Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

công tác xã hội nhóm với người tâm thần từ thực tiễn trung tâm nuôi dưỡng phục hồi chức năng người tâm thần tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỚI NGƯỜI TÂM THẦN TỪ
THỰC TIỄN TRUNG TÂM NUÔI DƯỠNG PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG NGƯỜI TÂM THẦN TỈNH VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỒI LOAN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn “Công tác xã hộinhóm với người tâm thần từ thực tiễn Trung
tâm nuôi dương phục hồi chức năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc” là kết quả
nghiên cứu của tôi với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Hồi Loan.
Trên đây là lời cam đoan của tôi, nếu có vấn đề gì tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà nội, tháng 3 năm 2017
Người viết lời cam đoan

Nguyễn Tiến



MỤC LỤC
Mở đầu ........................................................................................................................... 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm với người tâm thần ..... 9
1.1. Khái niệm về bệnh tâm thần..................................................................................... 9
1.2. Khái niệm, nguyên tắc và các bước tiến hành về công tác xã hội nhóm với
người tâm thần............................................................................................................... 12
1.3. Các hoạt động công tác xã hội nhóm với người tâm thần.................................. ... 16
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm với người tâm thần ................... 19
1.5. Cơ sở pháp lý về công tác xã hội nhóm với người tâm thần.................................. 22
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm với người tâm thần tại Trung tâm
Nuôi dưỡng Phục hồi chức năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc ......................... 27
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội Vĩnh Phúc, sơ lược về Trung tâm Nuôi dưỡng Phục
hồi chức năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc.............................................................. 27
2.2. Công tác xã hội nhóm với đối tượng tâm thần đang được nuôi dưỡng tại Trung
tâm Nuôi dưỡng Phục hồi chức năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc ......................... 31
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm với người tâm thần ................... 46
2.4. Tồn tại – hạn chế nguyên nhân của công tác xã hội nhóm với người tâm thần.. 52
Chương 3: Các biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động công tác xã
hội nhóm đối với người tâm thần từ thực tiễn Trung tâm Nuôi dưỡng Phục hồi
chức năng người tâm thần tỉnh Vĩnh phúc ............................................................... 54
3.1. Nhóm biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội về
người tâm thần và các vấn đề của họ ............................................................................ 54
3.2. Nhóm biện pháp nâng cao năng lực ....................................................................... 56
3.3. Nhóm biện pháp đổi mới nội dung và phương thức thực hiện các hoạt động
công tác xã hội với người tâm thần ............................................................................... 59
3.4. Nhóm biện pháp về xây dựng các mô hình dịch vụ hỗ trợ người tâm thần ........... 60
Kết luận ........................................................................................................................ 63
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................................... 65



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BTXH

Bảo trợ xã hội

CTXH

Công tác xã hội

CSSKTT

Chăm sóc sức khỏe tâm thần

HĐND

Hội đồng nhân dân

NDPHCN

Nuôi dưỡng phục hồi chức năng

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp nhiều khó khăn (Theo định nghĩa người khuyết tật của Luật người
khuyết tật năm 2010). Người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cũng
như trong cuộc sống hàng ngày, chính vì vậy họ cần được sự quan tâm chia sẻ, giúp
đỡ của mọi người, cộng đồng và toàn xã hội.Người tâm thần lại càng gặp nhiều khó
khăn hơn vì bộ não của họ bị khiếm khuyết, là cơ quan chỉ đạo và chi phối mọi hoạt
động của các cơ quan khác trên cơ thể con người.
Sức khỏe tâm thần được Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa như sau: “Là trạng
thái hoàn toàn thoải mái mà ở đó mỗi cá nhân nhận thức rõ khả năng của mình, có
thể đối phó với những căng thẳng bình thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả
và năng suất có thể đóng góp cho cộng đồng”. Sức khỏe tâm thần là một bộ phận
tạo nên sức khỏe của mỗi chúng ta.
Rối nhiễu tâm trí biểu thị sự lệch lạc về sức khỏe tâm thần, đây là sự nhìn nhận
mới về tình trạng sức khỏe tâm thần theo hướng dự phòng, điều trị sớm bệnh nhân.
Hiện nay số người bị rối nhiễu tâm trí ở Việt Nam ước chiếm 10% dân số,
tương đương 9 triệu người. Trong đó số người tâm thần chiếm 2,5% số người rối
nhiễu tâm trí (Tương đương với 200 nghìn người). Số người có hành vi nguy
hiểm cho bản thân gia đình, cộng đồng khoảng 150 nghìn người(Theo báo cáo sơ
kết 4 năm thực hiện Đề án 1215 tại Quảng Ninh ngày 29 -30/10/2015 của Bộ
Lao động – Thương binh & Xã hội). Số người tâm thần có xu hướng gia tăng do
áp lực cuộc sống, môi trường... Đặc biệt là ở các thành phố, đô thị lớn.Việc chăm
sóc, chữa trị và phục hồi chức năng cho người tâm thần là một thách thức lớn và
là một gánh nặng đối với cộng đồng và xã hội[5].
Theo báo cáo của Sở Y tế Vĩnh Phúc năm 2015, Vĩnh Phúc có trên 4.500 người
bị tâm thần.Trong đó được chăm sóc tại các cơ sở Y tế và cơ sở Bảo trợ trên 400

người.Số còn lại được chăm sóc, quản lý tại gia đình, cộng đồng. Bên cạnh những
gia đình quan tâm đưa con em đi khám bệnh tại các cơ sở y tế chuyên khoa, nhiều
gia đình bỏ mặc khiến người bệnh mặc cảm, dễ phát bệnh nặng hơn. Không chỉ lo

