Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Huy động các nguồn lực cộng đồng trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.1 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI ĐĂNG

HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC CỘNG ĐỒNG TRONG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THÀNH PHỐ BẮC NINH,
TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

HÀ NỘI, NĂM 2017
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI ĐĂNG

HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC CỘNG ĐỒNG TRONG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THÀNH PHỐ BẮC
NINH, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Hữu Hoan

2


HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng
tới Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Hà Nội, các thầy giáo, cô giáo đã tham
gia giảng dạy và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
tại nhà trường.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS Trần Hữu Hoan người đã
trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào
tạo Bắc Ninh, Ban giám hiệu, các bậc phụ huynh, các em học sinh của các
trường THPT đã cung cấp tư liệu cũng như tư vấn khoa học cho luận văn. Tôi
cũng xin trân trọng cảm ơn tới các đồng chí lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các
cấp trong thành phố Bắc Ninh và đại diện các đồng chí ở các ban ngành, đoàn
thể liên quan cũng như người dân ở thành phố Bắc Ninh đã tạo điều kiện để
tôi thực hiện được cuộc khảo sát thực trạng cho luận văn.
Mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được sự thông cảm và
góp ý, chỉ dẫn của quý các thầy, Cô giáo, các chuyên gia giáo dục và các bạn
đồng nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Hải Đăng
3



DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân

BGD&ĐT

Bộ giáo dục và đào tạo

ĐTN

Đoàn thanh niên

PHHS

Phụ huynh học sinh

XHHGD

Xã hội hóa giáo dục

THCS

Trung học cơ sở


GDTX

Giáo dục thường xuyên

CĐSP

Cao đẳng sư phạm

THCN

Trung học chuyên nghiệp

CMHS

Cha mẹ học sinh

LLXH

Lực lượng xã hội

4


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống giáo dục Việt Nam đã có những bước phát triển, quy mô giáo
dục tăng nhanh, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên,
chủ trương xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, gia đình và cộng đồng chăm
lo nhiều hơn cho sự nghiệp giáo dục, đồng thời xã hội cũng đòi hỏi cao hơn
về cơ hội học tập và chất lượng giáo dục. Hợp tác quốc tế về giáo dục được

mở rộng thúc đẩy quá trình hội nhập của giáo dục với khu vực và trên thế giới.
Giáo dục trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển nhanh và
bền vững của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và mỗi người. Do đó, giáo dục phải
là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Chỉ có sự tham gia của toàn xã hội làm
công tác giáo dục thì mới đảm bảo cho giáo dục phát triển có chất lượng và
hiệu quả.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI phê duyệt Đề án đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin
học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát
triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành
việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Nhà
trường phải gắn bó với cha mẹ học sinh, phải gắn bó với cộng đồng, với xã
hội, phải thể hiện được tư tưởng của nhân dân, do dân, vì dân. Chỉ có như
5


vậy, nhân dân mới chăm lo cho nhà trường và mới huy động được nhân dân
đóng góp trí tuệ, công sức, tiền của để phát triển giáo dục.
Học sinh trung học phổ thông ở độ tuổi 15-18, đây là giai đoạn chuẩn
bị để đi vào cuộc sống. Các em không chỉ hoạt động ở trường mà còn ở gia
đình và ngoài xã hội. Hoạt động của các em phong phú và phức tạp hơn học
sinh trung học cơ sở. Các em là những nhân cách đang vươn lên để trở thành
người công dân tốt cho xã hội. Các em là đối tượng mang đặc thù của lứa
tuổi, vừa là chủ thể của giáo dục đạo đức. Học sinh THPT đã có đầy đủ các

điều kiện cơ bản về nhận thức, ý chí, hoạt động để biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, quyết định kết quả phát triển Tài, Đức của cá nhân.
Tuy nhiên với kinh nghiệm và vốn sống chưa nhiều, học sinh THPT dễ chao
đảo trong hành vi hoạt động của mình. ở lứa tuổi này có nhiều sự phức tạp về
tính cách và hành vi do tác động đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội đến
nhân cách đang trưởng thành. Không ít các em thờ ơ với quá khứ, có hướng
thực dụng, đua đòi cái mới, chạy theo thị hiếu tầm thường, dễ bị sa đà, cám dỗ
cuốn hút vào các tệ nạn xã hội phản giá trị đạo đức của xã hội...Vì vậy chúng
ta phải nắm vững đặc điểm nhân cách, tâm sinh lý lứa tuổi để đưa ra những
biện pháp hữu hiệu nhất đảm bảo sự thành công của công tác giáo dục nói
chung và giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống nói riêng. Các em cần
được sự quan tâm, dìu dắt của thầy cô, gia đình và cả cộng đồng.
Giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường THPT nhằm mục đích
hình thành nhân cách cho học sinh, cung cấp cho học sinh những tri thức cơ
bản về các phẩm chất đạo đức và chuẩn mực đạo đức, hoàn thiện nhân cách
con người. Đức và tài là hai mặt cơ bản hợp thành trong một cá nhân, giáo
dục đạo đức là một phần quan trọng không thể thiếu trong hoạt động giáo dục.
Chủ tich Hồ Chí Minh đã dạy: “ Có tài mà không có đức là người vô dụng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, Người đặc biệt nhấn mạnh vai
6


