Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ở TP long xuyên, tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 76 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

HÀ MAI CHÂU

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO THẾ HỆ TRẺ Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

HÀ MAI CHÂU

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO THẾ HỆ TRẺ Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số



: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ THỌ

HÀ NỘI - 2017


3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập đến nay, em đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè. Với
lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám
hiệu, phòng Sau đại học, quý Thầy Cô khoa Triết học Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội, với tri thức và tâm huyết của mình đã truyền đạt vốn kiến
thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn.
Đặc biệt em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.
TS Nguyễn Thị Thọ - người đã dành mọi tâm huyết, sự tận tâm, nhiệt tình
chỉ bảo, hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em hoàn
thành Luận văn.
Lời cuối cùng, em xin gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
các bạn học viên đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ em trong suốt thời
gian qua để em có thể hoàn thành Luận văn.
Long Xuyên, ngày

tháng 06 năm 2017


Tác giả

Hà Mai Châu


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn: “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay”, là công
trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Nguyễn Thị Thọ. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong
luận văn là trung thực, các thông tin trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.
.

Long Xuyên, ngày tháng 06 năm 2017
Tác giả

Hà Mai Châu


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 7
Chƣơng 1: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO THẾ
HỆ TRẺ THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .................................. 16

1.1. Đạo đức truyền thống ........................................................................... 16
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 10
1.1.2 Một số giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam ………..25
1.1.2.1 Truyền thống yêu nước ................................................................... 25
1.1.2.2 Truyền thống đoàn kết ................................................................... 28
1.1.2.3 Truyền thống nhân ái nhân nghĩa.................................................... 29
1.2. Sự cần thiết giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay........................................... 31
1.2.1 Vài nét về thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang ............................. 31
1.2.2 Đặc điểm của thế hệ trẻ thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
hiện nay ................................................................................................ 33
1.2.3 Giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ thành phố Long
Xuyên tỉnh An Giang hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn ........ 39
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 42
Chƣơng 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO THẾ
HỆ TRẺ THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .............................. 42
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay........................................... 42


6

2.1.1 Những thành tựu đạt được trong công tác giáo dục đạo đức
truyền thống cho thế hệ trẻ phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện
nay ........................................................................................................ 43
2.1.2 Những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức truyền thống
cho thế hệ trẻ phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay .................... 50
2.1.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế .................................. 54
2.1.3.1 Nguyên nhân của những thành tựu ................................................. 54

2.1.3.2 Nguyên nhân của những và hạn chế ............................................... 57
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức truyền thống cho thế hệ trẻ thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang hiện nay ..................................................................................... 57
2.2.1 Mỗi cá nhân thế hệ trẻ phải không ngừng phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động trong học tập, rèn luyện, nâng cao nhận thức về
các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ....................................... 60
2.2.2 Thường xuyên chăm lo giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống
cho thế hệ trẻ thông qua các hoạt động phong trào của trường,
lớp, các tổ chức Đoàn, Hội .................................................................. 62
2.2.3 Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ................................... 64
2.2.4 Phát huy vai trò các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính
trị xã hội trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ
trẻ ......................................................................................................... 70
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 72


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 30
năm đổi mới, chúng ta đã gặt hái được những thành tựu đáng tự hào. Về cơ
bản, chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế và đang trên
đà phát triển, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại,
tình hình chính trị cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, về

thế và lực ngày càng được củng cố và phát triển.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã
hun đúc nên nhiều giá trị đạo đức truyền thống, góp phần tạo nên bản sắc
của dân tộc, thành giá đỡ tinh thần cho sự phát triển của xã hội. Những giá
trị truyền thống đó ngày càng được kế thừa, bổ sung, phát triển.
Trong điều kiện phát triển hiện nay, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển
kinh tế thị trường đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hiện đại hóa đất nước mà xa rời
những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân
mình, trở thành cái bóng của người khác, của dân tộc khác.
Và thực tiễn chứng minh rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc
phần lớn vào thế hệ trẻ. Liệu chúng ta có thể giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa nếu thế hệ thanh niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn
những giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất
nước, chúng ta đã chuẩn bị “hành trang” gì cho họ? Điều tiên quyết và
không thể thiếu đó là “truyền thống dân tộc”, những truyền thống đáng tự
hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã giúp chúng ta hòa
nhập mà không hòa tan, phát triển mà không bị mất gốc, trọng truyền thống


