Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nâng cao vai trò của người phụ nữ trong đời sống xã hội ở TP cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN KIM PHƯỢNG

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN KIM PHƯỢNG

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRẦN ĐĂNG SINH

HÀ NỘI, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi! Các số liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; những kết luận
mới về khoa học trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình
nào, nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Kim Phượng


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến
PGS, TS Trần Đăng Sinh, người đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô Phòng Sau đại học,
Khoa Triết học - Trường Đại Sư phạm Hà Nội và các thầy cô thỉnh giảng đã nhiệt
tình giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, thực hiện đề tài.
Cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình, tất cả bạn bè,
đồng nghiệp, nhất là đồng nghiệp tại Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Cần Thơ và
Hội phụ nữ các quận, huyện trên địa bàn thành phố đã luôn quan tâm, khích lệ và
chia sẻ kinh nghiệm để em hoàn thành tốt luận văn này, cũng như trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Kim Phượng



MỤC LỤC

Trang
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH
MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn

9

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luận văn

10

5. Giả thuyết khoa học


10

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

10

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn

10

8. Phương pháp nghiên cứu

10

9. Kết cấu luận văn

10

10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn

11

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO VAI

12

TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở THÀNH
PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận


12

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

12

1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

16

và đường lối, chủ chương của Đảng về phụ nữ
1.2. Cơ sở thực tiễn

24

1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao vai trò của phụ nữ

24


ở thành phố Cần Thơ hiện nay
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của phụ nữ ở thành phố Cần

37

Thơ hiện nay
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI

49


TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở CẦN THƠ
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng việc nâng cao vai trò của phụ nữ Cần Thơ trong

49

đời sống xã hội ở thành phố Cần Thơ hiện nay
2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc nâng cao vai trò của phụ

49

nữ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và tư tưởng ở
thành phố Cần Thơ hiện nay
2.1.2. Những hạn chế trong việc nâng cao vai trò của phụ nữ

68

trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tư tưởng ở thành
phố Cần Thơ hiện nay
2.1.3. Những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế

71

2.2. Giải pháp nâng cao vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội

75

ở thành phố Cần Thơ hiện nay
2.2.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của phụ nữ


75

2.2.2. Tăng cường hơn nữa vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực của

76

đời sống xã hội
2.2.3. Thường xuyên tổ chức học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ

79

văn hóa, lý luận chính trị, nghiệp vụ chuyên môn cho đối tượng nữ
2.2.4. Có chính sách cụ thể, thiết thực đảm bảo quyền lợi chính đáng

81

của phụ nữ thành Phố cần thơ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
KẾT LUẬN

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH
Số
TT


Tên bảng, biểu đồ, hình

Trang

1

Bảng 1: Tổng hợp điều tra về “việc đảm nhận công việc nội

40-41

trợ của phụ nữ trong gia đình công nhân, viên chức, lao
động nước ta”
2

Bảng 2: Lực lượng lao động nữ tham gia sản xuất, kinh

49

doanh
3

Bảng 3: Bảng tổng hợp hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể giai

50

đoạn 2012 - 2017
4

Biểu đồ 1: Biểu đồ so sánh tỷ lệ % phụ nữ tham gia Quốc


55

hội và Hội đồng nhân dân các cấp giữa nhiệm kỳ 2011 - 2016
và nhiệm kỳ 2016 - 2021
5

Biểu đồ 2: Biểu đồ so sánh tỷ lệ % phụ nữ tham gia Ban

55

Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và khóa XII
6

Bảng 4: Bảng tổng hợp tỷ lệ % phụ nữ tham gia cấp ủy các

56

cấp nhiệm kỳ 2010 - 2015 và nhiệm kỳ 2015 - 2020
7

Bảng 5: Số lượng nữ vận động viên đẳng cấp cao của Việt
Nam năm 2016

61



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo thống kê của Tháp dân số năm 2016, phụ nữ Việt Nam chiếm gần

