyện
Phù Yên của tỉnh Sơn La [Phụ lục 3].
Huyện Tân Sơn có địa hình núi chia cắt bởi các dãy núi cao, xen kẽ là
những gò đồi bát úp thấp, sông suối và các thung lũng. Độ cao trung bình so
với mặt nước biển 150m - 200m và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Ngoài sông Bứa và một số chi lưu của nó, trên địa bàn còn có nhất nhiều khe
lạnh, ngòi (suối) nhỏ nằm rải rác trên địa bàn 17 xã, nước chảy quanh năm,
thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp. Đặc điểm thổ nhưỡng đất có tầng
dày, màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển cây chè, cây lâm nghiệp và cây
lương thực. Một phần diện tích đất tích tụ ở ven sông, suối phù hợp với sinh
trưởng và phát triển cây lúa và rau màu. Khí hậu của huyện mang đặc trưng
của khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có hai mùa rõ rệt; phù hợp cho cây trồng

sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, hạn hán, rét đậm, rét hại thường xảy ra
vào mùa khô đã gây ra rất nhiều khó khăn với sản xuất và đời sống của nhân
dân. Về khoáng sản, một số loại quặng đang được khảo sát, thăm dò là Sắt,
Than, Chì, Đá xây dựng, cát sỏi chủ yếu ở các xã Thu Cúc, Thu Ngạc, Đồng
Sơn, Long Cốc, Thanh Kiệt, Tân Phú, Mỹ Thuận và Văn Luông [38].
Về kinh tế, huyện Tân Sơn là huyện nghèo nhất của tỉnh Phú Thọ được
hưởng chính sách “hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững dành cho 62 huyện
nghèo trong cả nước” theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ. Hiện
nay, còn 14 xã/17 xã đặc biệt khó khăn nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II
của Chính phủ. Do điều kiện địa lý không thuận lợi gây nhiều trở ngại trong
phát triển KT - XH.
Về chính trị, ngay sau khi tái lập huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ đã tập
trung sắp xếp bộ máy, ổn định tổ chức, bố trí đội ngũ cán bộ, kiện toàn từng

16


bước HTCT; nội dung, phương thức lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ đảng, chính
quyền từng bước đổi mới. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt
là người đứng đầu đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng có sự
chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Dân chủ cơ sở được phát huy trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, môi trường văn hoá dân chủ được tạo lập,
đoàn kết toàn dân được thống nhất; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
được giữ vững.
Về văn hóa - xã hội, là huyện miền núi với hơn 82% dân cư là người
dân tộc thiểu số [Phụ lục 3], Tân Sơn có nhiều loại hình văn hóa độc đáo như
mua Mỡ, hát Ví, hát Rang, lễ hội xuống đồng, nghề dệt thổ cẩm truyền thống
người Mường; lễ lập tĩnh, tết nhảy của người Dao, các bài thuốc dân gian,
cách chế biến món ăn truyền thống của người Mường, Dao, Mông. Đặc biệt
có đặc trưng về di tích lịch sử văn hóa, di tích lịch sử kháng chiến chống Pháp

có giá trị về mặt kiến trúc lịch sử, mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc.
Đặc điểm cơ bản của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh
Phú Thọ hiện nay
Luật cán bộ, công chức Nhà nước Việt Nam đã được xác định rõ khái
niệm cán bộ cấp xã: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng
ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội [42, tr.22]. Theo đó, cán bộ cấp
xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là công dân Việt Nam, được bầu cử, bổ
nhiệm bố trí vào các chức vụ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Bí thư Đoàn Thanh niên; Chủ tịch Hội Liên hiệp
Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh ở các xã trên
địa bàn của huyện Tân Sơn.

17


Với quy định này, địa vị pháp lý của cán bộ cấp xã được xác định rõ
ràng; quyền hạn và trách nhiệm của họ được quy định chặt chẽ và yêu cầu phẩm
chất và năng lực của họ cũng cao hơn để đủ sức đảm đương trách nhiệm do
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh
Phú Thọ ngoài những đặc trưng chung, còn có những nét riêng, được thể hiện ở
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ chủ yếu là những
người dân tộc thiểu số có hộ khẩu thường trú và trưởng thành từ thực tiễn hoạt
động chính trị ở địa phương.
Đặc điểm này cho thấy, nguồn tuyển chọn của đội ngũ cán bộ cấp xã ở
huyện Tân Sơn tuyệt đại đa số là con em đồng bào dân tộc thiểu số làm nông
nghiệp, xuất phát từ nông dân và gắn bó lâu đời ở địa phương. Một bộ phận