trò của đạo đức và luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong công tác
giáo dục đào tạo, Người cho rằng: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều
do giáo dục mà nên”.
Vì vậy cần tăng cường giáo dục đạo đức, tư tưởng, lòng yêu nước, tổ
chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa, thể thao phù hợp
với lứa tuổi và với yêu cầu của giáo dục toàn diện. Đất nước ta đang trong
công cuộc đổi mới và xu thế toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập, hợp tác quốc tế.
Sự phồn vinh của đất nước và sự phát triển của xã hội đang trông cậy vào thế

hệ học sinh hôm nay. Bên cạnh những thuận lợi ấy thì những thói hư tật xấu,
cung cách ứng xử, lối sống thực dụng, chỉ thích hưởng thụ đang tác động làm
ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách học sinh, làm cho một bộ phận học sinh
xuất hiện lối sống ích kỷ, ý thức kỷ luật kém, không chú ý học tập, hư hỏng,
phạm pháp. Chính vì vậy, giáo dục phải xây dựng những con người có đạo
đức trong sáng, có ý chí kiên cường, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
dân tộc, có năng lực tiếp thu văn hóa nhân loại.
Trên địa bàn thành phố Bắc Ninh trong các THPT thông những hành vi
đáng báo động là trốn học, gian lận thi cử, đánh nhau, trộm cắp vặt, thiếu tôn
trọng thầy cô giáo…đặc biệt là tình trạng đánh nhau trong học sinh ngày càng
nhiều, không chỉ ở học sinh nam mà còn có ở học sinh nữ, có chiều hướng gia
tăng đáng lo ngại, nhất là trong các trường THPT, trở thành mối quan tâm lo
lắng của gia đình, nhà trường và là nỗi trăn trở của cộng đồng, ảnh hưởng đến
đời sống văn hóa xã hội.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Bắc Ninh đạo đức của học sinh THPT
là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm, lo lắng của nhiều gia đình như: nghiện
game, internet, ma túy, việc mang thai ở tuổi vị thành niên, ý thức rèn luyện
chưa tốt, đua đòi, bạo lực học đường... đặc biệt tháng 4/2013 thành phố xảy ra
7


sự việc nữ sinh THPT đâm trọng thương bạn học, tháng 5/2016 xuất hiện
đoạn vi deo ghi lại cảnh hai nữ sinh THPT đánh nhau, tại xã Văn Môn, huyện
Yên Phong. Sở giáo dục và đào tạo và chính quyền các cấp trong thành phố
Bắc Ninh đã có nhiều chương trình, kế hoạch và đề ra nhiều biện pháp để giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT cho các trường trên địa bàn thành phố, đạt
được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT vẫn còn những hạn chế, chưa đi vào chiều sâu, nếu như đề ra được
những biện pháp giáo dục thiết thực hơn, phù hợp hơn cho học sinh THPT thì
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT sẽ hiệu quả hơn. Với lý do trên

tác giả chọn đề tài: “Huy động các nguồn lực cộng đồng trong giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc
Ninh” để nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên ngành giáo dục
và phát triển cộng đồng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về giáo dục đạo đức cho học sinh THPT,
về huy động nguồn lực cộng đồng tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT; đánh giá thực trạng huy động nguồn lực giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT thuộc địa bàn thành phố Bắc Ninh, luận văn đề xuất các biện pháp
huy động các nguồn lực trong cộng đồng tham gia giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động huy động các nguồn lực cộng đồng
tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.