8

mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho thế hệ trẻ nâng
cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách và đầy cạm
bẫy của cuộc sống hiện đại.
Long Xuyên là một thành phố nhỏ trực thuộc tỉnh An Giang, với bề
dày lịch sử phát triển chính trị, kinh tế - xã hội hết sức phong phú, có nền
văn hóa bản địa kết tinh từ nhiều dân tộc (Kinh, Hoa, Chăm, Khơme) tạo
nên bản sắc riêng của Long Xuyên trong bản sắc chung của cộng đồng văn

hóa dân tộc Việt Nam. Cùng với sự phát triển chung của toàn tỉnh, trong
những năm qua thế hệ trẻ của thành phố Long Xuyên rất được các cấp lãnh
đạo quan tâm chăm sóc, từ việc học hành, bồi dưỡng cho đến việc vui chơi,
giải trí, chăm lo sức khỏe. Nhìn chung, thế hế trẻ thành phố Long Xuyên
hiện nay rất năng động và tích cực trong việc nâng cao trình độ tri thức, thái
độ cầu tiến, ham học hỏi; tham gia tích cực các hoạt động xã hội; có ý thức
chính trị vững vàng, có tinh thần cảnh giác cao trước mọi âm mưu của các
thế lực thù địch.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận thế hệ trẻ có lối sống ích
kỷ, hưởng thụ, mất gốc, một số bộ phận thế hệ trẻ sống buông thả, chạy theo
đồng tiền, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc, rơi vào các tệ
nạn xã hội. Vì vậy, để có sự phát triển bền vững, để hội nhập mà vẫn giữ
được bản sắc, đòi hỏi chúng ta phải chú trọng hơn nữa công tác giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ cả tài và đức, đặc biệt trong giáo dục đạo đức cần tăng
cường giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ để giúp họ kế
thừa có chọn lọc và phát huy những giá trị đó trong điều kiện hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tôi xin chọn đề tài: “Giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.


9

2. Lịch sử nghiên cứu
Xung quanh vấn đề giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống trong những năm gần đây có rất nhiều công trình
nghiên cứu, những bài viết dưới các góc độ khác nhau được thể hiện ở
những nhóm sau:
Thứ nhất, những nghiên cứu về đạo đức truyền thống
Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam do GS. Trần Văn Giàu chủ biên,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1980. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân
tích các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam - cái làm nên bản sắc, tinh thần, cốt cách Việt Nam.
"Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của
GS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2/1998; “Bàn thêm về khái
niệm “Giá trị đạo đức” của Đoàn Quốc Thái, Tạp chí Triết học, số 12 (235)
năm 2010. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung xác định và luận giải một
số tính chất cơ bản của giá trị đạo đức truyền thống.
“Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát
triển đất nước, dân tộc” của Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Triết học, số 6,
năm 1998. Tác giả đã cho rằng: việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về
tầm quan trọng của công tác giáo dục truyền thống yêu nước là hết sức cần
thiết. Khi nhận thức xã hội được nâng lên cũng là lúc chúng ta đã tạo ra
được một môi trường xã hội thuận lợi và là động lực to lớn thúc đẩy công
tác giáo dục truyền thống yêu nước đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, có nhiều bài viết, chuyên khảo đã làm rõ vai trò, vị trí của các
giá trị đạo đức truyền thống trong xã hội hiện nay như: “Nhân ái - một giá trị
văn hóa truyền thống cần kế thừa và phát huy trong việc xây dựng lối sống ở
Việt Nam hiện nay” của Võ Văn Thắng, Tạp chí Triết học, số 7 (182) năm
2006; “Từ đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay” của Nguyễn Thị


10

Thọ, Tạp chí Triết học, số 6 (193) năm 2007; “Đoàn kết dân tộc trên cơ sở
đồng thuận xã hội” của Đặng Hữu Toàn, Tạp chí Triết học, số 4 (203) năm
2008; “Đoàn kết xã hội - động lực phát triển xã hội” của Hà Văn Núi, Tạp chí
Triết học, số 5 (204) năm 2008. Bài viết luận chứng đoàn kết xã hội không
những là một truyền thống của dân tộc, mà còn là động lực quan trọng thúc
đẩy sự phát triển xã hội…