cán bộ là bộ đội phục viên, nghỉ hưu, chuyển ngành về tham gia công tác, giữ
các vị trí trong tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương. Họ là những
người có năng lực, uy tín, được bồi dưỡng, đào tạo lựa chọn xắp xếp vào các
công việc thích hợp; có lập trường, tư tưởng vững vàng, dễ tạo được uy tín và
sự tin tưởng của nhân dân.
Do đội ngũ cán bộ cấp xã chủ yếu là người dân tộc tiểu số ở địa phương
nên họ biết tiếng dân tộc, cần cù, chịu khó, thật thà và thân thiện, am hiểu về tình
hình địa bàn, nắm chắc nhiệm vụ phát triển KT - XH ở địa phương và được sự
ủng hộ của nhân dân, tạo nhiều thuận lợi trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ.
Tuy nhiên, khả năng giao tiếp, tính nhạy bén, năng động còn hạn chế. Mặt khác,
còn có tư tưởng tâm lý dòng họ, dòng tộc, dễ dẫn đến tình trạng chia bè, kết
cánh, mất đoàn kết nội bộ, suy yếu bộ máy ở địa phương.
Thứ hai, cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ được xây dựng,
phát triển thông qua cơ chế bầu cử trong Đảng, bầu cử Hội đồng nhân dân
và tuyển dụng theo đề án 600 ở địa phương.
Việc bầu cử và tuyển chọn đội ngũ cán bộ ở huyện Tân Sơn trong
những năm qua luôn thực hiện một cách công khai, dân chủ, bảo đảm đúng

18


nguyên tắc. Đây là cơ sở để lựa chọn những cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực
vào trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và chính quyền ở các xã trong toàn huyện.
Nguồn cán bộ, công chức xã của huyện chủ yếu hình thành từ tuyển dụng. Trong
những năm qua, tỉnh Phú Thọ duy trì hai hình thức tuyển dụng: Từ năm 2012 trở
về trước áp dụng hình thức xét tuyển; từ 2013 áp dụng hình thức thi tuyển đối
với cán bộ, công chức xã. Một bộ phận là được xét tuyển từ cán bộ thuộc các tổ
chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở thôn và xã, một bộ phận được xét tuyển, thi
tuyển từ sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và một số từ cử
tuyển tạo nguồn cán bộ ở địa phương. Đồng thời, có một số ít xét tuyển theo đề

án 600 của Bộ Nội vụ “về việc tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện về các xã khó
khăn tham gia phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 2013 - 2020” [Phụ lục 9].
Qua đó, cho thấy chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn đang
được trẻ hóa từng bước đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ có tuổi
đời, tuổi nghề, kinh nghiệm công tác, trình độ học vấn không đều nhau.
Về giới tính phân bố tương đối đều ở các chức danh, trừ chức danh chủ
tịch Hội Cựu chiến binh ra thì tất cả các chức danh còn lại đều có cán bộ nữ. Tuy
nhiên, tỷ lệ cán bộ nữ giữa các xã không đều nhau. Một số xã, ngoài chức danh
chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ thì không có cán bộ chủ chốt là nữ. Về độ tuổi, đội
ngũ cán bộ các xã có cơ cấu các độ tuổi chưa thật hợp lý. Về thâm niên và kinh
nghiêm công tác, số cán bộ có thời gian dưới 5 năm và dưới 15 năm có tỉ lệ thấp
hơn 30 năm chiếm tỉ lệ rất thấp [Phụ lục 8].
Về trình độ học vấn, đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn đều đã
tốt nghiệp trung học phổ thông. Trước khi vào làm việc trong HTCT cấp xã
phần lớn được đào tạo chuyên môn ở các trình độ sơ cấp, trung cấp, đại học.
Một số ít vào công tác tại xã được cử đi đào tạo chuyên môn. Về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cấp xã nhìn chung đạt ở mức
trung bình khá. Về lý luận chính trị, cơ bản đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân

19


Sơn chủ yếu đã qua đào tạo sơ cấp lý luận chính trị và số ít qua trung cấp lý luận
chính trị. Về trình độ quản lý nhà nước của đại đa số cán bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu. Trình độ tin học mặc dù đã được tập huấn hàng năm song còn rất hạn
chế [Phụ lục 7].
Thứ tư, cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ bị tác động bởi
văn hóa tâm lý tộc người; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị
còn thấp và không đồng đều.