8


3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp huy động các nguồn lực cộng
đồng tham gia giáo dục đạo đức học sinh THPT trên địa bàn thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Nªu các biện pháp huy động các nguồn lực cộng đồng giáo dục đạo
đức cho học sinh THPT, tập trung vào giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.
Nâng cao nhận thức về huy động cộng đồng tham gia công tác giáo dục,
phối hợp các lực lượng xã hội trong huy động cộng đồng, hoàn thiện cơ chế
điều hành phối hợp giữa các lực lượng xã hội tham gia công tác giáo dục đạo
đức học sinh THPT, nâng cao vai trò quản lý, tạo ra môi trường giáo dục thực
sự dân chủ và lành mạnh, huy động, quản lý các nguồn lực cho sự phát triển

giáo dục đạo đức đạo đức học sinh THPT cả về quy mô và chất lượng,... thì
có thể đẩy mạnh được công tác huy động cộng đồng tham gia giáo dục đạo
đức học sinh THPT, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh
THPT trên địa bàn thành phố.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa vấn đề lý luận về huy động cộng đồng tham gia giáo dục
đạo đức học sinh THPT.
5.2. Khảo sát thực trạng huy động cộng đồng tham gia giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT trên địa bàn thành phố Bắc Ninh.
5.3. Đề xuất các biện pháp huy động cộng đồng tham gia giáo dục đạo đức
học sinh THPT.
5.4. Khảo nghiệm mức cần thiết và tính khả thi của các biện pháp.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu

9


6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp
huy động các nguồn lực cộng đồng tham gia giáo dục đạo đức học sinh
trường THPT.
6.2. Giới hạn về đối tượng khảo sát: Đề tài đề cập đến các chủ thể như: lãnh
đạo nhà trường; cán bộ quản lý, giáo viên; phụ huynh học sinh; các em học
sinh trường THPT.
6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu khảo sát ở các
trường THPT trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
7. Phương pháp nghiên cứu
+ Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu giúp hệ thống hóa các vấn đề lý luận đề tài.
- Phương pháp khảo sát thực trạng, như: Điều tra bằng bảng hỏi để thu
thập thông tin; phương pháp phỏng vấn; phương pháp xin ý kiến chuyên gia;

phương pháp quan sát.
- Phương pháp luận khoa học quản lý giáo dục, thống kê, phân tích, so sánh,
khảo nghiệm.
8 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và các
phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về huy động các nguồn lực trong cộng đồng
tham gia giáo dục đạo đức học sinh trường trung học phổ thông.
Chương 2. Thực trạng công tác huy động các nguồn lực cộng đồng
tham gia giáo dục đạo đức học sinh trường trung học phổ thông thành phố
Bắc Ninh.
10


Chương 3. Biện pháp huy động các nguồn lực cộng đồng tham gia giáo
dục đạo đức học sinh của các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh.

11


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC TRONG CỘNG
ĐỒNG THAM GIA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Khái niệm huy động các nguồn lực cộng đồng thường được hiểu là một
bộ phận, một hoạt động của xã hội hoá giáo dục. Quan điểm của Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước ta về sự tham gia của gia đình và xã hội vào sự
nghiệp giáo dục là nền tảng cho việc thực hiện XHHGD. Huy động các nguồn

lực cộng đồng tham gia giáo dục là cốt lõi của quan điểm giáo dục là sự
nghiệp của toàn xã hội. Huy động cộng đồng đã có sức sống tiềm tang trong
truyền thống giáo dục của nhân dân ta suốt chiều dài lịch sử. Tư tưởng dân là
gốc, “lấy dân làm gốc” đã được kết tinh truyền thống và lưu thành bản sắc
độc đáo của dân tộc Việt Nam “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”
Vấn đề huy động các nguồn lực cộng đồng để đầu tư cho giáo dục thực
chất là vấn đề tăng cường XHHGD, vấn đề này đã được nhiều sách báo đề
cập, ở nước ta đã có một số nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục nghiên cứu
lĩnh vực này. Tuy nhiên, vẫn còn ít nghiên cứu tập trung vào vấn đề huy động
các nguồn lực cộng đồng. Do đó, cần thiết phải xem xét huy động các nguồn
lực cộng đồng từ góc độ khoa học quản lý giáo dục để làm rõ mối quan hệ
giữa huy động các nguồn lực cộng đồng và XHHGD, các biện pháp huy động
các nguồn lực cộng đồng và cải tiến quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của các biện pháp huy động các nguồn lực cộng đồng tham
gia xây dựng và phát triển giáo dục.

12


Tuy nhiên ở mỗi tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã có điều kiện địa
lý, đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau, nên hoạt động huy động các nguồn lực
cộng đồng tham gia xây dựng giáo dục và việc vận dụng những phương pháp
huy động nguồn lực cũng mang những sắc thái riêng, đặc trưng cho địa
phương đó.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo dục
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo,

hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thông qua tự học [3]. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể
được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn
như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục
đại học.
Trong tiếng Việt, "giáo" có nghĩa là dạy, "dục" có nghĩa là nuôi (không
dùng một mình); "giáo dục" là "dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí-dục, đức-dục, thểdục."[4]
1.2.2. Cộng đồng
Cộng đồng được hiểu là tập hợp người có sự tương tác với nhau, có sợi
dây kết nối, chung lịch sử hình thành, có chung địa bàn sinh sống, có cùng
luật lệ và quy định hay tập hợp những người có cùng những đặc điểm tương
tự về kinh tế - xã hội và văn hoá.