Thứ hai, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức truyền thống
Nguyễn Linh Khiếu - Tư tưởng “Nâng cao đạo đức cách mạng chống
chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, số 22-2005. Công
trình này đã khẳng định sức sống bền vững của các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, làm rõ mối quan hệ, sự tác động của đạo đức tới
các yếu tố như kinh tế, văn hóa…
Lê Thị Hoài Thanh (2003), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. Luận án
Tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án luận
giải mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển đạo đức,
vận dụng mối quan hệ này vào hoạt động giáo dục đạo đức cho thanh niên,
từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu kết hợp truyền
thống và hiện đại nhằm xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện
nay.
“Biện chứng của truyền thống” của Hà Văn Tuấn, Tạp chí Cộng sản,
số 3-1981; “Về truyền thống dân tộc” của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng
sản, số 3-1981; “Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng
con người mới ở nước ta” của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội,
số 5-1986; “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát
triển của xã hội hiện đại” của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 41992. “Biện chứng của truyền thống” của Hà Văn Tân, Tạp chí cộng sản, số


11

3 – 1981. Những tài liệu này góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai
trò của giá trị đạo đức truyền thống và việc giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho tầng lớp thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức truyền thống
dân tộc nói riêng cho thanh niên, học sinh, sinh viên từ lâu cũng là đề tài
được nhiều tác giả các bài viết, chuyên khảo, tác giả các luận án tiến sỹ quan

tâm, như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác giáo dục đạo đức học sinh
trong nhà trường phổ thông” của Nguyễn Đức Hòa, Tạp chí Triết học số 5
(204) năm 2008; “Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong sự hình
thành và phát triển nhân cách” của Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học số 2
(237) năm 2011. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải sự tác
động, ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống đến sự hình thành và phát
triển nhân cách, đặc biệt là nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Tác giả
khẳng định vai trò to lớn của các giá trị đạo đức trong quá trình hình thành
và phát triển của nhân cách và coi đây là tiền đề khách quan để xây dựng
nhân cách con người Việt Nam vừa mang tính hiện đại, vừa đậm đà bản sắc
dân tộc; "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án Tiến sỹ Triết học của
Trần Sĩ Phán, 1999…
Trong nội dung của các bài viết, luận án nói trên, vấn đề ý nghĩa và sự
cần thiết của việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức truyền
thống nói riêng đã được đề cập một cách khá sâu sắc, những phương hướng
và giải pháp được nêu ra cụ thể, thiết thực, phù hợp với tính chất đặc thù của
đối tượng thanh niên, học sinh, sinh viên giai đoạn hiện nay. Đó là những tư
liệu tham khảo hết sức bổ ích cho tác giả tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này.
Thứ ba, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức truyền thống cho
thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay


12

Trong những năm qua, Đảng bộ Tỉnh An Giang nói chung và Thành
ủy Long Xuyên nói riêng rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức truyền
thống cho thế hệ trẻ, điều đó được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết đã ban
hành, như: Thực hiện Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về “Một số định
hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” tiếp tục khẳng định: Sự phát

triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tạo ra cái mới nhưng lại không
thể tách rời khỏi cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn,
giữ được cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là
những giá trị luân lý đạo đức).
Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp bộ Đảng,
chính quyền đã xây dựng, thực hiện các tiêu chí chuẩn mực đạo đức cho cán
bộ - đảng viên, đoàn viên - thanh niên, nhất là lứa tuổi thanh thiếu nhi làm
và thực hiện theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Phòng Giáo dục thành phố Long Xuyên cũng rất quan tâm đến việc giáo dục
đạo đức truyền thống cho các em học sinh trong và ngoài nhà trường vì vậy
thường xuyên có sự nhắc nhở và định hướng trong quá trình thực hiện.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên đều có ý
nghĩa to lớn đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, những công trình này chưa đề cập một
cách trực tiếp đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ
của thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay nhìn từ góc độ triết học.
Kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, với việc thực
hiện đề tài: “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ở thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay” tác giả mong muốn góp phần
lấp đầy khoảng trống trên.
3. Mục đích nghiên cứu


13

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ở Thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang hiện nay; từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ở Thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.

4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập và phát triển, đứng trước sự tác
động hai mặt của kinh tế thị trường, sự biến đổi của đời sống xã hội, các giá
trị đạo đức truyền thống có phần bị xem nhẹ, điều đó sẽ ảnh hưởng không
nhỏ tới sự phát triển bền vững của đất nước. Nếu chúng ta biết gìn giữ, phát
huy và giáo dục tốt các giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ thì sẽ giữ
được bản sắc, hòa nhập mà không hòa tan, tạo được cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về đạo đức truyền thống, giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang hiện nay.