1


ngại về những người hàng xóm bị bệnh tâm thần ở nhiều dạng khác nhau, người dân
còn lo sợ, hoang mang với những người lang thang. Đã xảy ra nhiều vụ việc đau
lòng trên địa bàn tỉnh như đánh người, đốt nhà... mà thủ phạm chính là những người
tâm thần được nuôi dưỡng tại gia đình.
Trung tâm Nuôi dưỡng và Phục hội chức năng người tâm thần Vĩnh Phúc là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Lao động – Thương binh & Xã hội Vĩnh Phúc có
chức năng quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng và phục hồi chức năng cho người tâm
thần(Theo Quyết định số 1935/QĐ-CT ngày 23/6/2009 của UBND tỉnh Vĩnh
Phúc về việc thành lập Trung tâm Nuôi dưỡng và Phục hội chức năng người tâm
thần Vĩnh Phúc). Hiện Trung tâm đang nuôi dưỡng 121 đối tượng tâm thần. Việc
quản lý chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng chủ yếu thông qua việc dùng thuốc, tư
vấn, tham vấn, trị liệu... và các hoạt động nghề CTXH chuyên nghiệp mới đang
được bắt đầu được áp dụng lồng ghép tại Trung tâm.
CTXH dưới nhiều hình thức đa dạng của nó, là một khoa học, một hoạt động
chuyên nghiệp tác động vào vô số các tương tác phức hợp giữa con người và môi
trường của họ nhằm tạo ra sự thay đổi (phát triển) của xã hội. Sứ mạng của nó là
tăng cường năng lực giúp người dân phát triển tối đa tiềm năng, làm phong phú đời
sống của họ và ngăn ngừa, giải quyết các vấn đề xã hội, những mâu thuẫn, xung
đột, khủng hoảng nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội. CTXH là hệ thống liên kết
các giá trị, lý thuyết và thực hành, là hoạt động chuyên nghiệp tập trung vào quá
trình giải quyết các vấn đề xã hội và hướng tới sự thay đổi theo chiều hướng tích
cực.
Phương pháp CTXH nhóm là phương pháp rất có hiệu quả trong việc trợ giúp

các đối tượng xã hội nói chung và người tâm thần nói riêng. Vì CTXH nhóm giúp
tăng thêm khả năng hòa nhập xã hội, điều mà làm việc CTXH cá nhân không hiệu
quả bằng. Phương pháp này tạo cơ hội cho đối tượng tâm thần tiếp xúc với nhiều
mối quan hệ hơn. Sinh hoạt theo nhóm giúp cho đối tượng hứng thú hơn so với tiếp
xúc cá nhân vì được tham gia vào nhiều hoạt động đa dạng và có những trải nghiệm
thú vị. Hình thức này ít gây căng thẳng về mặt cảm xúc hơn so với làm việc cá nhân
đặc biệt với việc tâm lý trị liệu cho đối tượng.
Từ tất cả các lý do trên, với những kiến thức đã được trang bị tại khóa học
cao học CTXH và từ thực tiễn công tác tại Trung tâm Nuôi dưỡng và Phục hồi chức

2


năng người tâm thần Vĩnh Phúc, tôi chọn viết luận văn với tên đề tài: “Công tác xã
hội nhóm với người tâm thần từ thực tiễn Trung tâm nuôi dưỡng phục hồi chức
năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc”
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu về người khuyết tật nói chung, người tâm thần nói riêng đã
nhận được sự quan tâm rất nhiều của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các
chuyên gia trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả lựa
chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tài liệu tiêu biểu.
Thứ nhất: Các nghiên cứu về pháp luật, chính sách xã hội đối với người
khuyết tật
Việc đảm bảo quyền của người khuyết tật đã trở thành một trong những yêu cầu
quan trọng để đảm bảo quyền của người khuyết tật đã trở thành một trong những
yêu cầu quan trọng để đảm bảo công bằng, vì con người và phát triển bền vững của
quốc gia.Chính vì thế có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu về khung pháp lý
nhằm đảm bảo quyền của người khuyết tật.
Tài liệu “Các văn bản pháp luật về trợ giúp người khuyết tật” do Cục BTXH –
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ biên, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội

ấn hành năm 2013 đã giới thiệu các văn bản Pháp luật của Quốc tế và Nhà nước ta
về người khuyết tật.
Tác giả Trần Thái Dương (Đại học Luật Hà Nội) đã nghiên cứu những đặc điểm
khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật Quốc tế, đặc biệt là những quy
định của Công ước quyền của người khuyết tật trong việc đảm bảo quyền tiếp cận
công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật. Từ đó đề xuất một số ý
kiến nhằm hoàn thiện pháp luật, thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ Quốc gia khi Việt Nam
phê chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Công ước[10].
Thứ hai:Các nghiên cứu lý luận phục vụ CTXH đối với người khuyết tật
Vấn đề nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo CTXH đối với người khuyết tật nói
chung, với người tâm thần nói riêng, có thể kể các công trình tiêu biểu sau:
Hướng dẫn phát hiện, chăm sóc, quản lý người mắc bệnh tâm thần, người rỗi
nhiễu tâm trí tại cộng đồng do Sở Lao động – Thương binh & Xã hội Vĩnh Phúc ấn
hành.

3


Tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý ca với các trường hợp tâm thần và công
tác phát hiện, chăm sóc trẻ tự kỷ tại cộng đồng do Sở Lao động – Thương binh &
Xã hội Vĩnh Phúc ấn hành.
Giáo trình đại cương CSSKTT của tác giả Nguyễn Sinh Phúc đã trình bày tổng
quát về CSSKTT. Giáo trình là tài liệu cẩm nang cho cán bộ làm CTXH trong
CSSKTT[19].
Thứ ba:Các nghiên cứu về hoạt động thực hành CTXH đối với người khuyết
tật tâm thần.
Các đề tài luận văn thạc sĩ nghành CTXH những năm gần đây có xu hướng
chuyên sâu nghiên cứu về thực trạng CTXH đối với người khuyết tật nói chung,
người tâm thần nói riêng tại các Trung tâm BTXH, tại cộng đồng. Từ đó vận dụng
các phương pháp CTXH cá nhân, nhóm để thúc đẩy trợ giúp người khuyết tật mang

tính chuyên nghiệp.
Các nghiên cứu đã dần mở ra nhiều hướng tiếp cận mới trong vấn đề thực hành
CTXH đối với người khuyết tật, người tâm thần góp phần hoàn thiện hệ thống lý
luận và thực tiễn về CTXH với người khuyết tật.
Thứ tư:Các báo cáo khoa học về người khuyết tật, người tâm thần và các
hoạt động trợ giúp đối với họ.
Nghiên cứu về người khuyết tật, người tâm thần là mối quan tâm của cộng đồng
Quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng, vì thế trong những năm qua có nhiều báo
cáo khoa học nghiên cứu về người khuyết tật, người tâm thần và các hoạt động trợ
giúp họ trong đời sống xã hội như:
Báo cáo thường niên năm 2013 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật ở Việt
Nam của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (NCCD).
Báo cáo đã tổng kết những hoạt động và những kết quả chủ yếu về hỗ trợ người
khuyết tật đã triển khai trong các năm qua của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức xã
hội. Đánh giá kết quả đã đạt được, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân bài học kinh
nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật trong năm 2014
của các cơ quan tổ chức thành viên NCCD[1].
Thứ năm:Các hội thảo, dự án liên quan đến việc hỗ trợ cho người khuyết tật,
tâm thần.