Đặc điểm trên cho thấy cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
có nhiều thành phần dân tộc khác nhau trong bộ máy chính quyền. Đây cũng
là thế mạnh để cán bộ cấp xã giữ gìn, bảo vệ, phát triển các giá trị văn hóa của
dân tộc mình. Đồng thời, thuận lợi trong thực hiện nhiệm vụ như: tuyên
truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chính sách của Đảng,
Pháp luật Nhà nước và tập hợp đoàn kết các tộc người trên địa bàn mỗi xã.
Song bên cạnh đó, những hủ tục, lạc hậu, thoi quen tâm lý văn hóa của từng
dân tộc đã tác động nhiều tới họ về phát triển nhân cách, về trình độ VHCT…
Đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn có trình độ chuyên môn, lý
luận chính trị còn thấp và chưa đồng đều. Hầu như họ chưa chủ động trong
việc học tập phục vụ công tác mà chủ yếu do trên cử đi học lớp bồi dưỡng
chuyên môn, lý luận chính trị ngắn hạn dẫn đến việc chuẩn hóa tri thức chính
trị còn thấp chưa đồng đều. Số cán bộ trẻ được đào đạo cơ bản, nhưng kinh
nghiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành quản lý còn ít; khả năng tập hợp
vận động dân tộc thiểu số còn hạn chế. Bên cạnh đó, cán bộ già và cán bộ trẻ
có sự khác nhau về tư duy đổi mới phát triển KT - XH ở địa phương. Những
vấn đề đó đang tác động đến VHCT và nâng cao VHCT của cán bộ cấp xã
trước những yêu cầu mới đặt ra hiện nay.
Thứ năm, cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ thực hiện chức
năng, nhiệm vụ trên một địa bàn không thuận lợi, trình độ dân trí thấp, phong
tục tập quán còn nhiều biểu hiện lạc hậu.
Đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn là lực lượng giữ vị trí nòng
cốt, điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức cấp xã. Song, cán bộ cấp xã ở

20


huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ thực hiện nhiệm vụ, chức trách trong điều kiện
khó khăn, công dân sinh sống ở địa phương chủ yếu là dân tộc tiểu số. Các
bản, thôn cách xa xã, mật độ dân cư thưa, trình độ văn hóa của nhân dân còn

thấp; công tác tuyên truyền, vận động nhân dân bỏ phong tục, tập quán lạc
hậu đặt ra nhiều khó khăn cho đội ngũ cán bộ cấp xã. Tư tưởng chủ quan,
trông chờ ỉ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước còn tồn tại ở một bộ phận trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những thách thức, khó khăn trên đang đặt ra
cho đội ngũ cán bộ cấp xã trong việc nâng cao năng lực, triển khai thực hiện
nhiệm vụ và tập hợp nhân dân ở địa phương.
Những đặc điểm trên, đã tác động không nhỏ đến trình độ tri thức, tình
cảm, thái độ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ hiện nay.
* Quan niệm về văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ
Văn hóa chính trị của của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là
VHCT cá nhân phản ánh giá trị chính trị thông qua HĐCT ở địa phương mà có.
Những giá trị chính trị theo chuẩn mực chân, thiện, mỹ được xuất phát từ những
nhân cách văn hóa hòa quện nhân cách người đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam. Văn hóa chính trị không phải sự cộng lại giản đơn của văn hóa và chính
trị, mà là chính trị đạt tới trình độ văn hóa, phản ánh đầy đủ sâu sắc các giá trị
văn hóa. Toàn bộ những hệ thống tri thức cơ bản, thái độ, tình cảm, bản lĩnh,
hành vi chính trị thông qua các quan hệ chính trị, HĐCT đều thể hiện tính khoa
học, cách mạng, sáng tạo và nhân văn.
Văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là sản
phẩm của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì
nhân tố kinh tế là nhân tố xét đến cùng quyết định nguồn gốc, bản chất, nội
dung và sự vận động, biến đổi của chính trị. Trình độ phát triển KT - XH của