14

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nói đến đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam có rất nhiều giá trị,
trong luận văn này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số giá trị cơ bản để
giáo dục cho thế hệ trẻ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay,

như: truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống nhân ái,
nhân nghĩa. Và khi nói đến thế hệ trẻ thì đây là khái niệm rất rộng, gồm cả
thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Trong luận văn này, khi bàn về giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ, tác giả muốn tập trung bàn về lứa tuổi thanh niên.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các
phương pháp cụ thể như: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, khái quát
hóa...
9. Tóm tắt những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
- Những luận điểm cơ bản
Đạo đức truyền thống là những giá trị đạo đức được hình thành từ
trong lịch sử và được lưu truyền, gìn giữ, bổ sung, phát triển cho đến hôm
nay và mai sau.
Giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ nói chung, thế hệ trẻ
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay nói riêng là hết sức cần thiết
nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững, hội nhập mà không hòa tan.
Để giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay đạt được hiệu quả cao thì chúng ta phải có
những giải pháp đồng bộ và mang tính khả thi.
- Đóng góp mới của luận văn


15

Luận văn góp phần làm rõ những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc. Chỉ ra sự cần thiết phải giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ ở
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.
Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay ở hai phương diện, những

mặt đã làm được và những hạn chế. Từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể để
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy những môn học, như: Đạo đức, Giáo dục
công dân, Lịch sử, Ngữ văn, các chương trình tập huấn giáo dục đạo đức, lối
sống cho thế hệ trẻ nói chung.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.


16

Chƣơng 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO THẾ HỆ TRẺ
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó ra đời từ tồn tại xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội. Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư
tưởng đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học
Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực, nhằm điều
chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức
mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [42; tr.1].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã

hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.
Theo Mác và Ăngghen, trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên
tắc bao gồm cả triết học và luân lí học, con người đã hoạt động, tức là đã sản
xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Ý thức xã hội của con
người là phản ánh tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội
khác nhau tuỳ theo phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng
biệt đối với đời sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội
phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Và cũng
như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính
chất của kiến trúc thượng tầng. Sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét


17

đến cùng là một quá trình do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết
định.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi như: phong tục,
tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức ... đối với đạo đức, sự đánh giá hành
vi con người theo khuôn phép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu hiện thành
những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Đã
là một thành viên của xã hội, con người phải chịu sự giáo dục nhất định về ý
thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong hoàn cảnh
nào đó còn chịu sự khiển trách của lương tâm… cá nhân phải chuyển hóa
những đòi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng thành nhu cầu, mục
đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện của sự chuyển hóa
này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích,
những chuẩn mực phù hợp với những đòi hỏi của xã hội… do vậy, sự điều
chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa
chọn của con người.

Như vậy, nói đến đạo đức là nói đến các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực để điều chỉnh hành vi của con người. Những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực này không nhất thành bất biến, mà có sự vận động biến đổi cùng với sự
vận động biến đổi của đời sống xã hội. Đạo đức có một vai trò vô cùng quan
trọng trong sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của xã hội.
Nó là nhân tố không thể thiếu khi đánh giá mỗi con người. Bác Hồ đã từng
nói: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì
làm việc gì cũng khó.
1.1.2. Khái niệm đạo đức truyền thống
Khái niệm truyền thống có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự
chuyển giao, lưu truyền lại - đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu


18

truyền từ những thế hệ trước và nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay
nhóm xã hội nhất định. Truyền thống là thói quen đã hình thành lâu đời
trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền thống của một dân tộc bao gồm những đức tính, thói quen,
những phong tục tập quán xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau, có các đặc
trưng: tính cộng đồng, bình ổn, lưu truyền: Nói đến truyền thống là nói đến
phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những phong tục,
lối sống, cách ứng xử, ý chí... của một cộng đồng người đã hình thành trong
lịch sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Vì vậy, truyền thống không phải là một hiện tượng, một sự kiện tạm
thời, thoáng qua mà nó là những yếu tố được truyền từ đời này sang đời
khác trong quy định của một dân tộc, một xã hội nào đó. Truyền thống cũng
không phải là cái hoàn toàn khách quan do điều kiện kinh tế - xã hội quy
định, mà là sự phản ánh những điều kiện khách quan thông qua hoạt động
chủ quan của con người. Điều đó lý giải vì sao nhiều quốc gia có điều kiện

phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên tương tự nhau nhưng lại có
những truyền thống khác nhau.
Từ khái niệm đạo đức, khái niệm truyền thống, chúng ta có thể thấy
rằng, đạo đức truyền thống là toàn bộ những tư tưởng, tình cảm, những
chuẩn mực, quy tắc, phong tục, tập quán đạo đức được hình thành từ lâu,
được truyền từ đời này sang đời khác và được mọi người hay một cộng đồng
người nhất định tự nguyện noi theo.
Với tư cách là yếu tố thuộc về ý thức xã hội, thuộc đời sống tinh thần,
đạo đức truyền thống có tính ổn định tương đối và thậm chí còn mang tính
“bảo thủ”. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, có thể thấy, sự “bảo thủ” đó là
cần thiết, để duy trì một chỗ đứng, một bản sắc cho dân tộc và mỗi con
người sống trong đó, cho phép mỗi dân tộc, mỗi cá nhân lựa chọn những gì


19

là thích hợp trong một thế giới nhiều giá trị, mà không phải giá trị nào cũng
phù hợp với mỗi dân tộc, mỗi con người trong những điều kiện kinh tế – xã
hội có những biến đổi.
Đạo đức truyền thống của một dân tộc được hình thành trong quá
trình phát triển của dân tộc đó. Những đặc điểm của đạo đức nảy sinh do tác
động của điều kiện sinh hoạt vật chất, của môi trường địa lý, khí hậu, tạo
thành tính dân tộc hay bản sắc dân tộc của đạo đức. Chúng có những đặc
điểm riêng tiêu biểu cho các dân tộc đó, nhưng cũng có những nét tương
đồng với các dân tộc khác. Bởi lẽ, dân tộc nào cũng có điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử văn hóa gắn với quá trình hình thành và
phát triển của dân tộc mình.
1.1.3. Khái niệm đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đã được hình thành trong suốt
hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong sự giao

thoa, tiếp biến, chọn lọc những giá trị văn hóa của dân tộc khác. Tuy vậy, cái
cốt lõi trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam hoàn toàn
bắt nguồn từ nền tảng của dân tộc, từ truyền thống hàng nghìn năm kiên trì
chịu đựng gian khổ, khó khăn và vượt qua một cách oanh liệt các tác động
khắc nghiệt của tự nhiên, xã hội. Trong những truyền thống vô cùng quý giá
như tinh thần yêu nước, đoàn kết, nhân ái nhân nghĩa, tiết kiệm, cần cù chịu
đựng gian khổ, hiếu học,... thì truyền thống yêu nước nổi bật lên và có thể
chi phối cả những truyền thống khác. Ngàn đời nay bao thế hệ con người
Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ, phát huy tạo thành giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Những giá trị tốt đẹp này có tác dụng củng cố,
phát triển quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt qua khó khăn
trong cuộc sống quá khứ, hiện tại để phát triển xã hội và hoàn thiện nhân
cách.


20

Xét trong tương quan với thế giới và khu vực, đặc biệt là với các dân
tộc phương Đông, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta có những nét
chung với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong quá trình hình thành và
phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề chung như xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, ổn định và phát triển đời sống xã hội... Mặt khác, sự giao
lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay mức độ khác, nhất là
với các nước gần nhau, đã ảnh hưởng đến nhau khá rõ rệt. Cái khác nhau ở
đây là trật tự sắp xếp các giá trị đạo đức, mối tương quan giữa chúng và
những sắc thái riêng hình thành trong điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân
tộc qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó. Giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử phát
triển lâu dài trên đất nước Việt Nam với tất cả những điều kiện lịch sử đặc
thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó.

Sớm xác định được vai trò quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc đối với sự phát triển đất nước, nên nhân dân ta luôn giữ gìn và
tôn trọng những giá trị quý báu ấy và xem chúng như là những tiêu điểm để
mọi người hướng tới, làm theo. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử cho rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cho nên những
giá trị tinh thần và đạo đức, nhân cách của người Việt Nam có nguồn gốc
sâu xa là bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, môi trường tự nhiên, lịch sử
xã hội. Việt Nam là một nước có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời, đời sống
người nông dân quanh năm gặp nhiều khó khăn, vất vả, phần lớn phụ thuộc
vào thiên nhiên. Mặt khác, do nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông
Bắc và Đông Nam nên điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, mưa nắng
thất thường, điều đó đã gây ra nhiều thiên tai, hạn hán, dẫn đến mất mùa.
Chính trong điều kiện khó khăn đó đã hình thành ở con người Việt Nam
những giá trị quý báu: sự gắn bó cộng đồng chặt chẽ, yêu thương đùm bọc,