13


Cũng có quan niệm khác, cộng đồng là một nhóm người có chung sở
thích và lợi ích, có chung địa bàn sinh sống, có chung ngôn ngữ (hoặc loại
ngôn ngữ) và có những đặc điểm tương đồng.
Hiện nay ở nước ta, thuật ngữ cộng đồng đã được sử dụng khá phổ biến
trong đời sống kinh tế xã hội. Cộng đồng có thể là một nhóm nhỏ dân cư (ví
dụ như cộng đồng dân cư ở một thôn, xã, cộng đồng những người tái chế chất
thải của một thôn, một xã…) hoặc có thể là cộng đồng dân cư của một dân
tộc, nhiều dân tộc cùng chung các điểm tương đồng (cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài, cộng đồng các nước ASEAN…)
1.2.3. Huy động cộng đồng
Huy động cộng đồng là quá trình huy động các cá nhân và tập thể
(không phân biệt giai tầng, ý thức hệ, khoảng cách địa lí…) bằng nhiều giải
pháp và cách thức khác nhau, để thu hút và kéo các nguồn lực xã hội ấy về

với giáo dục, đồng thời thúc đẩy phát triển của sự nghiệp giáo dục đào tạo ở
từng cơ sở và từng địa phương nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hóa giáo dục.
Huy động cộng đồng tham gia giáo dục đạo đức học sinh của các trường
Trung học phổ thông. Nhà trường chủ động huy động sự tham gia của cộng
đồng gồm các cá nhân, gia đình và cơ quan, tổ chức trong xã hội vào quá trình
phát triển giáo dục.
1.2.4. Nguồn lực
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ
thống tài sản quốc gia, hệ thống chính trị, nguồn nhân lực, vốn và thị trường ở
cả trong và nước ngoài có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát
triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nhất định.
+ Từ khái niệm trên, căn cứ vào phạm vi nhà trường ta có thể phân chia
nguồn lực làm hai loại:
14


- Nguồn lực trong nhà trường (nguồn nội lực): tiềm tàng ẩn chứa ngay
trong nhà trường. Bao gồm: con người, trang thiết bị, cơ sở vật chất, vị thế, uy
tín, chất lượng, thương hiệu của trường…
- Nguồn lực ngoài nhà trường (nguồn ngoại lực): bao gồm nguồn lực
trong và ngoài thành phố (có ở trong và ngoài nước). Các nguồn lực này bao
gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực phi vật chất.
+ Căn cứ vào tính chất, hình thức biểu hiện có thể phân biệt hai loại
nguồn lực sau đây:
- Nguồn lực vật chất như: quỹ đất, vị thế địa lý, cơ sở hạ tầng, các
nguồn vốn tài chính, các nguyên liệu và các tiềm năng kinh tế…
- Nguồn lực phi vật chất: con người, sự ổn định và vững mạnh của hệ
thống chính trị, những thành quả về kinh tế, chính trị văn hóa xã hội và giáo
dục, những chủ trương giải pháp, sự đồng tình ủng hộ của người dân, các tổ
chức đoàn thể với giáo dục, trình độ nhận thức dân trí, kinh nghiệm làm giáo

dục.
Nguồn nội lực được khai thác, phát huy sẽ có tác động mạnh để thu hút
nguồn ngoại lực, làm cho nguồn nội lực mạnh thêm lên. Nguồn nội lực càng
mạnh thì càng thu hút được nhiều hơn nguồn ngoại lực và ngược lại nguồn
ngoại lực càng dồi dào là cơ sở thuận lợi cho sự tăng trưởng của nguồn nội
lực. Nguồn nội lực là cơ sở cho sự khai thác và huy động các nguồn lực xã
hội. Hai nguồn lực này đều là động lực cho sự phát triển giáo dục, phát triển
nhà trường. Cả hai nguồn lực trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện
cho nhau phát triển. Tất cả tạo nên nguồn lực xã hội to lớn mà ta cần huy
động và thu hút các nguồn lực này về với nhà trường, về với giáo dục. Nguồn
ngoại lực có thể có trong và ngoài nước.