4


Trong những năm qua nhiều hội thảo, dự án nghiên cứu các hoạt động hỗ trợ
cho người khuyết tật, người tâm thần được tổ chức như:
Hội thảo Quốc tế “Phát triển CTXH với CSSKTT ở Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập” trình bày vào ngày 03/6/2014.Đây là hoạt động trong khuôn khổ hợp tác
về CSSKTT trong bối cảnh hội nhập giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
với trường SOUTH CAROLINA. Qua quá trình hội thảo hai bên chia sẻ kinh
nghiệm thực tiễn trong việc CSSKTT.

Hội thảo khoa học với chủ đề “Quản lý trường hợp với người khuyết tật tại Việt
Nam” do khoa CTXH – Học viện Khoa học Việt Nam tổ chức vào ngày
22/10/2015. Đây là hội thảo khoa học mang nhiều ý nghĩa khi nội dung nghiên cứu,
thảo luận hướng đến vấn đề “Quản lý trường hợp với người khuyết tật”. Đây là
hướng đi mới hỗ trợ người khuyết tật đang được triển khai ở nhiều địa phương theo
Thông tư 01/TT- BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về công
tác quản lý trường hợp với người khuyết tật nhưng còn nhiều khó khăn về kinh phí,
nguồn lực, nhận thức của chính quyền địa phương. Đồng thời qua các báo cáo của
các chuyên gia và phần thảo luận đã gợi mở những định hướng nghiên cứu cho học
viên cao học, nghiên cứu sinh lựa chọn để làm chủ đề, phát triển nghiên cứu của đề
tài luận văn cao học.
Qua quá trình tổng quan một số nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể thấy
rằng người khuyết tật nói chung, người tâm thần nói riêng luôn là mối quan tâm của
cộng đồng Quốc tế và của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là lý do tôi nghiên cứu đề
tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là hệ thống hóa các giá trị, tri thức lý luận và thực tiễn, kỹ
năng trong việc quản lý, chăm sóc, NDPHCN người tâm thần tại Trung tâm
NDPHCN người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc nhằm góp phần giải quyết một phần các
vấn đề đối với người tâm thần như: Quản lý, chăm sóc, chữa trị, phục hồi chức năng
cho người tâm thần... Đồng thời đề tài cũng góp phần đề ra các giải pháp thúc đẩy
các hoạt động mang lại sự bình an, hạnh phúc, điều kiện chăm sóc và chữa trị cho
người tâm thần đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm nói riêng và cộng đồng nói
chung vì sự bình yên của mỗi gia đình, vì mục tiêu chung của an sinh xã hội.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để cụ thể hóa mục đích của đề tài, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là: Hệ thống hóa lý luận, phương pháp, sự hiểu biết, kiến thức và kỹ năng
về CTXH nhóm với người tâm thần nhằm thúc đẩy khả năng giải quyết các vấn đề
đối với người tâm thần.
Hai là: Từ thực tiễn tại Trung tâm, phân tích các hoạt động nhóm trong việc
quản lý, chăm sóc, chữa trị nuôi dưỡng người tâm thần. Tìm các yếu tố ảnh hưởng
đến CTXH nhóm đối với người tâm thần đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm.
Ba là: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đề ra những giải pháp nhằm năng cao
CTXH nhóm với người tâm thần tại Trung tâm Nuôi dưỡng và Phục hồi chức năng
người tâm thần Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
CTXH nhóm với người tâm thần đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm.
4.2. Khách thể nghiên cứu
100% đối tượng tâm thần đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm ( 121 đối tượng) và
đội ngũ cán bộ quản lý người tâm thần, nhân viên CTXH đang làm việc tại Trung tâm(15
cán bộ).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tại Trung tâm NDPHCN người tâm thần Vĩnh Phúc.
4.4. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9/2016 – 2/2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu của công tác xã hội nhóm với người tâm
thần
Nghiên cứu về người tâm thần cần phải dựa vào cơ sở khoa học. Luôn đặt
người tâm thần trong mối quan hệ tác động qua lại với gia đình và trong mối quan
hệ với các quá trình, điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Việc nghiên cứu về người tâm thần cần căn cứ vào điều kiện bệnh tật, hoàn
cảnh và từng giai đoạn nhất định.
5.2. Phương pháp nghiên cứu công tác xã hội nhóm với người tâm thần

5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

6


Phương pháp nghiên cứu tài liệu là một phương pháp quan trọng trong nghiên
cứu đề tài. Mục đích áp dụng của phương pháp này nhằm thu thập các thông tin liên
quan về sức khỏe tâm thần, người tâm thần cũng như các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về người tâm thần; các chương trình, mô hình và phương pháp
tiếp cận để giúp đỡ người tâm thần. Những thông tin thu thập được phải mang tính
khoa học, vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng để đảm bảo tính khách
quan nhưng vấn chứa đựng tính nội hàm.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là một hoạt động được tổ chức đặc biệt, có mục đích, có
kế hoạch, có phương tiện, để tri giác đối tượng được lựa chọn nhằm phát hiện các
dấu hiệu đặc trưng và những quy luật phát triển của đối tượng.
Trong nghiên cứu về CTXH với người tâm thần, người nghiên cứu theo dõi một
cách có chủ định những hành vi của người tâm thần trong điều kiện tự nhiên. Ghi
lại một cách khách quan những điều tai nghe, mắt thấy hay qua các phương tiện kỹ
thuật hỗ trợ để phát hiện ra các vấn đề mà người tâm thần và gia đình họ gặp phải.
Phương pháp quan sát là một phương pháp rất quan trọng trong nghiên cứu
CTXH với người tâm thần. Nó giúp việc nghiên cứu thu thập những biểu hiện bên
ngoài về hành vi, những vấn đề gặp phải của người tâm thần và gia đình họ. Đây là
phương pháp có thể tiến hành dễ dàng trong nhiều điều kiện khác nhau.
5.2.3. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp điều tra bảng hỏi là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt
đặt ra cho đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về vấn đề
nào đó. Để thu thập thông tin về người tâm thần phương pháp này được thu thập
thông tin từ các thành viên gia đình đối tượng, đội ngũ y bác sĩ, đội ngũ cán bộ quản
lý, nhân viên CTXH.