21


huyện Tân Sơn còn thấp, nên chi phối đến trình độ chính trị, văn hóa của nhân

dân nói chung, đội ngũ cán bộ cấp xã nói riêng. Trong khi đó, cán bộ cấp xã đều
là người bản địa theo đó, trình độ VHCT của họ phản ánh điều kiện KT - XH ở
địa phương là vấn đề lôgic bản chất của kinh tế - vật chất và chính trị - xã hội.
Tính chất và trạng thái của nền kinh tế huyện Tân Sơn nó sẽ quy định tính
chất và trạng thái VHCT. Một nền kinh tế tự cung, tự cấp phụ thuộc hoàn toàn
ngân sách Nhà nước thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến những suy nghĩ, thói quen,
tập quán hủ tục là tất yếu sẽ dẫn đến những suy nghĩ lạc hậu, bảo thủ trong
HĐCT, đánh giá các hiện tượng chính trị chủ yếu dựa trên kinh nghiệm,
mang tính chủ quan, cục bộ dòng họ.
Sự hình thành VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn tùy thuộc không
nhỏ vào truyền thống địa phương. Là một địa phương khó khăn nhất trong tỉnh,
nhưng người dân nơi đây có truyền thống yêu nước, yêu quê hương thể hiện rõ
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Không chỉ cần cù
sáng tạo trong lao động sản xuất, người dân Tân Sơn còn rất sáng tạo trong lao
động nghệ thuật, trong sáng tác, giữ gìn và phát triển văn hóa dân gian phản ánh
những giá trị văn hóa bản địa cội nguồn đất tổ vua Hùng. Những hình thức sinh
hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của đồng bào, của dân tộc thiểu số
cùng với sinh hoạt văn hóa của những người kinh làm nên một bức tranh văn
hóa thống nhất trong đa dạng, mang đậm bản sắc vùng miền; trong đó có sự tích
hợp những giá trị văn hóa tiến bộ, hiện đại từ thành quả công cuộc đổi mới đất
nước và địa phương. Những giá trị văn hóa ấy luân chuyển sự chi phối của
những quan điểm, tư tưởng, chính sách của Đảng, Nhà nước. Mặt khác, những
giá trị văn hóa bản địa ấy xâm nhập, hòa quện vào những yếu tố chính trị ở địa
phương, mà trực tiếp nhất là cán bộ cấp xã. Điều đó cho thấy, VHCT của cán bộ
cấp xã chịu sự chi phối, tác động của tính tích cực và tiêu cực văn hóa bản địa.
Họ không thể có trình độ VHCT cao khi trình độ văn hóa bản địa còn thấp. Vì,

22



văn hoá được biểu hiện bởi học vấn, tri thức, kinh nghiệm sống trực tiếp mà cá
nhân tích luỹ được qua học tập và hoạt động thực tiễn.
Con đường để hình thành nên mức độ VHCT của đội ngũ cán bộ cấp
xã, suy cho cùng là mức độ hoàn thiện nhân cách cán bộ. Trong đó, những
chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức cách mạng là cơ sở, là nền tảng để hình
thành và phát triển năng lực, đảm bảo cho năng lực phát huy được tác dụng
tích cực của nó. Khi năng lực và phẩm chất của cán bộ cấp xã phù hợp và
đáp ứng được yêu cầu của địa phương thì sẽ trở thành động lực thúc đẩy
tính tích cực chính trị của công dân; đề ra được chủ trương, biện pháp phù
hợp với nguyện vọng đại đa số quần chúng nhân dân để đưa Tân Sơn đi lên
phù hợp với xu thế phát triển chung của tỉnh và đất nước. Những yếu tố
như: Đạo đức, lối sống, văn hóa cá nhân của cán bộ cấp xã là điều kiện
thường trực để họ tiếp nhận, nhập thân, chọn lọc những giá trị chính trị,
đảm bảo cho họ tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân trong quá trình hình
thành mức độ VHCT của họ. Văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã không thể
và không bao giờ được gieo mầm và nảy nở trên những “mảnh đất” - nhân
cách thiếu chuẩn mực văn hóa, đạo đức, lối sống tiêu cực, lạc hậu...
Khả năng giác ngộ chính trị là điều kiện quan trọng trực tiếp tạo nên mức
độ VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Đó là khả năng
tiếp nhận, nắm bắt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp,
pháp luật Nhà nước; khả năng tiếp nhận, nắm bắt các phương pháp “nghệ
thuật” trong qua hệ chính trị và HĐCT ở địa phương của từng cán bộ. Văn
hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ được hình
thành, phát triển qua những thông qua những mối quan hệ biện chứng giữa
điều kiện khách quan và chủ quan trong quá trình hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, trong đó HĐCT là con đường cơ bản, có ý nghĩa quyết định.
Mỗi cán bộ cấp xã là một nhân cách văn hóa, nhưng không đơn thuần là những
cá nhân gương mẫu, có tri thức, thái độ, tình cảm, bản lĩnh chính trị vững vàng,