15


Nguồn lực nước ngoài bao gồm: khoa học kỹ thuật và công nghệ,
nguồn vốn, kinh nghiệm về tổ chức và quản lý sản xuất. Nguồn lực nước
ngoài có vai trò quan trọng, thậm chí đặc biệt quan trọng đối với nhiều quốc
gia đang phát triển ở những giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặc dù có vai trò khác
nhau, nhưng giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Đây là mối quan hệ hỗ trợ, hợp tác, bổ sung cho nhau
trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng độc lập chủ quyền của
nhau. Xu thế chung là các quốc gia cố gắng kết hợp nguồn lực trong nước với
nguồn lực nước ngoài thành sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục...
Nguồn lực bao gồm các nguồn lực vật chất, phi vật chất, có cả ở trong
và ngoài nhà trường. Các nguồn lực này không phải là bất biến mà luôn được
điều chỉnh và thay đổi theo không gian và thời gian. Vấn đề là khai thác, huy
động và sử dụng các nguồn lực như thế nào để thúc đẩy sự phát triển của nhà
trường, của giáo dục.

Nhà trường đang đứng trước những nhiệm vụ và thách thức mới đòi hỏi
chúng ta phải biết huy động và phát huy mọi nguồn lực xã hội, đã hiện hữu
cũng như đang tiềm tàng trong và ngoài trường.
- Nguồn lực tài chính: các nguồn lực tài chính cho giáo dục đào tạo
được tạo ra từ việ phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm quốc dân, chủ
yếu được phân phối từ quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng.
Tất cả các nguồn vốn cho giáo dục gồm hai nguồn sau:
+ Nguồn vốn trong ngân sách nhà nước (ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương)
+ Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, nguồn vốn này được hình
thành từ: Sự đóng góp của các tổ chức kinh tế xã hội; Hoạt động nghiên cứu
16


khoa học và lao động sản xuất tạo ra; Nguồn vốn tài trợ, viện trợ của nước
ngoài (của nhà nước, của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, kiều bào ở
nước ngoài…); Sự đóng góp của dân.
Trong hai nguồn trên, nguồn ngân sách nhà nước chiếm vị trí quan
trọng vì:
- Là nguồn tài chính cơ bản, to lớn và ổn định duy trì và phát triển hệ
thống giáo dục đào tạo theo định hướng của Đảng và Nhà nước xác định.
- Giải quyết những vấn đề thuộc chính sách của xã hội, của giáo dục
đào tạo (vấn đề giai cấp và dân tộc, các đối tượng chính sách, các chính sách
xã hội khác…)
- Giải quyết những vấn đề phát triển giáo dục đào tạo và những nhu cầu
xã hội phát triển mà các thành phần kinh tế xã hội khác không thực hiện được.
Nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước chiếm vị trí hết sức quan trọng,
nhằm bổ sung những thiếu hụt của ngân sách giáo dục đào tạo và đáp ứng nhu
cầu giáo dục đa dạng của kinh tế xã hội.
Nói tới vấn đề nguồn lực, huy động cộng đồng có thể được hiểu là việc

thu hút cộng đồng tham gia đóng góp các nguồn lực khác nhau, vật chất và
tinh thần cho nhà trường để đảm bảo cho nhà trường thực hiện đầy đủ với
chất lượng cao các mục tiêu giáo dục đề ra.
1.2.5. Huy động các nguồn lực cộng đồng
Huy động các nguồn lực cộng đồng, có thể hiểu là huy động những
nguồn lực về nhân lực, vật lực, tài chính, thông tin của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội để thực hiện hay phát triển mục tiêu, chương trình, kế hoạch của
một ngành, lĩnh vực nào đó.
1.2.6. Giáo dục đạo đức
17


Giáo dục đạo đức là một quá trình tác động có mục đích có kế hoạch
của nhà giáo dục đến học sinh nhằm hình thành và bồi dưỡng cho các em thế
giới quan khoa học nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, hành vi và thói quen
đạo đức, những nét tính cách của con người mới phù hợp với mục tiêu giáo
dục.
1.2.7. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Đối với trường THPT giáo dục đạo đức tiếp tục hình thành các chuẩn
mực hành vi, các nét phẩm chất đạo đức vững chắc, giúp học sinh có ý thức
về chuẩn mực hành vi, về công việc mình làm, có thái độ đứng đắn và có
hành vi thói quen đạo đức tương ứng.
1.3. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
1.3.1. Vị trí, vai trò giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Đạo đức của thế hệ trẻ không chỉ là vấn đề của một đất nước mà là vấn
đề mang tính toàn cầu của thời đại, là điều kiện quan trọng để bảo vệ sự sống
còn và tương lai của loài người.
Giáo dục đạo đức có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhân
cách thế hệ trẻ (cụ thể về mặt đạo đức) tạo cở sở để họ ứng xử đúng đắn trong
các mối quan hệ của các nhân với bản thân, với người khác (gia đình, bạn bè,

thầy cô, người lớn tuổi và ít tuổi) với xã hội làm cho họ nắm được (thể hiện
trong nhận thức và hành động) các mối quan hệ đạo đức mới là các mối quan
hệ thể hiện sự hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của xã hội.
Giáo dục đạo đức giúp học sinh có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp và
bền vững, có được bản lĩnh đạo đức để ứng xử đúng trong các mối quan hệ
đạo đức.