5.2.4. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân, bệnh án
Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân, bệnh án là quá trình nghiên cứu lịch
sử và diễn biến bệnh tình của đối tượng tâm thần. Phân tích những yếu tố khách
quan, chủ quan ảnh hưởng đến người tâm thần.
Trong CTXH với người tâm thần, nhờ phân tích các yếu tố khách quan và chủ
quan đến sự phát triển và diễn biến bệnh tật của đối tượng để tìm ra những biện

7


pháp phù hợp, giúp quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng và chữa trị đối tượng tâm thần
được tốt hơn, hạn chế những tồn tại khiếm khuyết.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài là những tài liệu tham khảo tại Trung tâm
NDPHCN người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc.
Có thể trở thành tài liệu tham khảo đối với các cơ quan tổ chức hữu quan trong
quá trình nghiên cứu, để tổ chức thực hiện CTXH ở tỉnh Vĩnh Phúc trong đó có
công tác xã hôi nhóm với người tâm thần.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục. Nội dung
luận văn chia thành 03 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm với người tâm thần.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm với người tâm thần tại Trung tâm
Nuôi dưỡng Phục hồi chức năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Các biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động công tác xã
hôi nhóm với người tâm thần từ thực tiễn Trung tâm Nuôi dưỡng Phục hồi chức
năng người tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc

8



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỚI NGƯỜI TÂM THẦN
1.1. Khái niệm về bệnh tâm thần
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1.Khái niệm về sức khỏe
Có rất nhiều các khái niệm về sức khỏe, nhưng khái niệm về sức khỏe của Tổ
chức Y tế thế giới thường được dùng nhiều “Sức khỏe không chỉ là trạng thái
không bệnh hay không tật mà còn là trạng thái hoàn toàn thoải mái về các mặt cơ
thể, tâm thần và xã hội”[2].
1.1.1.2.Khái niệm sức khỏe tâm thần.
Sức khỏe tâm thần là trạng thái không chỉ có các rối loạn và dị tật tâm thần, mà
còn là trạng thái hoàn toàn thoải mái. Một sự tin tưởng vào giá trị của bản thân,
vào phẩm chất giá trị của người khác. Có khả năng ứng xử với thế giới nội tâm về
tư duy, cảm xúc, quản lý cuộc sống và chấp nhận nguy hiểm.Có khả năng tạo dựng,
phát triển và duy trì thỏa đáng các mối quan hệ cá nhân. Có khả năng hàn gắn sau
các sang chấn tâm thần[20].
1.1.1.3.Khái niệm người tâm thần
Người tâm thần là người có biểu hiện khác lạ về lời nói, hành vi, nhân cách so
với những người bình thường. Người tâm thần thường không nhận thức được khuyết
tật và sự bất bình thường của mình.Với những người này, khả năng thực hiện các
hoạt động sinh hoạt hàng ngày và làm việc đều giảm sút.Tình trạng bất bình thường
về tâm thần đôi khi cũng có những lúc cũng có những biểu hiện bình thường như
trước khi mắc bệnh[4].

9


Bảng 1.1:Phân biệt giữa bệnh tâm thần và chậm phát triển trí tuệ

Bệnh tâm thần
Bình thường hoặc rất thông minh

Chậm phát triển trí tuệ
Trí tuệ
Trí tuệ giảm hoặc kém phát
triển
Nguyên nhân
Do rối loạn chức năng thần kinh Do não bị tổn thương trước
trung ương, do sang chấn não, khi sinh, trong khi sinh và
bệnh của não.
sau khi sinh.
Sử dụng thuốc Luôn sử dụng thuốc để điều trị
Không có thuốc nào điều trị
được
Khả năng học Do hành vi bất thường
Do chậm phát triển trí tuệ
hành giảm sút
Để cải thiện Điều trị thuốc + Trị liệu+ sinh Phương pháp giáo dục đặc
khả năng học hoạt
biệt, giáo dục hòa nhập
hành và làm
việc
Nguồn:Tăng cường năng lực phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng – Bộ Y tế
Việt Nam và Ủy ban Y tế Hà Lan
Theo các chuyên gia tỷ lệ người tâm thần chiếm khoảng 2% đến 3% dân số,
trong khi đó ước tính tỷ lệ người có vấn đề về tâm thần là 10% dân số. Theo số liệu
điều tra của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm 2010 cho biết tỷ lệ người
mắc các chứng bệnh tâm thần so với dân số chung của cả nước như sau:
Bảng 1.2:Tỷ lệ người mắc các chứng bệnh tâm thần so với dân số ở Việt Nam

Chứng bệnh tâm thần
%
Tâm thần phân liệt
0,47
Động kinh
0,33
Rối loạn trầm cảm
2,8
Lo âu
2,7
Mất trí nhớ tuổi già
0.9
Rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên
0,9
Chấn thương sọ não
0,51
Lạm dụng rượu
5,3
Nghiện ma túy
0,3
Nguồn: Số liệu điều tra của Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội năm 2010

10


*Các khó khăn mà người tâm thần và gia đình họ phải đối mặt:
Về xã hội: Người tâm thần bị hạn chế các hoạt động xã hội, một số nơi còn quan
niệm người tâm thần là do bị trừng phạt hoặc do ma quỉ ám hại vì vậy họ bị xa lánh,
xua đuổi hoặc bị thờ ơ không được quan tâm chăm sóc. Người tâm thần trở thành gánh
nặng cho gia đình và cộng đồng, gây xáo trộn cuộc sống và an ninh trật tự.

Khó khăn trong việc thực hiện các chức năng sinh hoạt hàng ngày:
Hạn chế không thực hiện các chức năng ăn uống, tắm giặt vệ sinh cá nhân, mặc
quần áo cũng như các hoạt động khác trong cuộc sống hàng ngày.
Không tiếp tục làm việc nữa, bỏ đi lang thang.
Trẻ em bị gián đoạn trong việc học hành hoặc không thể học tập được.
Người tâm thần cũng bị rối loạn tâm lý, sinh lý, tính tình buồn vui thất thường.
Quan hệ gia đình, vợ chồng cũng bị xáo trộn, thay đổi.
* Nguyên nhân người bị bệnh tâm thần:
Chấn thương tâm lý trong cuộc sống gia đình, xã hội, công việc.
Chấn thương sọ não.
Các tệ nạn xã hội như ma túy, nghiện rượu.
Nhiễm trùng, nhiễm độc hệ thần kinh trung ương.
Các rối loạn nội tại, nội tiết tố.
Các yếu tố di chuyền.
Tâm thần tuổi già.
1.1.1.4. Đặc điểm tâm lý người tâm thần
Người bị bệnh tâm thần thường không làm chủ được hành vi, có những hành
động khác thường trong lời nói và hành động.
Người bị bệnh tâm thần có những hoàn cảnh rất khác nhau.Có người sinh ra đã
bị bệnh, có người trong cuộc sống học tập, công tác bị phát bệnh. Nhìn chung gia
đình họ rất khó khăn, ít được sự quan tâm của gia đình, bị cộng đồng xa lánh hắt
hủi.
Người tâm thần thiếu tình cảm ruột thịt, thiếu tình yêu thương, tâm trạng cô
đơn, tủi phận.