21

giúp đỡ nhau… từ đó hình thành thói quen cần cù, tiết kiệm. Việt Nam là đất
nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên quý báu “rừng vàng, biển bạc, đất phì
nhiêu”; mặt khác, lại nằm ở đầu mối giao thông quốc tế, cho nên Việt Nam
thường xuyên là mục tiêu của các thế lực ngoại xâm và trong điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt, sự de doạ của ngoại xâm, để tồn tại và phát triển, người
Việt Nam phải “chung lưng đấu cật”, “sát cánh bên nhau” trong sản xuất và
chiến đấu. Việc gắn đời sống của cá nhân với cộng đồng cũng là để bảo vệ
cuộc sống của mình.
Vì vậy, khi nói về những giá trị đạo đức truyền thống, giáo sư Trần
Văn Giàu đã viết: “Giá trị đạo đức truyền thống là những cái gì sừng sững,
vững chắc, cao vọi, tôn nghiêm như những ngọn núi, đời này qua đời khác
làm tiêu điểm để các tầng lớp đồng bào theo đó mà gióng hướng mà không

đi lạc, mà phân biệt chính tà, phải trái, nên chăng, tốt xấu để mọi người xác
định thái độ, hành tung của mình” [18, tr. 93]. Hoặc giáo sư Vũ Khiêu cho
rằng, giá trị đạo đức của dân tộc Việt Nam bao gồm: “lòng yêu nước, truyền
thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu
thương và quý trọng con người” [25, tr.74]. Trong các văn kiện của Đảng ta,
đặc biệt là Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng đã xác định: Những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của
dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo
lý thương người như thể thương thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo
trong lao động. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành trung
ương Đảng khoá VIII, đã khẳng định: Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam
bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, lòng tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý,


22

đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, là đức hy sinh cao thượng tất cả vì
độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là sự tế nhị trong cư xử, tính
giản dị trong lối sống [10, tr.10]. Quan điểm trên của Đảng ta và các nhà
khoa học tuy có những điểm cụ thể khác nhau, cách diễn đạt khác nhau, thế
nhưng đều khẳng định rõ vị trí nổi bật của các giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể nhận định rằng, đạo đức
truyền thống của dân tộc Việt Nam là toàn bộ những tư tưởng, tình cảm,
những chuẩn mực, quy tắc, phong tục, tập quán đạo đức được hình thành từ
lâu, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,
được truyền từ đời này sang đời khác và được mọi người tự nguyện noi theo.
Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện

lịch sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả và
là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước
của dân tộc mang đậm nét đặc thù của sự phát triển xã hội trong lịch sử Việt
Nam. Đó còn là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều
trào lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị
đạo đức - văn hóa vốn có của mình, nhất là khi có sự du nhập của chủ nghĩa
Mác - Lênin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng
thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi đời sống đạo
đức xã hội đang có những biểu hiện suy thoái, những giá trị đạo đức truyền
thống đang có nguy cơ bị mai một, thì yêu cầu, đòi hỏi giữ gìn và phát huy
các giá trị đạo đưc truyền thống lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.


23

Tuy nhiên, khi tiến hành công tác giáo dục truyền thống đạo đức cần
chú ý đến hai yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định hệ giá trị truyền thống tốt đẹp cần duy trì, phát
triển, đồng thời chúng ta phải xây dựng truyền thống mới phù hợp với yêu
cầu của sự phát triển xã hội. Ví dụ “sống và làm việc theo pháp luật” phải
dần dần trở thành truyền thống của con người Việt Nam hiện đại. Cũng có
những truyền thống cũ phải có nội dung mới, chẳng hạn “hiếu học” không
chỉ là chăm chỉ, cần cù, vượt khó trong học tập, rèn luyện nhân cách. Ngày
nay, “hiếu học” còn đòi hỏi học thường xuyên, học suốt đời, học sáng tạo, có
năng suất, hiệu quả để phát triển vai trò chủ thể trong sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc.