18


Giáo dục đạo đức là cơ sở hình thành con người luôn luôn tôn trọng
người khác, luôn luôn phấn đấu, bảo vệ, xây dựng một nền văn hoá giàu tính
con người, một xã hội và một đất nước dân chủ giàu mạnh hạnh phúc và bình
đẳng.
Đạo đức là cái gốc của con người mới, là mặt giáo dục rất quan trọng
trong nội dung giáo dục toàn diện, là cơ sở để nâng cao các mặt giáo dục
khác.
Giáo dục đạo đức giữ vai trò là yếu tố hàng đầu trong toàn bộ hoạt động
giáo dục trong nhà trường. Vì vậy giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm
không thể thiếu được trong quá trình giáo dục.
1.3.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT đảm bảo các nội dung sau:
+ Giáo dục ý thức đạo đức:
- Giáo dục ý thức đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức
đạo đức cơ bản về các chuấn mực hành vi trên cơ sở đó hình thành niềm tin
đạo đức. Các chuẩn mực hành vi này được xác định từ các phẩm chất đạo
đức, lòng yêu nước, lòng nhân ái, thái độ đối với lao động, tinh thần tập thể,
tính kỷ luật. Chúng phản ánh các mối quan hệ hàng ngày của các em. Đó là:
- Quan hệ cá nhân với xã hội, tôn kính quốc kỳ, quốc ca, kính yêu Bác
Hồ, tự hào về đất nước và con người Việt Nam, biết ơn những thương binh

liệt sỹ, các chiến sỹ quân đội, công an, yêu quê hương làng xóm, phố phường
của mình, yêu mến và tự hào về trường lớp, giữ gìn môi trường xung quanh,
bảo vệ các di tích lịch sử văn hoá do ông cha để lại.
- Quan hệ cá nhân với công việc, lao động: Trước hết là chăm chỉ, kiên
trì vượt khó trong học tập, học tập có phương pháp tốt, tích cực tham gia các
19


công việc lao động khác nhau (Lao động tự phục vụ, lao động sản xuất, lao
động lợi ích xã hội...)
- Quan hệ cá nhân với những người xung quanh: Đầu tiên là lòng hiếu
thảo với ông bà, cha mẹ, quan tâm giúp đỡ anh chị em trong gia đình, kính
trọng và biết ơn thầy cô giáo tôn trọng, giúp đỡ đoàn kết với bạn bè, tôn
trọng và giúp đỡ hàng xóm, láng giềng, phụ nữ, cụ già, em nhỏ, người tàn
tật... theo khả năng của mình.
- Quan hệ cá nhân với tài sản xã hội, tài sản của người khác, tôn trọng
và bảo vệ tài sản của nhà trường (trường lớp, bàn ghế, dụng cụ lao động, đồ
thí nghiệm...) của nhà nước (nhà cửa, máy móc, hàng hoá...) các di tích lịch
sử, văn hoá, những nơi công cộng, của người khác (thư từ, đồ đạc...)
- Quan hệ cá nhân với bản thân: Khiêm tốn, thật thà, bạo dạn.
- Đối với từng chuẩn mực hành vi đạo đức cần giúp học sinh hiểu yêu
cầu của chuẩn mực (học sinh phải thực hiện điều gì, làm gì?)
- Ý nghĩa tác dụng của việc thực hiện chuẩn mực hành vi đạo đức (việc
thực hiện chuẩn mực mang lại lợi ích, tác dụng gì? nêu không thực hiện mà
làm trái thì có tác hại gì?)
- Cách thực hiện chuẩn mực đó (Để thực hiện chuẩn mực cần làm
những công việc gì, thực hiện như thế nào?)
- Những tri thức đạo đức này giúp các em phân biệt được cái đúng, cái
sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác... Từ đó các em sẽ làm theo cái đúng, ủng
hộ cái tốt, tán thành cải thiện và đấu tranh phê phán, tránh cái sai, cái xấu, cái

ác. Ý thức đạo đức đúng đắn có tác dụng định hướng cho thái độ, tính cảm
hành vi đạo đức.
+ Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức
20