11


Họ ít có cơ hội học tập, học nghề để có việc làm.Nguy cơ không có việc làm sẽ
gây nhiều khó khăn trong trang trải cho cuộc sống và bệnh tật.

Đối với những người bệnh tâm thần có gia đình, tình trạng hôn nhân không bền
vững, hôn nhân dễ tan vỡ, ly hôn.
Khi được sự quan tâm trợ giúp của gia đình, cộng đồng và xã hội, họ chấp nhận
bệnh tật như những người bị mắc bệnh khác và muốn tìm cách sống tích cực. Họ có
nhu cầu chữa bệnh, tăng cường sức khỏe, muốn làm điều có ích cho bản thân, gia
đình và xã hội.
1.1.1.5. Nhu cầu của người tâm thần
Họ có nhu cầu được khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
Người bị bệnh tâm thần cần có chế độ ăn, ngủ, nghỉ, sinh hoạt phù hợp để
chống lại bệnh tật.
Người bị bệnh tâm thần cần được trang bị kiến thức hiểu biết về cách điều trị,
giữ gìn sức khỏe.
Họ cần được sự yêu thương đùm bọc, cảm thông chia sẻ của gia đình, người
thân và cộng đồng.
Họ có nhu cầu và cần được tạo điều kiện có việc làm ổn định để có thể tự chăm
sóc bản thân, giảm gánh nặng về kinh tế đối với gia đình.
Họ cần được tôn trọng và bình đẳng.
Người tâm thần có thể đương đầu với bệnh tật, sống tích cực, có ích nhưng họ
khó có thể vượt qua được rào cản tâm lý xã hội để có được một cuộc sống bình
thường như mọi người.Rào cản đó là sự khinh rẻ, kỳ thị, sợ hãi của nhiều người đối
với người tâm thần.Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về bệnh tâm thần
để giúp cộng đồng thay đổi định kiến và phân biệt đối xử với người bệnh để họ vượt
qua nỗi đau bệnh tật cả về thể xác và tinh thần.
1.2. Khái niệm, nguyên tắc và các bước tiến hành về công tác xã hội nhóm
với người tâm thần
1.2.1. Khái niệm
CTXH nhóm với người tâm thần là một phương pháp của CTXH nhằm trợ
giúp những người tâm thần có môi trường, cơ hội, chia sẻ những mối quan tâm hay

12



những vấn đề chung khi tham gia vào hoạt động nhóm để hướng tới giải quyết
những vấn đề của họ nhằm phục hồi chức năng tâm lý – xã hội của người bệnh tâm
thần.
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản trong công tác xã hội nhóm với người tâm thần
Trong tổ chức các hoạt động nhóm với người tâm thần phải có sự hướng dẫn
giám sát của NVCTXH.
NVCTXH phải tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ đối tượng.
Hướng dẫn đối tượng thực hiện các hoạt động từ dễ đến khó.
Ít nhiều cũng có động viên khen thưởng.
1.2.3. Cơ sở và mục đích làm việc nhóm với người tâm thần
1.2.3.1. Cơ sở làm việc nhóm với người tâm thần
Nếu đem so sánh với những buổi làm việc cá nhân cùng NVCTXH, nhiều đối
tượng tâm thần có xu hướng thoải mãi hơn với NVCTXH khi xung quanh có các
bạn.Nhưng ngược lại làm việc với nhóm cũng gây thách thức, căng thẳng cho
NVCTXH.Khi đối tượng vào một nhóm nào đó với những người mắc bệnh như
mình, đối tượng sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi biết rằng mình không phải là người
duy nhất và hy vọng nhận được sự thấu hiểu và giúp đỡ từ những đối tượng xung
quanh.
Cũng như những người bình thường khác, các đối tượng tâm thần cũng có nhu
cầu tham gia các hoạt động xã hội, muốn có bạn bè và muốn được chia sẻ.
Mong muốn của đối tượng tham gia vào nhóm nào đó để giúp phát triển bản sắc
cá nhân. Do đó, sử dụng mô hình nhóm để giúp đỡ, điều trị hoặc tham vấn các đối
tượng đang gặp rỗi loạn về cảm xúc, hành vi có thể đem lại hiệu quả tích cực.
Mô hình nhóm giúp tăng thêm khả năng hòa nhập cho đối tượng, điều mà làm
việc cá nhân không thể đem lại. Đặc biệt, đối tượng có cơ hội tiếp xúc với nhiều
mối quan hệ hơn. Sinh hoạt theo nhóm thường khiến đối tượng hứng thú hơn so với
tiếp xúc cá nhân vì đối tượng được tham gia vào nhiều hoạt động đa dạng và có
những trải nhiệm thú vị.

Trong giai đoạn đầu của mô hình nhóm, những đối tượng nhút nhát, e dè, ngại
tiếp xúc có thể thu mình lại. Nhưng dưới áp lực của nhóm, sự cân bằng nhanh

13


chóng chuyển từ áp lực nhóm sang cá nhân khiến các thành viên có thể chấp nhận
mạo hiểm và thay đổi cách hòa nhập.
1.2.3.2. Mục đích của làm việc nhóm với người tâm thần
Mục tiêu của nhóm là hỗ trợ cho đối tượng có sức mạnh vượt qua vấn đề khó
khăn của bản thân, tác động thay đổi hành vi, hoàn cảnh của các đối tượng trong
nhóm. Công tác xã hội nhóm với người tâm thần còn cung cấp các thông tin, hiểu
biết, cải thiện môi trường sống, rèn luyện kỹ năng... những hoạt động đa dạng,
nhiều chiều cạnh của công tác xã hội nhóm sẽ đem lại những thay đổi tích cực về
thái độ, hành vi cho đối tượng, đặc biệt khi đối tượng cảm thấy hứng khởi khi được
tham gia
1.2.4. Các bước công tác xã hội nhóm với người tâm thần
Đây là một quá trình thể hiện sự tương tác giữa các cá nhân đối tượng với
NVCTXH nhằm thực hiện những nội dung công việc, những hoạt động cụ thể trong
kế hoạch đề ra để đạt được các mục tiêu cần thiết. Dựa trên những yêu cầu chuyên
môn, những nguyên tắc hoạt động CTXH nhóm, NVCTXH có vai trò là người quản
lý/hướng dẫn cho những hoạt động trong nhóm đi đúng tiến trình và kế hoạch đã đề
ra đối với mỗi nhóm.
Trong kế hoạch lập nhóm, cần xem xét các yếu tố sau để xác định vị trí thích
hợp của đối tượng trong nhóm:
Mục đích của nhóm
Mức độ đồng nhất, không đồng nhất giữa các thành viên
Lứa tuổi, giới tính, số lượng các thành viên
Vấn đề các thành viên gặp phải
Quyền quản lý (vai trò điều hành là một người hay nhiều người)