Việc xác định những truyền thống, phát triển nội dung và xây dựng
truyền thống mới để giáo dục cho các thế hệ sau là việc làm rất cần thiết vì
chỉ có nhận thức được việc duy trì những truyền thống đạo đức tốt đẹp thì
mọi người mới tự giác thực hiện, phát triển truyền thống. Lịch sử đã cho
thấy lúc nào đó, ai đó lãng quên lịch sử hào hùng của dân tộc thì người đó đã
đánh mất chính mình và mất đi một động lực để phát triển. Những truyền
thống đạo đức cần được duy trì và phát huy trong cuộc sống, như: truyền
thống yêu nước, đoàn kết, yêu thương quý trọng con người, lá lành đùm lá
rách, nhường cơm sẻ áo, uống nước nhớ nguồn, ...
Thứ hai, khi giáo dục đạo đức truyền thống cần chú ý sử dụng truyền
thống như là một phương pháp giáo dục. Điều đó có nghĩa là thông qua các
hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, kết hợp các lực lượng, các phương
tiện thông tin đại chúng nhằm tạo ra dư luận xã hội lành mạnh ủng hộ cá
nhân, hành vi tốt, lên án mạnh mẽ những cá nhân, những hành vi phi đạo
đức, đi ngược lại truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.


24

Ngày nay, trong sự nghiệp phát triển đất nước, từng bước xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh quốc tế biến động nhanh và
phức tạp, chúng ta càng cần phải gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống,
đồng thời phải coi trọng giáo dục đạo đức, phải tăng cường giáo dục đạo đức
trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Chúng ta cần phải biết kế
thừa, phát huy và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống cho phù hợp
với xu thế của thời đại. Bên cạnh những giá trị đạo đức truyền thống như
lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, tinh thần ham học hỏi,
truyền thống tôn sư trọng đạo, đức tính cần cù, giản dị... chúng ta cần tiếp
nhận những giá trị mới được bổ sung trong sự phát triển của thế giới ngày
nay, đó là những giá trị: hoà bình - hoà hợp, bình đẳng - công lý, nhân

quyền, dân quyền, thận trọng, sáng tạo, công bằng, tự giác, tự trọng…
Trong quá trình xây dựng và phát triển hiện nay, nhiều quốc gia trên
thế giới không chỉ chú trọng phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, mà
còn rất đề cao các giá trị đạo đức, các giá trị tinh thần. Bởi vì các giá trị này
trong nhiều trường hợp, đóng vai trò động lực đối với sự tiến bộ xã hội. Do
vậy, nếu chúng ta biết hướng về cội nguồn, biết bảo vệ những giá trị đạo đức
truyền thống, đó chính là nội lực cho sự phát triển bền vững của xã hội hiện
tại và cả trong tương lai. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII,
nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: Phát triển tách khỏi cội
nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị
trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm
mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của
người khác, của dân tộc khác. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số
định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự
phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới tạo ra cái mới, nhưng lại
không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng


25

cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn
đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
1.1.2. Một số giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
1.1.2.1. Truyền thống yêu nước
Khi nói đến truyền thống yêu nước thì một trong những di huấn Chủ
tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là phải chăm lo “phát triển tinh thần
yêu nước của dân ta”, làm cho lòng yêu nước của mỗi người không “cất
giấu kín đáo trong rương, trong hòm”, mà phải được đem ra “thực hành vào
công việc yêu nước, công việc kháng chiến”, vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam là nét nổi bật trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt, là di sản quý báu của dân tộc được
hình thành từ rất sớm, được củng cố và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử.
Lòng yêu nước bắt nguồn từ những tình cảm đơn giản, trong một không gian
nhỏ hẹp như: tình yêu gia đình, yêu quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi
mình sinh sống gắn bó, dần dần mở rộng ra thành tình yêu quê hương đất
nước. Yêu nước là yêu nhân dân lao động, yêu những con người đã làm nên
hình hài đất nước, những người lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và
tinh thần cho sự sinh tồn và hưng thịnh của mỗi quốc gia, đất nước; những
người đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ và dựng xây đất nước. Các thế
hệ con người Việt Nam đã luôn luôn sẵn sàng đấu tranh đánh đuổi ngoại
xâm để bảo vệ quê hương đất nước. Họ sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc được
sinh ra, “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt/ Như mẹ, như cha, như vợ, như
chồng/ Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết/ cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
Họ sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần và gọi tên.
Lòng yêu nước dần được nâng cao, bồi đắp, lưu truyền và khắc sâu hơn để
từ đó hình thành truyền thống yêu nước Việt Nam.


×