- Đời sống tinh thần của con người nói chung hay trẻ em nói riêng sẽ
trở nên khô cứng, trống rỗng nếu không biết yêu, biết ghét, không có cảm xúc
mà ngược lại thờ ơ với những người xung quanh, với công việc, với thiên
nhiên... trái lại ở những người có tình cảm đạo đức chân chính họ rất dễ hoà
đồng với những người xung quanh, đời sống, tinh thần trở nên phong phú,
cuộc sống vui tươi hơn, công việc có hiệu quả hơn....vì vậy , giáo dục tình
cảm đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đồng thời rất
khó khăn đòi hỏi sự tinh tế bởi vì phải tác động đến thế giói nội tâm, thế giới
của những cảm xúc của học sinh.
- Giáo dục thái độ tình cảm đạo đức cho học sinh là thức tỉnh những
rung động, những cảm xúc đối với hiện thực xung quanh (những người xung
quanh, công việc, tập thể...) làm cho chúng biết yêu biết ghét rõ ràng, có thái
độ đứng đắn đối với các hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội và tập
thể... thái độ thờ ơ, lãnh đạm là “sản phẩm” xấu không mong muốn của giáo
dục tình cảm.
+ Những thái độ tình cảm cần giáo dục cho học sinh trung học là:
- Kính yêu, biết ơn ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em, kính trọng lễ phép,
biết ơn thầy cô giáo, tôn trọng và yêu mến bạn bè. Kính yêu Bác Hồ, biết ơn
thương binh, liệt sỹ, yêu trường mến lớp, yêu quê hương làng xóm...
- Chăm học, chăm làm, yêu lao động.
- Yêu thiên nhiên và có thái độ giữ gìn vẻ đẹp môi trường xung quanh.
- Có lòng tự trọng, khiêm tốn học hỏi, trung thực.Có thái độ ủng hộ, đồng
tình, tán thành với những tấm gương, việc làm tốt, phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức, ngược lại có thái độ lên án phê phán những ai có hành động sai

trái có hại cho người khác, xã hội, cộng đồng. Tình cảm tích cực được hình
thành dựa vào ý thức đúng đắn và được củng cố khẳng định qua hành vi,
21


ngược lại nó có tác dụng thúc đẩy, tạo động cơ cho việc nhận thức chuẩn mực
thực hiện hành vi đạo đức.
+ Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức:
- Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức là tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại
nhiều lần những thao tác hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt, cuộc
sống nhằm có được hành vi đạo đức đúng đắn và từ đó có thói quen đạo đức
bền vững.
- Các hành vi thói quen đạo đức cần hình thành cho học sinh là:
- Giúp đỡ ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình. Lễ phép với
người lớn (ông bà, cha mẹ, anh chị em, thầy cô giáo...)
- Có những việc làm giúp đỡ thầy cô giáo, bạn bè, hàng xóm láng
giềng, cụ già, em nhỏ, người tàn tật.
- Có những việc làm nhân đạo đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ,
bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ người gặp thiên tai, khó khăn.
- Có những hành động, việc làm bảo vệ trường lớp, tài sản công cộng,
thiên nhiên, đồ đạc người khác.
- Cần giáo dục hành vi văn hoá cho học sinh tức là hành vi không
những “đúng” về mặt đạo đức mà còn đẹp về thẩm mỹ.
Ba nội dung giáo dục đạo đức trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
cần được thể hiện đồng bộ. Cũng được thể hiện thông qua dạy học các môn
học, việc tổ chức các hoạt động ngoài giừo lên lớp, việc tổ chức thực hiện các
nội quy, quy chế, điều lệ tấm gương của giáo viên, phối hợp các lực lượng
giáo dục.
1.3.3. Hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông

22


Hình thức giáo dục đạo đức phải đổi mới theo hướng linh hoạt, phù
hợp, hiệu quả: dạy học theo lớp, theo nhóm và cá nhân, ở trong lớp, ngoài lớp
và ngoài trường; tăng cường các hoạt động sinh hoạt tập thể, câu lạc bộ, công
tác đoàn, đội của học sinh; tăng cường thực hành, rèn luyện kỹ năng trong các
tình huống cụ thể của đời sống. Chính thông qua các hoạt động tập thể giúp
học sinh vươn lên tự hoàn thiện mình: “Chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới
có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu
của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân” (C.MácĂngghen toàn tập (1995), tập 12)
Các hình thức kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập đối với giáo dục
đạo đức cần phải hướng tới phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Do
vậy, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh cần thực hiện trong
quá trình dạy học/giáo dục, không chỉ dừng lại ở điểm số các bài kiểm tra
thường xuyên và định kỳ, mà còn chủ yếu dựa vào những nhận định, nhận xét
cụ thể, thường xuyên dựa trên các biểu hiện về năng lực nhận thức, thái độ,
các hành vi ứng xử trong toàn bộ quá trình các hoạt động học tập, sinh hoạt
của học sinh ở nhà trường, ở nhà và ở cộng đồng. Từ các nhận định đó, cần
coi trọng việc động viên, khích lệ những cố gắng, tiến bộ, góp ý sửa chữa các
thiếu sót, vượt qua các trở ngại về tâm lý của học sinh theo phương châm
đánh giá vì sự tiến bộ của các em. Việc ra đề kiểm tra cần gắn với việc xây
dựng ma trận câu hỏi; nội dung đề kiểm tra từng bước gắn với việc vận dụng
kiến thức vào thực tiễn…
Mỗi môn học, mỗi hoạt động giáo dục đều chứa đựng khả năng giáo
dục đạo đức riêng vì vậy đỏi hỏi người quản lý phải chỉ đạo chặt chẽ các tổ
chuyên môn, quán triệt yêu cầu giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục.