Các bước CTXH nhóm với người tâm thần
1.2.4.1. Chuẩn bị thành lập nhóm
Đây là bước đầu tiên của CTXH nhóm với người tâm thần, bước này gồm các
hoạt động chủ yếu sau:
*. Xác định mục đích hoạt động của nhóm:

14


Mục đích chính là sự thay đổi, phục hồi và đáp ứng nhu cầu của các đối tượng
trong nhóm.Tuy nhiên ở mỗi nhóm đối tượng có những mục đích đặc trưng cho
từng nhóm đối tượng. Mục đích cần phải được xác định rõ ràng, phải phù hợp với
nhu cầu và lợi ích thiết thực dành cho nhóm đối tượng.
*. Đánh giá các nguồn lực cho việc thành lập nhóm:
Việc đánh giá này dựa trên các tiêu chí hỗ trợ của nguồn nội lực và ngoại
lực.Nguồn lực không chỉ là vật chất, tài chính, cơ chế chính sách mà còn là nguồn
lực tinh thần.Bên cạnh đó là khả năng về thời gian, năng lực, vị trí khi tham gia
nhóm để thực hiện nhiệm vụ. Để thực hiện đánh giá có hiệu quả, NVCTXH phải có
cái nhìn khách quan đa chiều, có khả năng nhận diện, phân tích dự báo tốt, bên cạnh
đó phải nhận định được khó khăn – thuận lợi đối với sự tham gia nhóm của từng đối
tượng.
*. Dự thảo chương trình hoạt động của nhóm:
Khi đưa ra dự thảo kế hoạch cần lưu ý các điểm sau: Lý do của việc đưa ra kế
hoạch dự thảo nó mang lại kết quả gì; xác định thời gian và các nguồn lực để thực
hiện các mục tiêu là gì; Nội dung hoạt động cụ thể ra sao; những ai tham gia; vị trí,
trách nhiệm thế nào...
1.2.4.2. Bắt đầu hoạt động
Giai đoạn này các thành viên trong nhóm bắt đầu có hoạt động chung. Thời
điểm bắt đầu thường khó khăn cho NVCTXH và các thành viên. Giai đoạn này các
đối tượng có thái độ thăm dò nhau, tìm hiểu lẫn nhau. Sự hợp tác và tương trợ chưa

hình thành, vì vậy NVCTXH cần nắm bắt để hỗ trợ đối tượng tham gia nhóm thuận
lợi hơn. Những hoạt động chính trong giai đoạn này như sau: Giới thiệu các thành
viên trong nhóm ở buổi sinh hoạt đầu tiên; xác định mục tiêu của nhóm; đưa ra các
nguyên tắc hoạt động của nhóm; xác định vị trí, vai trò từng thành viên; định hướng
sự phát triển của nhóm; khích lệ sự tham gia của mỗi cá nhân vì sự phát triển của
nhóm.
1.2.4.3. Tập trung hoạt động – bước trọng tâm
Giai đoạn này tập trung vào các hoạt động hỗ trợ, trị liệu và triển khai thực hiện
các nhiệm vụ hướng tới hoàn thành mục đích, mục tiêu đề ra trong bản dự thảo kế

15


hoạch. Nhiệm vụ chính của NVCTXH là giúp đỡ đối tượng vượt qua rào cản khó
khăn; điều phối các hoạt động của nhóm; thúc đẩy và kết nối các nguồn lực... Trong
giai đoạn này đối tượng cần thể hiện vai trò của mình một cách tối đa, NVCTXH có
nhiệm vụ hỗ trợ , khích lệ từng đối tượng trong nhóm.Ví dụ: Đối tượng được phân
công nhiệm vụ của nhóm với khả năng thực hiện của bản thân đối tượng, đồng thời
nhóm sẽ có những hỗ trợ để đối tượng tham gia được phát huy năng lực với sự chủ
động, sáng tạo, đoàn kết và thống nhất trong nhóm.
1.2.4.4. Lượng giá và kết thúc
Đây là giai đoạn mà nhóm tự lượng giá kết quả đạt được trên cơ sở đối chiếu
các mục đích, mục tiêu có đạt được hay không.Tiêu chí đánh giá quan trọng nhất là
xem xét sự thay đổi, sự trưởng thành, nâng cao năng lực của đối tượng. Kết quả
cuối cùng là khả năng các đối tượng tái hòa nhập cộng đồng.
Kết thúc hoạt động CTXH nhóm với người tâm thần có những khuynh hướng
khác nhau: Đó là sự tan rã hoàn toàn của nhóm; đó có thể là sự tan rã trên danh
nghĩa còn thực tế vẫn duy trì nhưng với mục tiêu khác, hình thành nhóm mới với
mục tiêu mới và hoạt động mới.
1.3. Các hoạt động công tác xã hội nhóm với người tâm thần

1.3.1. Lao động liệu pháp
Lao động là điều kiện cơ bản của đời sống con người, là sự phát triển của cơ
thể, tinh thần của con người. Nó có khả năng tác động vào tính tích cực của vỏ não,
khả năng tạo cảm xúc cơ bản như sự yên tĩnh, thoải mái và đặc biệt, lao động liệu
pháp còn mang ý nghĩa về sự phát triển, sự thích nghi xã hội của người bệnh.
Mục đích của liệu pháp này khi sử dụng cho mô hình phục hồi chức năng nhằm
giúp cho bệnh nhân khôi phục lại những kỹ năng nghề nghiệp mà trước đây họ từng
có, nay bị bệnh khả năng bị mai một đi.
Nội dung của liệu pháp khá đa dạng và tùy thuộc vào từng khả năng của bệnh
nhân mà lựa chọn hoạt động cho phù hợp. Khi tiến hành liệu pháp này cần lưu ý
một số nguyên tắc sau:
Lao động phải có người hướng dẫn, kèm cặp nhằm hỗ trợ và đảm bảo sự an
toàn cho người bệnh.