23



mà những nhân cách VHCT ấy phải biết hiến những giá trị chính trị của mình để
hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chính sách của Nhà nước mang lại
lợi ích cho nhân dân địa phương và phấn đấu cho mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ những luận giải về văn hóa và VHCT, về cán bộ cấp xã ở huyện Tân
Sơn, có thể quan niệm: Văn hóa chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ là sự kết tinh tổng hòa những giá trị văn hóa trong hệ thống tri
thức, tình cảm, thái độ, bản lĩnh, hành vi chính trị được hình thành, phát triển
thể hiện trong quá trình hoạt động chính trị mang lại lợi ích cho nhân dân,
địa phương mình trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Với quan niệm trên, VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú
Thọ là một bộ phận của văn hóa XHCN của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, là văn hóa trong chính trị và HTCT cơ sở được thể hiện ở những nội dung
cơ bản sau:
Tri thức chính trị. Nói đến VHCT, trước hết là hệ thống tri thức chính trị
với tính cách là giá trị văn hóa, bao gồm cả hệ thống tri thức lý luận và tri
thức kinh nghiệm. Đây là thước đo để khẳng định trình độ VHCT của cán bộ
cấp xã ở mức nào, cao hay thấp, bề rộng, hay chiều sâu. Tri thức chính trị là
hệ thống các kiến thức lý luận chính trị và kinh nghiệm chính trị được đúc rút
từ thực tiễn HĐCT, phản ánh lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, là
nền tảng tinh thần, trí tuệ của chủ thể chính trị có vai trò định hướng, điều
chỉnh hành vi, hành động trong hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu
chính trị của Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân.
Tri thức lý luận chính trị của cán bộ cấp xã ở huyện Tân Sơn là hệ thống
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực văn
hóa trong hệ thống tri thức ấy. Hệ thống lý luận chính trị ấy là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, hình thành nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ cấp
xã giữ vai trò định hướng, điều chỉnh hành vi HĐCT của họ.


24


Kinh nghiệm chính trị của cán bộ cấp xã là những tri thức được đút rút
từ thực tiễn HĐCT, đạt tới những giá trị văn hóa, trong nhân cách mỗi người.
Tri thức kinh nghiệm chính trị của mỗi cán bộ cấp xã là sự hiểu biết, năng lực
tiếp thu những kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày thông qua các HĐCT ở
địa phương. Đó là những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn quán triệt, triển
khai chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, nghị quyết của
đảng, kế hoạch, chủ trương hành động của chính quyền các cấp. Kinh nghiệm
trong xử trí các mối quan hệ chính trị - xã hội ở địa phương đạt tới những
chuẩn mực văn hóa, thể hiện tính khoa học, sáng tạo và nhân văn. Những kinh
nghiệm chính trị được tích lũy dần dần trong quá trình thực tiễn HĐCTcủa
cán bộ cấp xã, có kế thừa “lọc bỏ” để trở thành những tri thức phục vụ cho
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Tri thức lý luận chính trị và tri thức kinh
nghiệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh chính trị cho họ
HĐCT ở địa phương. Tri thức chính trị chỉ thực bền vững khi thực tiễn kiểm
nghiệm đảm cho mỗi cán bộ cấp xã tự tin, bản lĩnh vững vàng trước mọi biến
cố của thực tiễn chính trị.
Tình cảm, thái độ chính trị. Là tình cảm của cán bộ xã đối với lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, truyền thống anh dũng ở địa
phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; tình yêu quê
hương, đất nước, chế độ XHCN và con người. Niềm tin thắng lợi vào sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước; các cấp lãnh đạo, điều hành của chính quyền tỉnh,
huyện, xã. Đây là biểu hiện quan trọng VHCT của cán bộ cấp xã ở huyện Tân
Sơn. Chỉ có tình cảm cách mạng trong sáng, tình yêu đồng chí giai cấp, tình
yêu đất nước, quê hương, con người, lòng tự hào truyền thống dân tộc, địa
phương mới có được tình cảm chân chính đối với Đảng, Nhà nước và chế độ,

nguyện đem hết khả năng của mình thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng,
phục vụ nhân dân, vì sự tiên bộ phát triển của địa phương.

25


×