23



Trong các tiết học cần giáo dục cho các em ý thức nghiêm túc nghe giảng,
xây dựng bài và ghi chép bài, thực hiện tốt nội quy của giờ học để đạt kết quả
tốt. Tức là giáo dục cho các em ý thức làm việc của người lao động mới.
Cung cấp cho học sinh những tri thức đạo đức (hiểu biết về đạo đức, về
thái độ phải có, về nhiệm vụ bổn phận phải làm) là cần thiết là một khâu quan
trọng trong giáo dục đạo đức trong nhà trường thông qua các giờ học giáo dục
công dân, học sinh sẽ được trang bị những tri thức về đạo đức một cách khái
quát và hệ thống. Vốn tri thức này giúp học sinh có cơ sở đúng đắn để nhận ra
và phân biệt giữa hiện tượng đạo đức và hiện tượng phi đạo đức biểu hiện
muôn hình vạn trạng xung quanh mình hàng ngày, và từ đó giúp các em tăng
thêm tính tự giác trong hành vi đạo đức của mình.
Thông qua môn Văn, Sử khơi dậy lòng tự hào dân tộc Việt Nam, làm
cho học sinh hiểu được truyền thống, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc, khắc
vào trí nhớ của học sinh những tình cảm cách mạng và những thành tựu của
dân tộc ta trong sản xuất, chiến đấu, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Dạy các môn khoa học tự nhiên là giáo dục cho học sinh tính chính xác
về thời gian và không gian, đi đôi với phương pháp suy nghĩ biện chứng, lô
gích, tránh lối suy luận máy móc, thoát ly thực tế. Như bác Phạm Văn Đồng
đã nói “...Chúng ta đừng có tách giữa đạo đức và trí dục đến trình độ nào đó,
trí thức với tư tưởng đạo đức với trí dục là một... Trí thức phải đi đến đức dục
là kết quả tất yếu của sự hiểu biết” (Phạm Văn Đồng - Nghiên cứu giáo dục
số 4 - 11 - 1969)
Thông qua việc thực hiện tốt yêu cầu về tính giáo dục đạo đức
trong các môn học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội. Chúng sẽ góp phần
quan trọng trong hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan xã hội chủ

24



nghĩa cho học sinh, làm cơ sở rộng rãi vững chắc cho đạo đức xã hội chủ nghĩa ở
các em.
Đảm bảo yêu cầu giáo dục đạo đức là một yêu cầu cơ bản tiêu chuẩn
đánh giá giờ dạy đánh giá hoạt động và đánh giá giáo viên.
Chủ động kiểm tra và dựa vào các lực lượng (nhất là tổ trưởng tổ chuyên
môn) để kiểm tra và chỉ đạo kịp thời.
- Cộng tác với giáo viên chủ nhiệm
Cộng tác trong việc điều tra, xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động theo
chủ điểm, dạy theo chuyên đề. Trao đổi kinh nghiệm giáo dục đạo đức trong
nhóm giáo viên chủ nhiệm. Cùng giáo viên chủ nhiệm xem xét hạnh kiểm và
ký duyệt học bạ tay đôi. Thường xuyên nắm bắt thông tin về học sinh, đặc
biệt là học sinh cá biệt từ các giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp kịp thời
uốn nắn những sai lệch.
- Cộng tác với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường
Cộng tác với Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên, Hội chữ thập
đỏ nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh cùng giáo dục đạo đức học sinh.
Nhanh chóng kiện toàn các tổ chức Đoàn, Hội sinh hoạt đều đặn theo chủ đề,
đẩy mạnh các hoạt động tập thể giáo dục và rèn luyện học sinh.
Xây dựng và phát huy hiệu quả của các trung tâm tư vấn tâm lý học
đường trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho các em.
Thông qua hệ thống phát thanh truyền hình, bản tin nội bộ, cung cấp
cho học sinh các thông tin cần thiết, tổ chức các hoạt động, giáo dục truyền
thống vào dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn hàng năm.

25


×