16


Bắt đầu từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, luôn ưu tiên những công việc
mà trước đây người bệnh đã làm, có năng khiếu và niềm ham thích.
Lao động với hình thức tập thể là chủ yếu
Có sự đánh giá, động viên, khen thưởng.
Ít nhiều nhưng phải có trả công thích hợp cho từng người bệnh.
1.3.2. Tâm lý trị liệu
Tâm lý trị liệu là sự giúp đỡ tâm lý cho những người khó khăn về tâm lý khác
nhau.Tâm lý trị liệu là tổ hợp những tác động trị liệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ lên
cảm xúc, ý kiến, tự ý thức của những người có bệnh tâm lý thần kinh và bệnh tâm
thể.
Tâm lý trị liệu định hướng chủ yếu nhằm giảm bớt hoặc xóa bỏ những triệu
chứng hiện có và liệu pháp tâm lý định hướng nhân cách nhằm giúp đối tượng thay
đổi các mối quan hệ của họ đối với môi trường xã hội và nhân cách của mình.

Tâm lý trị liệu nhóm là việc sử dụng những quy luật tâm lý của quan hệ liên
quan đến nhân cách trong nhóm nhằm đạt được những tiến triển tâm lý và thể chất
tích cực cho mỗi thành viên trong nhóm.
Tâm lý trị liệu có thể là những hành động nhằm cố gắng cảm thông với đối
tượng đang đau khổ và được coi là đang thực hành tâm lý trị liệu.
Vậy tâm lý trị liệu là các phương pháp, các kỹ thuật mà nhà trị liệu sử dụng để
tác động tới tâm lý người bệnh một cách tích cực, có hệ thống nhằm mục đích
phòng và chữa bệnh.
1.3.3. Huấn luyện kỹ năng
Trong quá trình mắc bệnh các chức năng của người tâm thần bị suy giảm, kéo
theo đó là sự mất dần các kỹ năng cơ bản trong cuộc sống hàng ngày như vệ sinh cá
nhân, ăn, nghỉ, gấp chăn màn quần áo... Do đó bên cạnh phục hồi chức năng tâm lý
việc huấn luyện lại kỹ năng cho người bện là hết sức quan trọng.
Nội dung của huấn luyện kỹ năng bao gồm huấn luyện các kỹ năng như tắm
gội, cắt tóc, cạo râu, đánh răng, rửa mặt, giặt quần áo...
Nội dung huấn luyện kỹ năng do nhân viên Trung tâm hướng dẫn và lồng ghép
vào các buổi sinh hoạt chuyên đề.

17


1.3.4. Vai trò của Văn nghệ - thể dục thể thao và các hoạt động giải trí
1.3.4.1. Văn hóa - văn nghệ
Mục đích của văn hóa - văn nghệ nhằm tạo cảm xúc hưng phấn, trạng thái vui
vẻ, nhanh nhẹn, cải thiện trí nhớ cho bệnh nhân. Đồng thời văn hóa – văn nghệ còn
giúp cho bệnh nhân thư giãn hiệu quả. Trong y học đã ứng dụng âm nhạc vào chữa
trị bệnh và kết quả cho thấy âm nhạc có tác dụng với bệnh nhân. Đối với bệnh nhân
tâm thần cũng vậy, âm nhạc mang lại sự thư giãn cho họ và cũng giúp họ tập trung
hơn, tránh được những ảo thanh, ảo giác...
Nội dung của văn hóa – văn nghệ trị liệu bao gồm các bài hát, bản nhạc ,

karaoke, nghe nhạc và thực hiện bài tập với nội dung của bài hát. Nhìn chung các
hoạt động được thay đổi liên tục, sáng tạo để thu hút sự tham gia của các bệnh nhân.
Kết quả quan sát cho thấy liệu pháp văn hóa – văn nghệ rất thu hút sự tham gia của
bệnh nhân. Phần lớn các bệnh nhân thích hoạt động học hát, vì vậy hoạt động này
được các nhà trị liệu lựa chọn và duy trì lâu dài.
1.3.4.2. Hoạt động thể dục thể thao
Khoa học đã chứng minh rèn luyện thể dục thể thao giúp tăng quá trình sản xuất
các hocmone có lợi thúc đẩy phát triển các chất dẫn truyền thần kinh. Ngoài ra,
luyện tập còn giúp tăng lưu lượng máu và ô xi đến não, nuôi dưỡng và thúc đẩy các
mạch máu hoạt động.
Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao giúp cải thiện sức chịu đựng và sự
linh hoạt của cơ bắp.Các bài tập thường xuyên rất tốt cho sự phát triển của não bộ.
Căng thẳng là phần tất yếu của cuộc sống đặc biệt là những người tâm thần,
luyện tập thể dục thể thao giúp tiêu tan các tác động của hocmone xấu, do đó giúp
đối tượng tăng khả năng thư giãn.
Tập thể dục có thể nhanh chóng làm dịu cảm xúc của đối tượng, nó không chỉ
tiếp thêm sinh lực cho đối tượng, giúp cải thiện thể lực mà còn hỗ trợ giúp ổn định
tâm trạng, đẩy lùi các suy nghĩ tiêu cực.Tập luyện hàng ngày giúp giải phóng các
nội tiết tố có tác dụng làm dịu thần kinh như serotonins, giúp ổn định tâm trạng và
giảm thiểu các kích thích có hại. Với một dòng serotonins trong hệ thống, cơ thể