50,6% dân số và chiếm phần lớn trong lực lượng lao động, là lực lượng sản xuất
quan trọng với 48,3% lực lượng lao động toàn xã hội [23, tr.6]. Hiện nay, theo
thống kê của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ, “tỷ lệ nữ nước ta tốt nghiệp đại
học chiếm 36,24%, thạc sỹ 33,95%, tiến sỹ 25,69% trong tổng số người tốt nghiệp
đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, nữ trí thức chiếm
42,2%, do đặc thù về giới, phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như: giáo dục,
y tế; trong chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông trong các lĩnh vực: văn học, ngôn
ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kinh tế”, nếu xét theo thành
phần kinh tế có “43,3% nữ trí thức làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước,
32% làm việc trong thành phần kinh tế tập thể, riêng trong thành phần kinh tế ngoài
nhà nước nữ trí thức chiếm tỷ lệ 53%” [69, tr.1].
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, được sự quan tâm chăm
sóc của Nhà nước, sự dìu dắt của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ các cấp và các đoàn thể
quần chúng khác, các tầng lớp phụ nữ đã trưởng thành nhanh chóng và góp phần to
lớn vào thắng lợi của dân tộc. Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, việc
nâng cao vai trò, năng lực của con người nói chung và phụ nữ nói riêng ngày càng
trở nên quan trọng và cấp thiết. Có thể thấy, sự đổi mới về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội gắn liền với sự thay đổi cơ bản vai trò của người phụ nữ trên nhiều lĩnh
vực của cuộc sống, trong gia đình, ngoài xã hội. Vượt qua biết bao khó khăn trong
sản xuất và đời sống, các tầng lớp phụ nữ đã nêu cao tinh thần làm chủ tập thể và ý
chí phấn đấu kiên cường, bền bỉ, tích cực tham gia vào việc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta
đang ra sức đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không chỉ hoàn
1


thành nghĩa vụ công dân, người phụ nữ còn phải làm tốt vai trò người vợ, người
mẹ, người con trong gia đình, có trách nhiệm cao trong việc gìn giữ những giá trị
truyền thống văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, 50 % lực lượng lao động này ở một số

nơi vẫn chưa phát huy hết tiềm năng. Thành phố Cần Thơ, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, người phụ nữ vẫn chưa được thực sự bình đẳng cùng nam
giới, mà còn bị bạo hành, ngược đãi, cuộc sống khổ cực, vai trò của họ trong xã hội
còn thấp, thể hiện còn mờ nhạt. Ngoài ra, nhiều gia đình sống trong cảnh kinh tế
khó khăn, vợ chồng bất đồng quan điểm, con cái không được học hành tới nơi tới
chốn và kết quả thường xảy ra là dẫn đến ly hôn (thực tế thời gian qua ở thành phố
Cần Thơ, tỷ lệ ly hôn tăng cao và ngày càng trẻ hóa về đội tuổi) mà người phụ nữ
là người bị chịu nhiều thiệt thòi nhất. Nguyên nhân là do định kiến của xã hội, tư
tưởng trọng nam, khinh nữ mà nhiều nơi vai trò và năng lực của phụ nữ chưa được
quan tâm đúng mức, nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách, trực tiếp liên quan đến
việc tạo điều kiện cho phụ nữ cống hiến khả năng to lớn cho sự phát triển trước mắt
và tương lai của xã hội chưa được quan tâm đầy đủ, vì thế chưa tạo được mọi điều
kiện cho người phụ nữ trong việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc, cũng như khẳng định vị thế, vai trò của mình trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tư tưởng, văn hóa.
Với lý do trên, tôi chọn vấn đề “Nâng cao vai trò của phụ nữ trong đời
sống xã hội ở thành phố Cần Thơ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với phụ nữ, cũng như vai trò của người phụ nữ hiện nay có rất nhiều
công trình nghiên cứu với những nội dung phong phú, đa dạng, có thể phân thành
các nhóm:
- Nhóm các công trình viết về phụ nữ nói chung
Đầu tiên có thể nhắc đến là tác phẩm: Công dung ngôn hạnh xưa và nay,
của Nguyễn Tất Sang , viết về việc bạn gái với nữ công gia chánh (chính), theo đó
2


có các vấn đề được trình bày như: Dung - vẻ đẹp của người con gái; ngôn - vẻ đẹp
của tâm hồn thể hiện qua ngôn ngữ của người phụ nữ; hạnh - mặt đạo đức của
người phụ nữ, bàn về những câu chuyện về công, dung, ngôn, hạnh của phụ nữ thời
nay được hiểu qua các bài viết như: Bạn gái với văn hóa ẩm thực mọi miền, bí

quyết thành công của bạn gái, nữ sinh viên trước vận hội mới; công dung ngôn
hạnh nữ công… đây là cẩm nang cho chị em phụ nữ nhằm đạt được những chuẩn
mực nhất định của xã hội, hay đó là những bí quyết để những người mẹ đạt được
điều mình mong muốn.
Ngoài ra, còn có một số bài viết về phụ nữ Việt Nam như: “Phụ nữ Việt
Nam thời hội nhập” đăng trên 24H.com.vn. Diễn đàn quốc gia với chủ đề “Phụ nữ
Việt Nam thời hội nhập” do Thời báo Kinh tế Việt Nam phối hợp với Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ thành
phố Hồ Chí Minh tổ chức, đã diễn ra tại Dinh Thống Nhất (thành phố Hồ Chí
Minh) vào sáng 24/5/2008. Diễn đàn này là một hoạt động nhằm chào mừng “Hội
nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu lần thứ 18 chính thức diễn ra tại Hà Nội vào
ngày 5/6/2008. Đây là một hội nghị quốc tế quan trọng, nhằm mục đích kết nối các
doanh nhân, các chuyên gia, lãnh đạo Chính phủ là phụ nữ từ các quốc gia trên thế
giới, thành lập đồng minh phụ nữ toàn cầu nhằm chia sẻ những kinh nghiệm thực
tiễn tốt nhất, những chiến lược kinh doanh thành công, khắc phục những vấn đề
phụ nữ phải đối mặt hiện nay trong kinh doanh, tạo điều kiện nêu cao vai trò vị trí
của phụ nữ trong kinh doanh và hoạt động chính trị - xã hội. Hội nghị được tổ chức
hàng năm và luân chuyển theo từng lục địa, năm nay Châu Á được chọn là châu lục
tổ chức hội nghị với lý do đây là khu vực kinh tế năng động nhất của thế kỷ 21,
Việt Nam vinh dự là quốc gia được đăng cai tổ chức Hội nghị này. Tuy diễn đàn
được tổ chức cách nay khá lâu (08 năm) nhưng giá trị và ý nghĩa của nó vẫn còn
mang tính thời sự nóng hổi.
3


Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ - Ngụy, người phụ nữ Việt
Nam cũng đã thể hiện được vị trí vai trò của mình, đúng như truyền thống “Giặc
đến nhà đàn bà cũng đánh”. Về mảng vấn đề này, có các bài viết như: “Phụ nữ Việt
Nam trong phong trào đấu tranh cách mạng” của Hoàng Thị Thảo đăng trên
; bài “Phụ nữ Miền Nam Việt Nam” (tr.144-155) của

Dương Thanh Hồ và Hồng Điều in trong Chung một bóng cờ; Truyền thống cách
mạng của phụ nữ Nam Bộ thành đồng của Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ xuất bản năm
1989… đã thể hiện đầy đủ khí phách của người phụ nữ trong kháng chiến gian khổ
dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát. Chính điều này đã tạo lên hình ảnh Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng mà không ở đất nước nào có, hay những cô du kích, những chị,
những bà đã âm thầm hy sinh cho đất nước mà không đòi hỏi sự đáp lại. “Đặc
điểm



truyền

thống

người

phụ

nữ

Việt

Nam”

xem

trên

. Đã thể hiện được hình ảnh nổi bật về người phụ nữ
Việt Nam sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm dù có phải hy sinh

thân mình như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyên phi Ỷ Lan, Đô đốc Bùi Thị Xuân,
Thiếu tướng Nguyễn Thị Định... đã được ghi vào lịch sử của dân tộc. Nếu thống kê
một cách cơ học, trong cuốn sách “Các Triều đại Việt Nam” của nhóm tác giả
Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng, tác giả luận văn thống kê có 11 mục đề cập đến những
nhân vật nữ có nhiều đóng góp trong lịch sử phong kiến Việt Nam từ cuộc “Đấu
tranh giành độc lập Hai bà Trưng khởi nghiệp (40-43)” đến mục “Tuyên phi Đặng
Thị Huệ và Điện đô vương Trịnh Cán” [19, tr.354-359].
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
phụ nữ và công tác phụ nữ
Có thể nói, quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ được
phản ánh xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của cách mạng Việt Nam,
có thể điểm qua một số mốc quan trọng như:
4


Trước hết, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta có ban hành hai
văn bản về phụ nữ là Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10/01/1967, Ban Bí thư
Trung ương Đảng “Về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận”; và Nghị
quyết số 153-NQ/TW ngày 10 tháng 01 năm 1967 của Ban Bí thư “Về công tác cán
bộ phụ nữ”.
Ngoài ra, các bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và
thực hiện bình đẳng giới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Chiên - Giảng viên
Khoa



luận

Mác


-

Lênin,



tưởng

HCM ,

xem

trên

; Nguyễn Thị Bích Thúy - Khoa Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị khu vực IV (2011), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác phụ nữ
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Xây dựng Đảng ngày 07/03/2011... Là
những nghiên cứu có tính khái quát về tư tưởng của Hồ Chí Minh trong giải phóng
phụ nữ, về công tác phụ nữ trong xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Đối với các văn bản pháp lý của Nhà nước, ngay Hiến pháp năm 1946, Nhà
nước ta đã khẳng định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa” (Điều 6) và “đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9) đã khẳng định sự bình quyền của phụ nữ
trong xã hội. Cụ thể hơn, trong Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta đã quy định
“Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức
mình” (Điều 9, khoản 2) [67, tr.12], cũng quy định “Công dân nam, nữ bình đẳng
về mọi mặt” (Điều 26) [67, tr.18], “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ
quyền lợi của người mẹ và trẻ em” (Điều 36, khoản 2) [67, tr.21], “Nhà nước, xã
hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực

hiện kế hoạch hóa gia đình” (Điều 58, khoản 2) [67, tr.28].
Hay trong Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam dành hẳn một chương về “Những quy định riêng đối với lao động nữ” để thể
5