18


được hướng về tình trạng lắng dịu về cảm xúc, giúp đối tượng hạn chế những suy
nghĩ tiêu cực và nhìn nhận mọi thứ theo hướng tích cực.
1.3.4.3. Hoạt động vui chơi giải trí
Hoạt động vui chơi giải trí là loại hình nhóm rất hữu hiệu cho quá trình làm
việc nhóm với người tâm thần.Đặc biệt, loại hình này đem đến cho người tâm thần
sự thoải mãi trong hoạt động nhóm với tính chất giải trí đặt lên hàng đầu, vì thế có

khả năng lôi kéo sự tham gia của đối tượng người tâm thần. Thông qua các hoạt
động vui chơi giải trí người tâm thần bộc lộ bản thân, được thể hiện mình, được
phát huy vai trò và học được các giá trị, các kỹ năng để có được những hành vi, tình
cảm tích cực, được sống trong môi trường thân thiện và hòa đồng.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm với người tâm thần
1.4.1. Vai trò của nhân viên công tác xã hội
NVCTXH là những người được đào tạo kiến thức và kỹ năng chuyên môn về
trợ giúp người tâm thần có những vai trò sau:
NVCTXH là người tham vấn cho người tâm thần đang dược nuôi dưỡng tại các
Trung tâm BTXH về tâm lý, trong đó NVCTXH sử dụng những kiến thức, kỹ năng
chuyên môn để thiết lập mối quan hệ tương tác tích cực với người tâm thần và gia
đình họ nhằm thay đổi cảm xúc, hành vi của họ.
NVCTXH đại diện, can thiệp và bảo vệ những quyền lợi, lợi ích cho người tâm
thần và gia đình họ nhằm hướng tới sự công bằng xã hội.
NVCTXH là người trợ giúp đối tượng tìm kiếm các nguồn lực để giải quyết vấn
đề, kết nối các dịch vụ chính sách để giải quyết vấn đề.
NVCTXH là người tạo ra sự thay đổi cho cá nhân, nhóm, cộng đồng giúp họ
thay đổi suy nghĩ, thay đổi hành vi tiêu cực với người tâm thần.
NVCTXH còn là người chăm sóc, trợ giúp cho cá nhân và gia đình người tâm
thần nhằm đáp ứng nhu cầu của mình và giải quyết vấn đề. Đặc biệt với những
người tâm thần nặng, việc chăm sóc giảm nhẹ, phục hồi chức năng luôn có sự tham
gia của NVCTXH.

19


1.4.2. Vai trò của gia đình đối tượng người tâm thần
Gia đình phải có thái độ tôn trọng, yêu thương, chấp nhận cùng Trung tâm giúp
bệnh nhân xây dựng lòng tự tin và niềm vui trong cuộc sống tại Trung tâm.
Thường xuyên thăm hỏi động viên đối tượng bằng sự cảm thông, luôn tỏ ra lắng

nghe bệnh nhân dù bệnh nhân nói những điều không có ý nghĩa.
Động viên bệnh nhân chấp hành nội quy quy chế của Trung tâm như: ăn, ngủ,
nghỉ, nề nếp sinh hoạt ...
Nhắc nhở bệnh nhân tự chăm sóc bản thân, tự giặt giũ, giữ gìn vệ sinh chung.
Động viên bệnh nhân chịu khó vận động, luyện tập thể dục thể thao, giữ gìn sức
khỏe.
Gia đình người thân của bệnh nhân phải có kiến thức về bệnh tâm thần mà đối
tượng gặp phải, cùng phối hợp với Trung tâm trong chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc
nuôi dưỡng bệnh nhân.
1.4.3. Yếu tố thuộc về người tâm thần
Người tâm thần có rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, có nhiều người sinh ra đã bị
bệnh, có người trong cuộc sống mới bị phát bệnh. Một số người tâm thần không
được gia đình quan tâm chăm sóc, đi lang thang do quá nghèo hoặc bố mẹ và người
thân cũng mắc bệnh tâm thần. Nguồn đảm bảo cho cuộc sống như: chế độ dinh
dưỡng, an toàn trong chăm sóc, chữa bệnh, giáo dục... cho người tâm thần rất hạn
chế hoặc không có.
Người tâm thần thường chịu sự thái độ ghẻ lạnh của người thân, gia đình và
cộng đồng khiến họ cảm thấy bị coi khinh, dần dần mất động lực chiến đấu với
bệnh tật, mất niềm tin trong cuộc sống, từ đó họ tỏ ra rất hung tính hay tức giận, gây
hấn với người khác hoặc ngược lại sống khép mình, mặc cảm, buồn bã, cô đơn.
Trong cộng đồng, người tâm thần khó có thể tham gia các sinh hoạt cộng đồng
như: Vui chơi, học tập.... Điều này làm cản trở đến quyền và sự tham gia của họ vào
đời sống xã hội.
Bị cộng đồng xa lánh, thậm chí bị chính cả người thân trong gia đình, họ hàng
ghẻ lạnh. Vì vậy họ rất thiếu tình yêu thương, tâm trạng cô đơn, lo sợ, mặc cảm, tủi
phận... Nên cuộc sống thiếu niềm tin, không thấy ý nghĩa trong cuộc sống.

20



Từ những đặc điểm trên, nhân viên CTXH, cán bộ quản lý phải có phương thức
tiếp cận đúng đắn, đó là: Phải thực sự có lòng yêu thương và chăm sóc người tâm
thần như chính người thân trong gia đình. Nhiều lúc phải âu yếm, vỗ về, bón cơm,
tắm rửa... cho họ mặc dù công việc này hết sức vất vả.
1.4.4. Yếu tố quan điểm của lãnh đạo
CTXH với người tâm thần cũng cần có tác động tích cực vai trò lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội đối với việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội đối với người tâm thần; hỗ trợ việc khắc phục kịp thời
những hạn chế trong quản lý Nhà nước; cụ thể hóa các mục tiêu đã đề ra trong các
Nghị quyết, chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ hằng năm của các cấp ủy Đảng; phát
huy sức mạnh của các cấp chính quyền, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong
việc thực hiện các chương trình, chính sách an sinh xã hội đối với người tâm thần.
1.4.5. Yếu tố cơ sở vật chất, nguồn kinh phí
1.4.5.1. Yếu tố cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất có ảnh hưởng rất lớn đến việc
chăm sóc chữa trị cho đối tượng tâm thần. Nếu cơ sở vật chất tốt nó góp phần quan
trọng trong việc nuôi dưỡng chăm sóc đối tương tâm thần. Cơ sở vật chất cho các
Trung tâm bảo trợ nuôi dưỡng người tâm thần là:
Diện tích đất.
Nhà điều hành.
Nhà làm việc của cán bộ.
Nhà nuôi dưỡng đối tượng.
Khu lao động, trị liệu.
Khu vui chơi, giải trí, thể dục thể thao.
Các điều kiện cơ sở vật chất khác.
1.4.5.2. Nguồn kinh phí: Kinh phí là một yếu tố quan trọng và thiết thực
trong việc duy trì các hoạt động CTXH với người tâm thần. Phải xác định rõ nguồn
kinh phí để duy trì các hoạt động và phải sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng
phí. Nguồn kinh phí đó là:
Nguồn ngân sách nhà nước.
Nguồn do gia đình người tâm thần đóng góp.


21


×