hiện sự quan tâm của Nhà nước trong bình đẳng, cũng như đưa ra những cơ sở
pháp lý cụ thể để bảo vệ quyền lợi của lao động phụ nữ. Đó là Luật Bình đẳng giới,
được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 ban hành tại Luật số 73/2006/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2006, đã đưa ra các quy định rất chi tiết về bình đẳng giới trong
“các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”, “các biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới”, “trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực
hiện và bảo đảm bình đẳng giới”…
- Nhóm công trình liên quan trực tiếp đến vai trò và nâng cao vai trò của
người phụ nữ
Về vấn đề vai trò của người phụ nữ có các bài viết “Vai trò của phụ nữ
trong xây dựng gia đình hạnh phúc” của Bùi Thị Mai Đông, Trưởng khoa Công tác
xã hội, Học viện Phụ nữ Việt Nam, đã trình bày mạch lạc các vai trò cơ bản của
người phụ nữ Việt Nam như: Vai trò làm vợ, làm mẹ; vai trò người thầy đầu tiên
của con người; vai trò người lao động chính, tạo thu nhập cho gia đình; vai trò
người sắp xếp, tổ chức cuộc sống vật chất trong gia đình; vai trò người chăm lo đời
sống tinh thần của gia đình; vai trò người giữ gìn, tái tạo và sáng tạo các giá trị văn
hóa gia đình mà tác giả có thể kế thừa.
Cùng với vác bài viết: “Vai trò của phụ nữ trong cơ quan dân cử: Còn nhiều
thách thức” (2016), của Anh Chi xem trên ; bài “Vị trí
vai trò của người phụ nữ trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước” của Lê
Thị Linh Trang, xem trên ; “Vai trò người phụ nữ
trong quan hệ xã hội” của Cấn Thủy (Ban Dân tộc - Tôn giáo), xem trên
; “Vai trò phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước” của
Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Hải Hà (Học viện Hành chính quốc gia), xem trên

Nhandan.org.vn; “Vai trò của người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại” do H.V (ghi)
xem trên ... và ngay cả Kinh cựu ước (Đạo Công giáo)
cũng có hẳn một phần dài 25 trang (do tác giả chép về, đếm với dung lượng này)
6


nói

về

“Vai

trò

của

phụ

nữ

trong

Cựu

ước”

xem

trên


; “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ
trong hệ thống chính trị” (2015), của Nguyễn Thị Thanh Hòa - Uỷ viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đăng trên
; “Nâng cao vai trò của phụ nữ trong giảm thiểu rủi ro thiên
tai” (2016), của Bích Nguyên đăng trên ; “Nâng cao
vai trò, vị thế của phụ nữ trong tình hình mới” của tác giả Biện Nhung đăng trên
. Các tác giả trình bày một cách khái quát về vai trò của phụ nữ
Việt Nam, có cả ưu điểm, có cả nhược điểm, tồn tại kéo dài.
Đặc biệt, Vương Thúy Hợp - Giảng viên Khoa Lý luận chính trị, Học viện
Tài chính, có bài viết “Quan điểm của C. Mác. Ph. Ăng-ghen, V. I. Lê-nin về địa vị
người phụ nữ và giải phóng phụ nữ”, xem trên đã
nêu lên quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin về “Địa vị
người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”, “Địa vị người phụ nữ trong
hôn nhân và gia đình”, cũng như các quan điểm về “Nguồn gốc của sự bất bình
đẳng nam nữ” từ đó phải “Phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất”,
“đồng thời xây dựng hôn nhân và gia đình tiến bộ”. Như vậy, lý luận về giải phóng
con người, giải phóng phụ nữ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ thấm đượm
bản chất nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn vượt lên tầm cao mà trước đó tư tưởng
của nhân loại chưa thể vươn tới, đó là quan điểm duy vật lịch sử coi con người là
thực tiễn, là chủ thể duy nhất có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới [43, tr.4].
Tương tự, có bài viết “Vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới trong tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin” của Quách Thị Minh Thúy, đã khái quát được hai vấn
đề lớn là “về địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ở các chế độ cũ nói
chung, chế độ tư bản chủ nghĩa nói riêng và nguồn gốc dẫn tới sự bất bình đẳng
giữa phụ nữ và nam giới” và “về điều kiện giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền
bình đẳng nam nữ (bình đẳng giới)”. Có thể nói “toàn bộ hệ thống những quan
7


điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về phụ nữ, giải phóng phụ nữ và thực

hiện quyền bình đẳng nam nữ được xây dựng trên cơ sở của triết học mác xít. Đây
là phương pháp tiếp cận khoa học và cũng là cơ sở lý luận để phát triển khoa học
về giới, hướng tới mục tiêu bình đẳng giới trong xã hội hiện nay.
Hay chuyên đề “Phát huy vai trò của phụ nữ trong công cuộc phát triển
bền vững ở Việt Nam” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã đưa ra
được nhiều vấn đề quan trọng như: sự tham gia và vai trò của phụ nữ trong lĩnh
vực kinh tế, chính trị, khoa học và gia đình; nêu lên “Vai trò của phụ nữ trong xã
hội hiện đại”; đánh giá được “Một số hạn chế đối với việc phát huy vai trò phụ nữ”
và nguyên nhân; khái quát được việc “Phát huy vai trò của phụ nữ trong công cuộc
phát triển bền vững ở Việt Nam”. Từ đó, nêu lên “Trách nhiệm và vai trò của các
tác nhân trong xã hội đối với sự tiến bộ của phụ nữ”, đây là công trình tác giả có
thể kế thừa và phát triển có chọn lọc đối với việc nâng cao vai trò của phụ nữ ở
thành phố Cần Thơ.
Về các bài viết liên quan đến vai trò của phụ nữ Cần Thơ trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa ở địa phương, ta có thể kể đến một số bài như:
bài viết “Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp phát huy vai trò điểm tựa” của Quỳnh Lam
đăng trên Thông tin Tuyên giáo Cần Thơ số 3/2017 (trang 50-53) là kết quả thực
hiện phương châm “Nơi nào có phụ nữ, nơi đó có tổ chức Hội”, từ đó có nhiều mô
hình hiệu quả, thiết thực của chị em phụ nữ trong chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho hội viên phụ nữ; tương tự, chuyên mục “Mô hình hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế” tập hợp nhiều mô hình hay như: “Mô hình xử lý rác bằng thùng compost”,
“Giữ nghề truyền thống phát triển kinh tế gia đình”, hay “Tổ may gia công ấp Định
Yên hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế gia đình”… được đăng trên chuyên san “Phụ
nữ Cần Thơ” chào mừng Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII, nhiệm kỳ
2017 - 2022; Tài liệu buổi “Hội thảo - Họp mặt Nữ lãnh đạo, quản lý nhân kỷ niệm
Ngày quốc tế Phụ nữ 08/3/2017”, có các bài viết thể hiện rõ vai trò của phụ nữ lãnh
8


đạo, quản lý của thành phố như bài tham luận “Sự tham gia của phụ nữ trong các vị

trí lãnh đạo, quản lý của thành phố”, “Thực trạng và giải pháp tăng cường sự tham
gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý”, “Một số vấn đề thực trạng cán bộ
nữ tham gia lãnh đạo, quản lý của thành phố Cần Thơ”, “Vai trò Hội Liên hiệp Phụ
nữ tham mưu Thành ủy công tác cán bộ nữ” đã nêu toát lên được vấn đề thực trạng
đội ngũ nữ tham gia vào công tác chính trị của thành phố Cần Thơ thời gian qua là
những tư liệu mà tác giả có thể kế thừa, phân tích trong phần thực trạng vai trò của
phụ nữ Cần Thơ trong xây dựng hê thống chính trị của địa phương.
Tóm lại, tất cả những công trình này đã minh chứng rằng, phụ nữ là một
nửa của thế giới, vì thế họ có vai trò vô cùng to lớn trong xã hội này, mặc dù hiện
nay vẫn còn nhiều bất công đối với phụ nữ, vai trò của họ ở nhiều nơi, nhiều lúc
không được xem trọng. Đây là vấn đề mở mà tác giả sẽ kế thừa, phát huy cũng như
phát triển, phân tích thực tế vai trò và nâng cao vai trò của người phụ nữ ở thành
phố Cần Thơ hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vai trò của người phụ nữ Cần Thơ, luận
văn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của người phụ nữ ở Cần
Thơ trong đời sống xã hội hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Khách thể nghiên cứu: Vai trò của người phụ nữ.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Vai trò của người phụ nữ Cần Thơ
trong lĩnh vực kinh tế -xã hội, văn hóa, tư tưởng hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu không đánh giá đúng thực trạng vai trò của người phụ nữ thì sẽ không
có những giải pháp thích hợp khắc phục những hạn chế, nâng cao hơn nữa vai trò
của người phụ nữ trong đời sống xã hội ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
9


6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc nâng cao vai trò của người phụ nữ thành

phố Cần Thơ trong đời sống xã hội hiện nay.
- Đánh giá thực trạng việc nâng cao vai trò của người phụ nữ Cần Thơ.
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của người phụ nữ ở thành phố
Cần Thơ trong đời sống xã hội hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu, khảo sát thực tế phụ nữ Cần Thơ ở 09 quận, huyện
của thành phố Cần Thơ trong lĩnh vực kinh tế -xã hội, văn hóa, tư tưởng từ năm
2010 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng một số phương pháp cụ thể khác như:
Phương pháp điều tra xã hội học, phân tích, tổng hợp, so sánh, …để thực hiện mục
đích và triển khai nhiệm vụ nghiên cứu.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
02 chương, 04 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
- Những luận điểm cơ bản
+ Phụ nữ là một lực lượng xã hội to lớn luôn có vai trò hết sức quan trọng
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Phụ nữ ở thành phố Cần Thơ đã và đang đóng góp tích cực vào sự phát
triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa,tư
tưởng.
- Đóng góp mới của luận văn
10


- Luận văn hình thành hệ thống cơ sở lý luận về phụ nữ và đánh giá thực
trạng nâng cao vai trò của người phụ nữ trong đời sống xã hội ở thành phố Cần
Thơ hiện nay.

- Góp phần khắc phục những hạn chế trong nâng cao vai trò của người phụ
nữ ở thành phố Cần Thơ trước yêu cầu đổi mới.
- Đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của người phụi nữ
thành phố cần Thơ trong đời sống xã hội hiện nay.

11


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng nhấn mạnh trong lời giới thiệu cuốn
“Truyền thống cách mạng của Phụ nữ Nam Bộ thành đồng”: Chúng ta phải làm
cho “em cháu ta ghi nhớ công ơn những người đi trước thì phải ra sức phát huy
truyền thống vinh quang của người xưa mà đưa phong trào Phụ nữ Nam Bộ và Việt
Nam vượt qua mọi khó khăn tiến lên những bước ngày càng tốt đẹp hơn” [81,
tr.10]. Không chỉ có thế, Phụ nữ đã được nhắc đến từ khi có loài người xuất hiện,
vai trò của họ trong lao động đã được lịch sử ghi lại, mà rực rỡ nhất là ở chế mộ
“mẫu hệ” ở đó “quyền của người mẹ lớn hơn người cha” [60, tr.150]. Ngày nay, vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong đời sống xã hội lại càng được khẳng định. Để
hiểu rõ cơ sở khoa học học việc nâng cao vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội
ở thành phố Cần Thơ hiện nay, chúng ta cùng làm rõ một số khái niệm cơ bản sau:
- Phụ nữ
Phụ nữ là một nửa của nhân loại, nếu không có phụ nữ (giống cái), có lẽ trái
đất này không tồn tại loài người. Kinh thánh cho rằng, khi Thượng đế sinh ra người
đàn ông đầu tiên - Adam, Người thấy Adam thật buồn và cô đơn nên lấy một cái
xương sườn của Adam mà tạo nên người phụ nữ đầu tiên - Eva. Đó chỉ là những

huyền thoại về sự xuất hiện của loài người, nhưng nó cũng phản ánh hiện thực xã
hội, đó là sự phân biệt nam nữ và giới nữ thường thua thiệt hơn giới nam. Chúng
tôi không rõ, thuật ngữ “Phụ nữ” được dùng từ khi nào? Có những khái niệm nào
để chỉ phụ nữ? Nhưng có thể hiểu một cách đơn giản như sau: Theo Đại từ điển
12


tiếng Việt, phụ nữ (dt) “là người thuộc giới nữ, thường để chỉ người lớn tuổi” [89,
tr.1272].
Trên cơ sở đó, ta có thể hiểu chung nhất về khái niệm phụ nữ như sau: Phụ
nữ là để chỉ giới nữ, thuộc giống cái trong xã hội loài người.
- Nâng cao vai trò của phụ nữ
Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thấy sự đóng góp vô cùng
quan trọng của phụ nữ trong đời sống xã hội. Dù đó là sự kiện phụ nữ ở Afganistan
đi bỏ phiếu bầu cử tổng thống hay việc phụ nữ bắt đầu mở những cơ sở kinh doanh
siêu nhỏ tại Etiopia, thì xu thế hướng tới quyền bình đẳng hơn nữa của phụ nữ trên
toàn thế giới đã trở nên rõ ràng. Theo thống kê, từ khi có giải Nobel năm 1901 đến
nay, đã có 4,4% giải Nobel về hòa bình được trao cho phụ nữ. Nếu tính tất cả các
lĩnh vực, số phụ nữ đoạt giải Nobel lên đến 28 người. Trong 192 đại diện thường
trực ở Liên Hiệp Quốc có 14 phụ nữ. 11% nhân viên cấp cao tại cơ quan của Liên
Hiệp Quốc là phụ nữ. Có 50% phụ nữ trong Chính phủ Thụy Điển - Đây là chính
phủ đầu tiên trên thế giới đạt được sự cân bằng giữa nam và nữ. Kỷ lục thế giới về
phụ nữ là dân biểu thuộc về Phần Lan với 39%. Tiếp theo là NaUy 35%, Thụy
Điển 34%. Hiện có 12 quốc gia trong đó phụ nữ là tổng thống hay thủ tướng. 10
quốc gia đứng đầu về số phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực kinh tế và chính trị được
Liên Hiệp Quốc bình chọn là: Thụy Điển, Nauy, Phần Lan, Đan Mạch, NiuDilan,
Hà Lan, Mỹ, Áo và Italia [87, tr.9-10]. Từ những minh chứng này, ta có thể hiểu
vai trò của phụ nữ là vị trí, trách nhiệm, sự đóng góp của phụ nữ ở tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Từ đó, có thể phác họa những nét chung để nâng cao vai
trò của phụ nữ như sau:

Thứ nhất, phụ nữ cần có tinh thần học tập, kiên trì khắc phục trở ngại để
nâng cao trình độ học vấn, trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đa dạng; ý
thức nắm bắt thông tin xã hội qua giao tiếp với bạn bè, sách báo, phương tiện thông
tin đại chúng. Thực ra, đây là vấn đề rất khó mà phụ nữ cần phải vượt qua, vì chị
13


em thường bị các công việc gia đình chi phối. Bên cạnh đó, thời gian học tập ít ỏi,
cơ hội học tập ít được tiếp cận, sự giao lưu xã hội hạn chế nhiều so với nam giới.
Thứ hai, phụ nữ phải biết tính toán công việc chuyên môn, thu xếp cuộc
sống cá nhân và gia đình một cách khoa học, có nề nếp là điều giúp người phụ nữ
khắc phục được nhiều khó khăn. Chỉ khi chị em có chương trình làm việc lâu dài và
trước mắt hợp lý, biết sắp đặt việc nhà, việc cơ quan, việc sản xuất, kinh doanh, họ
sẽ có thời gian nghỉ ngơi, từng bước nâng cao trình độ kiến thức. Ngoài ra, bản
thân chị em cũng cần có sự chủ động nâng cao hơn nữ nhận thức về giới, có kế
hoạch trau dồi kiến thức, năng lực công tác.
Thứ ba, phụ nữ cần có sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo, và phải có chính kiến
của mình; đồng thời cần lắng nghe ý kiến của người xung quanh, với các đồng
nghiệp; chú ý trao đổi ý kiến và kinh nghiệm thực tiễn phong phú.
Thứ tư, yếu tố đặc biệt quan trọng tác động đến hiệu quả công việc của
người phụ nữ chính là lòng tự tin vào năng lực bản thân, đánh giá đúng khả năng
của mình để có thể tự quyết định công việc một cách chủ động và dám chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. Cùng với các yêu cầu trên, việc xây dựng một tác
phong làm việc nhanh nhẹn, tháo vát là hết sức cần thiết đối với người phụ nữ, phù
hợp với xã hội công nghiệp và thời đại đầy những biến động nhanh chóng, liên tục
[87, tr.28].
Từ những ý kiến nêu trên, có thể thấy được các nội dung về nâng cao vai trò
của phụ nữ: “Nâng cao vai trò của phụ nữ là phát huy các giá trị sẵn có và tiềm
năng to lớn của phụ nữ trong việc xây dựng, phát triển đất nước; phát huy hơn nữa
sự tham gia của phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.

- Đời sống xã hội
Trước hết, có thể hiểu, xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Ở đây, tự
nhiên theo nghĩa rộng “là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan” [52, tr.396].
14


Trong đó, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là con đẻ của tự nhiên, là sản phẩn
cao nhất của tự nhiên. Chính việc mang trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã
hội cho nên con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Hơn
thế nữa, thông qua lao động, con người trở thành khâu gắn bó giữa tự nhiên và xã
hội. Vậy xã hội là gì?
Xã hội chính là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận
động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với
người làm nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng
số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau” [52, tr.398].
Xã hội không phải cái gì khác là chính là bộ phận đặc biệt, được tách ra một các
phù hợp với quy luật của tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao nhất của vật
chất trong quá trình tiến hóa phức tạp, lâu dài, lên tục của tự nhiên.
Như vậy, “xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên. Song, đồng thời với
quá trình tiến hóa tiếp tục của tự nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch
sử của mình, thể hiện bằng sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng trong
cơ cấu của xã hội” [52, tr.399].
Còn đời sống, theo Đại từ điển tiếng Việt là danh từ, với ý nghĩa là “sự sinh
sống, hoạt động diễn ra trong cơ thể của mốt sinh vật; hoạt động của con người về
một lĩnh vực nào đó nói chung” [89, tr.560].
Tuy nhiên, ta không thể hiểu một cách máy móc, cơ học là ghép khái niệm
“xã hội” với khái niệm “đời sống” để hiểu khái niệm chung “đời sống xã hội” mà ta
cần hiểu một cách bao quát, mang hàm nghĩa rộng hơn là hoạt động trong một lĩnh
vực nào đó. Từ đó, có thể hiểu đời sống xã hội là hoạt động của con người trong
một cộng đồng to lớn, phức tạp ở phạm vi một đất nước, một chế độ, tổng thể là xã

hội loài người.
Trong phạm vi luận văn, đời sống xã xã hội được nghiên cứu chỉ giới hạn
trong lĩnh vực kimh tế - xã hội, văn hóa, tư tưởng.
15


1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối, chủ chương của Đảng về phụ nữ
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đều đã đưa ra các
quan điểm riêng của mình về địa vị, vai trò của người phụ nữ trong xã hội, tìm
hiểu, phân tích những nguyên nhân của sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Có thể
thấy, đây là những tư tưởng tiến bộ giúp vạch rõ xu hướng biến đổi địa vị người
phụ nữ theo hướng tiến tới sự bình đẳng nam nữ trong xã hội và tính tất yếu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ hiện nay. Các vấn
đề đó, được C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin và Hồ Chí Minh thể hiện trong các
công trình của mình.
- Thứ nhất, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phụ nữ
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra vấn đề “địa vị người
phụ nữ trong xã hội tư bản”. Trước thực tế sự bóc lột tàn tệ người lao động nói
chung, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em nói riêng, C. Mác, Ph. Ăngghen đã tố cáo chế độ
bóc lột kiểu tư bản chủ nghĩa đối với lao động nữ, đó là bóc lột lao động đến kiệt
sức trong điều kiện không bảo đảm vệ sinh, bệnh tật, tử vong… Người phụ nữ phải
đến công xưởng làm việc trong điều kiện hết sức tồi tệ do đồng lương ít ỏi, không
đủ nuôi sống gia đình. C. Mác cũng chỉ rõ, tỷ lệ mắc bệnh của người phụ nữ bao
giờ cũng cao hơn so với nam giới (643/1000 người mắc bệnh lao phổi là đàn bà).
Tình trạng phổ biến trong công xưởng, “đó là chuyện những cô gái thường làm việc
trung bình một ngày 16 ½ giờ và trong mùa may mặc thì thường làm việc một
mạch 30 giờ không nghỉ” [14, tr.373].
Trong cuốc sống hôn nhân, gia đình C. Mác, Ph. Ăngghen chỉ rõ “Đối với
người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất. Cho nên nghe nói công

cụ sản xuất phải được đem dùng chung thì tất nhiên là hắn kết luận rằng chính đàn
bà rồi cũng phải chịu cái số phận chung là bị xã hội hóa”... “Các ngài tư bản của
chúng ta chưa thỏa mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa
16


kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một
thú vui đặc biệt” [13, tr.623]. Cùng phản ánh thực trạng về cuốc sống hôn nhân của
người phụ nữ trong xã hội Tư bản, V.I. Lênin viết: “Hàng triệu và hàng triệu phụ
nữ trong những gia đình như vậy đang sống (hoặc nói cho đúng hơn đang bị đọa
đầy) trong kiếp “gia nô”, ra sức lo ăn lo mặc cho cả gia đình bằng từng xu nhỏ mà
họ phải trả bằng những cố gắng phi thường hàng ngày và bằng “sự tiết kiệm” tất cả
mọi thứ, chỉ trừ có “tiết kiệm” lao động bản thân” [85, tr.173].
Như vậy, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, người phụ nữ phải chịu đựng một
nghịch lý, đó là vai trò thì lớn nhưng địa vị thì thấp hèn trong cả gia đình và ngoài
xã hội. Phụ nữ phải gánh vác hầu như toàn bộ việc nhà nhưng vẫn phải đi làm như
nam giới; người phụ nữ cùng một lúc vừa phải tham gia lao động trong một nền sản
xuất xã hội, vừa đảm nhiệm mọi thứ công việc như nô lệ trong gia đình. Điều này
thực sự mâu thuẫn và xung đột vai trò của người phụ nữ (trong xã hội học gọi là
xung đột “vai trò giới” của người phụ nữ).
Về con đường giải phóng phụ nữ, quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và
V.I. Lênin được thể hiện qua việc thực hiện cuộc cách mạng về lý luận giải phóng
phụ nữ. Các ông đã vạch rõ xu hướng biến đổi địa vị người phụ nữ theo hướng tiến
tới sự bình đẳng nam nữ trong xã hội và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Quá trình đó diễn ra khách quan, bắt
nguồn từ sự biến đổi trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị
diệt vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời. Quy luật đó tác
động trực tiếp tới địa vị và vai trò của phụ nữ trong xã hội. Ph. Ăngghen chỉ ra xu
hướng biến đổi của xã hội tư bản cùng với nó là sự biến đổi trong mối quan hệ xã
hội giữa phụ nữ và nam giới.

Và để giải phóng xã hội đồng thời giải phóng phụ nữ trong điều kiện chính
quyền đã giành về tay giai cấp công nhân liên minh với nông dân và trí thức thì
điều kiện cần thiết và quan trọng là phải thực hiện những bước quá độ để xây dựng
17


×